Tiểu luận Tác động của hoàn cảnh sống đến vốn từ vựng ở trẻ độ tuổi mẫu

MỤC LỤC A- Phần mở đầu 1. Lịch sử nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 2. Lý do chọn đề tài 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu B- Phần nội dung Chương I: Một số vấn đề lý luận chung 1. Đặc trưng cơ bản tâm lý của trẻ ở độ tuổi mẫu giáo 2. Vai trò của hoàn cảnh, môi trường sống đến ngôn ngữ giao tiếp 3. Một số khái niệm cơ bản trong phạm vi nghiên cứu 3.1. Từ vựng 3.2. Phương ngữ Chương II: Sự tác động của hoàn cảnh sống đến ngôn ngữ của trẻ 1. Sự tác động của gia đình 1.1. Địa bàn sinh sống của gia đình 1.2. Thành phần gia đình 1.3. Sự tác động về mặt nghề nghiệp và tuổi đời bố mẹ 2. Sự tác động về phía nhà trường 2.1. Địa điểm nhà trường 2.2. Sự tác động thông qua nội dung bài học 3. Mối quan hệ giữa nhà gia đình và nhà trường trong việc hình thành vốn từ vựng của trẻ C- Phần kết luận TÀI LIỆU THAM KHẢO A- Phần mở đầu 1. Lịch sử nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Ngôn ngữ trẻ em không chỉ là vấn đề mà ngôn ngữ học khai thác mà còn thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành khoa học khác như tâm lý học, xã hội học, tâm thần học Tâm lý học nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em để rút ra mối liên hệ giữa ngôn ngữ và tâm lý trẻ; xã hội học nhằm vào mục đích để minh chứng, giải thích thêm về các hành động xã hội của trẻ, tâm thần học nghiên cứu ngôn ngữ trẻ để chữa và trị các bệnh về tâm lý cho trẻ Nói chung, ngôn ngữ là một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Xét ở phương diện ngôn ngữ học, chúng ta không quan tâm đến sự tác động của ngôn ngữ ở phạm vi của các ngành khoa học khác mà tập trung khai thác nó ở các khía cạnh ngôn ngữ học xã hội - tức là xem xét chiều hướng sử dụng ngôn ngữ của một bộ phận, một nhóm người, mà cụ thể ở đây là trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo để rút ra quy luật sử dụng ngôn ngữ của trẻ. Trong ngôn ngữ học, đã có một số đề tài đi vào khai thác về ngôn ngữ học trẻ em tiền học đường. Song, sự nghiên cứu thường tập trung vào vốn ngôn ngữ theo quá trình phát triển tâm lý hoặc một số vấn đề về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp trong một bối cảnh nhất định. Trong phạm vi niên luận này, tôi sẽ tập trung nghiên cứu về sự tác động một cách tổng thể của hoàn cảnh sống đến sự hình thành và phát triển vốn từ vựng của trẻ em độ tuổi mẫu giáo - tức độ tuổi 3 -5, độ tuổi mà khả năng giao tiếp của trẻ cơ bản được định hình. 2. Lý do chọn đề tài Trẻ ở tuổi từ 3 đến 5, có khả năng hình thành ngôn ngữ mạnh mẽ. Ở giai đạn tuổi này, khả năng bắt trước cách diễn đạt ở trẻ rất cao, do vậy bất cứ một từ, một khái niệm, một cách nói nào của người lớn cũng được trẻ nhanh chóng tiếp thu và vận dụng. Hơn thế, nghiên cứu về hoàn cảnh tác động đến ngôn ngữ của trẻ giai đoạn mẫu giáo lớn cũng có những đặc điểm riêng. Ở độ tuổi từ 1 đến 3, tuy khả năng tiếp thu ngôn ngữ của trẻ cũng khá mạnh nhưng vốn từ cho các giao tiếp cơ bản hầu như chưa hình thành. Ở giai đoạn từ 3-5 tuổi, nhìn chung khả năng giao tiếp với vốn từ thông dụng đã hình thành. Theo đó, sự khác biệt về ngôn ngữ của trẻ do hoàn cảnh sống chi phối được thể hiện một cách rõ rệt hơn. Ở lứa tuổi học đường, mặc dù môi trường chủ yếu của các em là gia đình và nhà trường nhưng lúc này các sinh hoạt và giao tiếp ngoài phạm vi đó cũng đã hình thành (chẳng hạn tham gia nhiều chương trình học, nhiều khoá học khác nhau; tự tổ chức đi picnic mà không có sự tham gia của gia đình và trường, quan hệ bạn bè mở rộng hơn ). Ở lứa tuổi trưởng thành, môi trường, hoàn cảnh giao tiếp của họ rất phức tạp, theo đó ta khó bóc tách môi trường sống của họ để nghiên cứu về tác động của môi trường sống đến ngôn ngữ của họ một cách tổng hợp. Tác động của hoàn cảnh sống ở đây chủ yếu được khai thác ở một khía cạnh nào đó (nghề nghiệp, gia đình ). Song, trên thực tế môi trường sống và sự tiếp xúc của họ phức tạp hơn rất nhiều, do đó việc nghiên cứu tác động của hoàn cảnh, môi trường sống của họ có nhiều điểm phức tạp. Độ tuổi 3-5 , hoàn cảnh môi trường chủ yếu của trẻ là gia đình và nhà trường. Mọi hoạt động của trẻ hầu như không tách rời hai môi trường đó và nó chi phối hoàn toàn tới khả năng giao tiếp của các em. Do đó, việc tác động của hoàn cảnh sống và môi trường sống đến ngôn ngôn ngữ của độ tuổi này được thể hiện một cách rõ nét, khiến ta dễ dàng nhận ra hơn. Từ đó việc nghiên cứu sự tác động tổng thể của môi trường sống đến sự hình thành vốn từ vựng của trẻ hoàn toàn có tính khả thi. 3. Mục đích nghiên cứu Từ việc nghiên cứu đề tài này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn vai trò của hoàn cảnh sống đối với việc hình thành ngôn ngữ của trẻ, đồng thời cũng thấy rõ hơn các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành đó. Thông qua các kết quả thu được từ nghiên cứu này, chúng ta có thể rút kinh nghiệm và có những cách thức hợp lý trong quá trình giáo dục ngôn ngữ cho trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo lớn. 4. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này, phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử dụng là quan sát nhằm nắm bắt được hành vi nói năng của đối tượng. Đối tượng quan sát chủ yếu mà chúng tôi khai thác bao gồm tất cả các trường hợp liên quan: .Trẻ em ở nông thôn .Trẻ em ở thành thị .Trẻ em có thành phần gia đình khác nhau. - Phương pháp quan sát: Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đã trực tiếp đến nhà các gia đình và các trường học có trẻ trong đối tượng quan sát để tiến hành quan sát. Vì yêu cầu của đề tài nghiên cứu nên chúng tôi không chỉ quan sát đối tượng trung tâm là trẻ mà còn kết hợp với việc quan sát các đối tượng khác trong môi trường trong phạm vi giao tiếp của trẻ. Việc quan sát được kết hợp và vận dụng nhiều loại khác nhau, bao gồm: quan sát kín; quan sát ẩn và nhanh; quan sát có tham dự để có thể thu được kết quả tốt nhất với các dạng đối tượng khác nhau. Việc quan sát được thực hiện cùng quá trình ghi chép, ghi âm để lấy được dẫn chứng xác thực và hiệu quả.

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1983 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tác động của hoàn cảnh sống đến vốn từ vựng ở trẻ độ tuổi mẫu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tác động của hoàn cảnh sống đến vốn từ vựng ở trẻ độ tuổi mẫu A- Phần mở đầu 1. Lịch sử nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Ngôn ngữ trẻ em không chỉ là vấn đề mà ngôn ngữ học khai thác mà còn thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành khoa học khác như tâm lý học, xã hội học, tâm thần học…Tâm lý học nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em để rút ra mối liên hệ giữa ngôn ngữ và tâm lý trẻ; xã hội học nhằm vào mục đích để minh chứng, giải thích thêm về các hành động xã hội của trẻ, tâm thần học nghiên cứu ngôn ngữ trẻ để chữa và trị các bệnh về tâm lý cho trẻ …Nói chung, ngôn ngữ là một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Xét ở phương diện ngôn ngữ học, chúng ta không quan tâm đến sự tác động của ngôn ngữ ở phạm vi của các ngành khoa học khác mà tập trung khai thác nó ở các khía cạnh ngôn ngữ học xã hội - tức là xem xét chiều hướng sử dụng ngôn ngữ của một bộ phận, một nhóm người, mà cụ thể ở đây là trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo để rút ra quy luật sử dụng ngôn ngữ của trẻ. Trong ngôn ngữ học, đã có một số đề tài đi vào khai thác về ngôn ngữ học trẻ em tiền học đường. Song, sự nghiên cứu thường tập trung vào vốn ngôn ngữ theo quá trình phát triển tâm lý hoặc một số vấn đề về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp trong một bối cảnh nhất định. Trong phạm vi niên luận này, tôi sẽ tập trung nghiên cứu về sự tác động một cách tổng thể của hoàn cảnh sống đến sự hình thành và phát triển vốn từ vựng của trẻ em độ tuổi mẫu giáo - tức độ tuổi 3 -5, độ tuổi mà khả năng giao tiếp của trẻ cơ bản được định hình. 2. Lý do chọn đề tài Trẻ ở tuổi từ 3 đến 5, có khả năng hình thành ngôn ngữ mạnh mẽ. Ở giai đạn tuổi này, khả năng bắt trước cách diễn đạt ở trẻ rất cao, do vậy bất cứ một từ, một khái niệm, một cách nói nào của người lớn cũng được trẻ nhanh chóng tiếp thu và vận dụng. Hơn thế, nghiên cứu về hoàn cảnh tác động đến ngôn ngữ của trẻ giai đoạn mẫu giáo lớn cũng có những đặc điểm riêng. Ở độ tuổi từ 1 đến 3, tuy khả năng tiếp thu ngôn ngữ của trẻ cũng khá mạnh nhưng vốn từ cho các giao tiếp cơ bản hầu như chưa hình thành. Ở giai đoạn từ 3-5 tuổi, nhìn chung khả năng giao tiếp với vốn từ thông dụng đã hình thành. Theo đó, sự khác biệt về ngôn ngữ của trẻ do hoàn cảnh sống chi phối được thể hiện một cách rõ rệt hơn. Ở lứa tuổi học đường, mặc dù môi trường chủ yếu của các em là gia đình và nhà trường nhưng lúc này các sinh hoạt và giao tiếp ngoài phạm vi đó cũng đã hình thành (chẳng hạn tham gia nhiều chương trình học, nhiều khoá học khác nhau; tự tổ chức đi picnic mà không có sự tham gia của gia đình và trường, quan hệ bạn bè mở rộng hơn…). Ở lứa tuổi trưởng thành, môi trường, hoàn cảnh giao tiếp của họ rất phức tạp, theo đó ta khó bóc tách môi trường sống của họ để nghiên cứu về tác động của môi trường sống đến ngôn ngữ của họ một cách tổng hợp. Tác động của hoàn cảnh sống ở đây chủ yếu được khai thác ở một khía cạnh nào đó (nghề nghiệp, gia đình…). Song, trên thực tế môi trường sống và sự tiếp xúc của họ phức tạp hơn rất nhiều, do đó việc nghiên cứu tác động của hoàn cảnh, môi trường sống của họ có nhiều điểm phức tạp. Độ tuổi 3-5 , hoàn cảnh môi trường chủ yếu của trẻ là gia đình và nhà trường. Mọi hoạt động của trẻ hầu như không tách rời hai môi trường đó và nó chi phối hoàn toàn tới khả năng giao tiếp của các em. Do đó, việc tác động của hoàn cảnh sống và môi trường sống đến ngôn ngôn ngữ của độ tuổi này được thể hiện một cách rõ nét, khiến ta dễ dàng nhận ra hơn. Từ đó việc nghiên cứu sự tác động tổng thể của môi trường sống đến sự hình thành vốn từ vựng của trẻ hoàn toàn có tính khả thi. 3. Mục đích nghiên cứu Từ việc nghiên cứu đề tài này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn vai trò của hoàn cảnh sống đối với việc hình thành ngôn ngữ của trẻ, đồng thời cũng thấy rõ hơn các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành đó. Thông qua các kết quả thu được từ nghiên cứu này, chúng ta có thể rút kinh nghiệm và có những cách thức hợp lý trong quá trình giáo dục ngôn ngữ cho trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo lớn. 4. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này, phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử dụng là quan sát nhằm nắm bắt được hành vi nói năng của đối tượng. Đối tượng quan sát chủ yếu mà chúng tôi khai thác bao gồm tất cả các trường hợp liên quan: .Trẻ em ở nông thôn .Trẻ em ở thành thị .Trẻ em có thành phần gia đình khác nhau. - Phương pháp quan sát: Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đã trực tiếp đến nhà các gia đình và các trường học có trẻ trong đối tượng quan sát để tiến hành quan sát. Vì yêu cầu của đề tài nghiên cứu nên chúng tôi không chỉ quan sát đối tượng trung tâm là trẻ mà còn kết hợp với việc quan sát các đối tượng khác trong môi trường trong phạm vi giao tiếp của trẻ. Việc quan sát được kết hợp và vận dụng nhiều loại khác nhau, bao gồm: quan sát kín; quan sát ẩn và nhanh; quan sát có tham dự để có thể thu được kết quả tốt nhất với các dạng đối tượng khác nhau. Việc quan sát được thực hiện cùng quá trình ghi chép, ghi âm để lấy được dẫn chứng xác thực và hiệu quả. B- Phần nội dung Chương I: Một số vấn đề lý luận chung 1. Đặc trưng cơ bản tâm lý của trẻ ở độ tuổi mẫu giáo Tâm lý mỗi cá nhân con người không phải khi nào cũng giống nhau mà ở mỗi giai đoạn có những đặc trưng riêng.Thời kỳ từ 3-5 tuổi, hoạt động chủ yếu là chơi với bạn. Trò chơi mà trẻ hay chơi nhất lúc này là trò chơi sắm vai. Trong trò chơi này, trẻ sẽ đóng các vai khác nhau trong gia đình (như bố mẹ, con cái…) hay các vai trong nghề nghiệp xã hội (công an, bác sĩ, công nhân,…). Từ đó trẻ đồng thời nhận ra và nhận biết rõ hơn một số vị trí, chức năng trong gia đình cũng như xã hội… Về đặc trưng tâm lý, lúc này nổi bật nhất là ý thức bản ngã, ; sự rung động đạo thức thẩm mỹ, tư duy trực quan hình tượng. Ngôn ngữ và tâm lý có quan hệ mật thiết với nhau; bởi vậy,cùng với sự xuất hiện của các tâm lý mới, ngôn ngữ của trẻ cũng có những thay đổi nhất định. Khả năng biểu đạt ngôn ngữ từ các phương diện từ vựng, ngữ âm, ngữ pháp vì thế mà phong phú hơn. 2. Vai trò của hoàn cảnh, môi trường sống đến ngôn ngữ giao tiếp Hoàn cảnh, môi trường sống có tác động lớn lao đến quá trình hình thành, phát triển ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp của con người. Đối với người trưởng thành, ảnh hưởng của hoàn cảnh môi trường đến ngôn ngữ của họ là có sự chọn lọc. Mỗi cá nhân có một bộ lọc ngôn ngữ riêng do nhân cách, đạo đức và quan niệm thẩm mỹ quy định. Song, ở trẻ em, nhất là giai đoạn trẻ em tiền học đường, do đặc điểm về hiểu biết còn hạn chế nên khả năng tiếp thu có chọn lọc rất kém. Sự bắt trước và làm theo mọi người xung quanh là hoạt động nổi bật ở giai đoạn này, bởi thế môi trường sống của trẻ hay cụ thể hơn là ngôn ngữ của những người xunh quanh có tác động lớn đến ngôn ngữ của trẻ. Một từ, một cách nói hoặc một kiểu phát âm nào đó nếu lặp lại vài lần trước trẻ thì ngôn ngữ đó sẽ dễ dàng trở thành ngôn ngữ của trẻ. Đối với trẻ em tiền học đường, do chưa có nhiều hành động tự do nên môi trường chủ yếu của chúng là gia đình và nhà trường. Bởi thế, tôi sẽ tập trung đi vào phân tích sự tác động của hoàn cảnh sống đến ngôn ngữ trẻ mẫu giáo chủ yếu ở hai điểm: môi trường gia đình và môi trường nhà trường. Ở mỗi điểm vừa nêu, tôi sẽ đi vào phân tích khả năng tiếp thu vốn từ vựng của trẻ. 3. Một số khái niệm cơ bản trong phạm vi nghiên cứu 3.1. Từ vựng Hiện nay có khoảng hơn 300 định nghĩa khác nhau về từ. Nhìn chung, không có định nghĩa nào chung về từ làm mọi người thoả mãn. Với tư cách định nghĩa sơ bộ, có tính giả thiết để làm việc, giáo sư Nguyễn Thiện Giáp đã đua ra định nghĩa về từ là “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ,được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu”. Nếu chiết tự, “vựng” là yếu tố Hán có nghĩa là “sưu tập, tập hợp các từ của ngôn ngữ. Nó không chỉ bao gồm các từ mà còn bao gồm cả các ngữ, tức là những cụm từ sẵn có, tương đương với từ, chẳng hạn như các thành ngữ tiến Việt: xanh vỏ đỏ lòng, con dại cái mang, mẹ tròn con vuông,….Tuy nhiên, trong các đơn vị từ vựng thì từ là đơn vị cơ bản, ngữ không phải là đơn vị từ vựng cơ bản, vì nó do các từ cấu tạo nên, muốn có các ngữ trước hết phải có các từ. 3.2. Phương ngữ Phương ngữ cũng là một khái niệm mà tôi thường xuyên sử dụng trong bài. Theo Hoàng Thị Châu thì “ phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay so với một phương ngữ khác”. Nói như vậy có nghĩa là khái niệm phương ngữ không chỉ bao gồm một mặt nào đó của phương ngữ mà nó bao gồm mọi mặt của một ngôn ngữ ( ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng). Trong phạm vi niên luận này, phương ngữ mà tôi đề cập đến là xét ở khía cạnh từ vựng. Nó tương đương với từ “tiếng địa phương”. Chương II: Sự tác động của hoàn cảnh sống đến ngôn ngữ của trẻ 1. Sự tác động của gia đình Gia đình là môi trường đầu tiên của trẻ bởi vậy ngôn ngữ của các thành viên trong gia đình có tác động lớn đến sự hình thành ngôn ngữ của trẻ. Khi đi học ở nhà trẻ, mẫu giáo, các mối quan hệ của trẻ được mở rộng thêm, song thời gian ở nhà của trẻ vẫn nhiều và đặc biệt là những thành viên trong gia đình luôn là những đối tượng gần gũi nhất, bởi thế sự ảnh hưởng từ gia đình đối với ngôn ngữ trẻ là thường trực và lớn lao. Nghiên cứu sự tác động của gia đình đến ngôn ngữ của trẻ, tôi sẽ chú ý phân tích các yếu tố, các đối tượng trực tiếp chi phối đến việc giao tiếp của trẻ như: địa bàn sinh sống của gia đình, thành phần gia đình, nghề nghiệp bố mẹ. 1.1. Địa bàn sinh sống của gia đình Quan sát một số đối tượng trẻ em thuộc các địa bàn sinh sống khác nhau, ta thấy trẻ em cũng chịu tác động bởi sự chi phối của các yếu tố từ vựng của địa phương. Sự tác động này đi theo con đường gián tiếp, đầu tiên là thông qua các thành viên trong gia đình. Ví dụ: Khi quan sát trẻ em trên địa bàn ở Thanh Hoá, ta thấy một số từ địa phương có trong ngôn ngữ của trẻ như: Ngôn ngữ địa phương Ngôn ngữ toàn dân bồng bồng roi môi muôi Đớ Xấu hổ Hòm dương đánh nhau đánh chắc bà mậu cua dạm choa bọn tao mô đâu răng gì tê kia rứa thế cây đu cây xoan Trẻ em ở khu vực Nghệ Tĩnh cũng có vốn từ vựng đặc trưng cuả địa phương: Từ địa phương Từ toàn dân bà mậu nước nác sàng tràng đu đủ thu đủ chào mào chúc mào gạo gấu trâu tru cát gát muỗi mọi đầu trốc đánh nhau đập chắc không nỏ xoan sầu đâu rứa gai Trẻ em khi ở địa bàn khác, chẳng hạn như Hà Nội thì rõ ràng vốn từ vựng sẽ có một số điểm khác biệt so với các địa phương khác. Mặt khác, địa bàn sinh sống của trẻ còn chi phối đến ngôn ngữ của trẻ thông qua những yếu tố về kinh tế - xã hội. Quan sát vốn từ vựng giữa trẻ em thành thị và trẻ em ở nông thôn, ta thấy có sự khác nhau nhất định. Những từ vựng mà trẻ thành thị hay dùng có thể hiếm xuất hiện ở trẻ em nông thôn và ngược lại. Ví dụ: trẻ em thành thị thường dùng các thừ như: siêu thị, máy tính, tủ lạnh, lò vi sóng, máy giặt, công viên, rạp chiếu phim, và một số từ có nguồn gốc nước ngoài như: bye (bai), hi (hai), cancel, salông, usb, mp3,… Trong khi đó, trẻ em nông thôn lại thường rất hay sử dụng những từ mà trẻ em thành thị hiếm khi dùng như: cày, bừa, ruộng, công nông, lúa, mạ, cây chuối, cây na, cây khế, trâu, nghé, bò, gà, ao, vườn, dần, sàng, thúng, mẹt,.. Sở dĩ, quá trình hình thành ngôn ngữ như trên là do giữa thành thị và nông thôn có sự khác biệt về môi trưòng cũng như điều kiện sống. Ở các lứa tuổi khác, địa bàn sống cũng có ảnh hưởng đến vốn từ thường dùng của họ. Song, có sự khác nhau cơ bản giữa trẻ thời kỳ mẫu giáo và các lứa tuổi lớn hơn về thói quen sử dụng ngôn ngữ. Ở các lứa tuổi khác, mặc dù tần số sử dụng một số từ vựng có thể không cao nhưng không có nghĩa là họ không hiểu nghĩa của các từ đó. Ngược lại, ở trẻ em tiền học đường thì việc không hay sử dụng thường đồng nghĩa với việc trẻ chưa có vốn từ đó. Chẳng hạn, trẻ em ở nông thôn thường chưa có các vốn từ như: siêu thị, công viên, rạp chiếu phim, lò vi sóng, máy giặt,…Trẻ con thành thị lại chưa có vốn từ: mạ, dần, sàng, nghé, ao,…. Ngoài ra, vốn từ về ngôn ngữ xưng hô ở Việt Nam giữa trẻ thành thị và nông thôn có sự khác nhau nhất định do tính chất và phạm vi quan hệ gia đình, họ hàng giữa thành thị và nông thôn có sự khác nhau. Trẻ em nông thôn bao giờ cũng có vốn từ xưng hô nhiều hơn so với trẻ em thành thị. Nếu như vốn từ vựng xưng hô của trẻ thành thị thường là những từ như: ông, bà, bố mẹ, cô, chú, bác,… thì trẻ em ở nông thôn thường dùng thêm một số vốn từ xưng hô khác như: thím, o, cậu, gì, ông chú, bà thím, ông bác, ông cậu,… 1.2. Thành phần gia đình Bên cạnh yếu tố về địa bàn sinh sống của gia đình thì thành phần gia đình cũng có những những tác động lớn đối với vốn từ vựng của trẻ. Trên thực tế trong quá trình nghiên cứu, tôi thấy rằng các gia đình có cấu tạo thành phần gia đình khác nhau thì khả năng từ vựng của trẻ cũng khác nhau. Việc có chung sống với ông bà trong cùng gia đình hay không có ảnh hưởng rất lớn đến ngôn ngữ từ vựng của trẻ. Cùng địa bàn sinh sống nhưng vốn ngôn ngữ của những người cao tuổi và của các thế hệ khác có những điểm khác biệt nhất định. Quan sát một số gia đình có trẻ sống cùng ông bà cho thấy số từ địa phương đương thời không còn thông dụng đã xuất hiện trong ngôn ngữ trẻ như: chốc (đầu), nác (nước), lả (lửa), đầu cún (đầu gối), mũ lãn trai (mũ lưỡi trai), con tru (con trâu)…ở địa phương Thanh Hoá. Việc chung sống với ông bà sẽ có những tác động tích cực đối với việc sử dụng các ngữ của trẻ. Do vốn từ còn hạn chế nên ta có thể dễ dàng thống kê vốn từ vựng của trẻ là các ngữ. Theo số liệu mà chúng tôi thống kê được thì số lượng các ngữ của trẻ em không sống với ông bà hầu như không có, hoặc chỉ ở con số rất nhỏ (từ 1- 3 thành ngữ). Trong khi đó số lượng ngữ mà trẻ em sống với ông bà thường có là khoảng từ 8-10 từ. Những thành ngữ mà trẻ tiếp thu được thường nói vê những vấn đề gần gũi với trẻ và không quá khó hiểu như: thao thao bất tuyệt, xanh vỏ đỏ lòng, giận cá chém thớt; nước đổ lá khoai; chó chê mèo lắm lông; chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng, … Sở dĩ có hiện tượng này là do người già có thói quen sử dụng thành ngữ trong giao tiếp nhiều hơn giới trẻ. Trẻ sống với ông bà từ đó sẽ có điều kiện thường xuyên tiếp xúc với thành ngữ nên việc hiểu, vận dụng thành ngữ trong giao tiếp cũng tốt hơn hơn so với các trẻ khác. Nếu đặc điểm phương ngữ của ông bà với phương ngữ địa bàn sinh sống của trẻ có khác biệt thì phạm vi tác động của ông bà đến ngôn ngữ của trẻ càng lớn hơn. Điều này thường phổ biến đối với những gia đình có sự di chuyển về địa bàn sinh sống, sau đó ông bà chuyển ra ở cùng. Trong khi bố mẹ của trẻ là những người gần như đã có sự thay đổi ngôn ngữ để phù hợp với môi trường mới, thì ông bà vẫn còn mang đặc điểm của vốn ngôn ngữ của địa phương mình. Sự tác động của ngôn ngữ ông bà đến ngôn ngữ trẻ lúc này diễn ra ở nhiều mặt, không chỉ về mặt ngữ âm mà còn thấy rõ ở cả phần từ vựng. Lúc này vốn từ địa phương của ông bà sẽ nhanh chóng trở thành vốn từ vựng của trẻ. Khi quan sát một số trẻ trong thành phần gia đình trên, ta thấy vốn từ vựng địa phương của trẻ phong phú hơn với so với những trẻ sống trong môi trường có vốn từ địa phương thuần nhất. Quan sát 2 trẻ em cùng sống ở địa bàn Hà Nội, một trẻ có môi trường giao tiếp trong gia đình là những người thuần đặc điểm ngôn ngữ Hà Nội và trẻ em có ông bà hoặc người nhà có vốn từ vựng của địa phương khác, tôi thấy có điểm khác nhau trong vốn từ. Ở trẻ em có môi trường ngôn ngữ của gia đình thuộc nhóm thứ nhất thì vốn từ vựng của trẻ hầu như là vốn từ vựng mang đặc trưng của địa phương đang sống, còn nhóm trẻ em ở trường hợp thứ hai lại còn biết thêm vốn từ vựng của địa phương khác. Chẳng hạn, những trẻ em sống ở Hà Nội nhưng có người nhà nói phương ngữ Hà Tây thì phát âm của trẻ sẽ có những đặc điểm của phương ngữ Hà Tây và vốn từ vựng của trẻ cũng bao hàm cả vốn từ vựng Hà Tây. Điều tương tự này còn có thể xét trong trường hợp gia đình có người giúp việc mà người giúp việc lại có đặc điểm ngôn ngữ mang tính địa phương khác so với môi trường gia đình cũng như nhà trường của trẻ. Lúc này, nếu mức độ gần gũi của trẻ với người giúp việc cao thì đặc điểm ngôn ngữ nói chung cũng như vốn từ vựng của người giúp việc sẽ có ảnh hưởng càng lớn đến trẻ. Quan sát một gia đình có nguời giúp việc là người Nghệ An, có trẻ ở độ tuổi mẫu giáo lớn, bố mẹ thường xuyên bận rộn trong công tác nên mọi sinh hoạt ở nhà của trẻ gần như gắn với người giúp việc cho thấy mức độ ảnh hưởng về mặt ngôn ngữ của người giúp việc với trẻ rất cao. Không những có ảnh hưởng về mặt ngữ âm mà về từ vựng trẻ cũng có những vốn từ của địa phương Nghệ An. Nhất là những từ chỉ sự vật, hiện tượng hoặc chỉ hành động thông dụng như: nác (nước), đu thủ ( đu đủ), mọi (muỗi), gấu (gạo), chốc (đầu),…Một số gia đình có ngươì giúp việc ở địa phương khác cũng tương tự như vậy. Về cách thức dùng từ vựng của trẻ đồng thời biết hai loại vốn từ địa phương khác nhau: Ở trẻ đồng thời cùng lúc có vốn từ vựng của hai địa phương khác nhau thì vấn đề đặt ra là trẻ sẽ sử dụng vốn từ vựng của địa phương nào? Theo quan sát của chúng tôi thì trẻ dùng cả hai loại từ vựng mà trẻ biết, trong cùng một cuộc hội thoại những từ đồng nghĩa của các địa phương khác nhau có thể đồng thời được dùng kiểu như: “mẹ ơi, con cụng chốc vào tường, đau đầu quá”… Sở dĩ trẻ sử dụng trong giao tiếp đồng thời cả hai loại từ địa phương là do trẻ chưa có ý thức về ngôn ngữ thấp hay ngôn ngữ cao trong giao tiếp của mình, mọi cách dùng từ của trẻ là hoàn toàn tự phát và ngẫu nhiên. Đây là điểm phân biệt với ý thức dùng ngôn ngữ của người trưởng thành. 1.3. Sự tác động về mặt nghề nghiệp và tuổi đời bố mẹ Bên cạnh những nguyên nhân vừa nêu thì sự tác động của bố mẹ đối với việc hình thành vốn từ vựng cuả trẻ là rất lớn. Có hai yếu tố quan trọng tác động mạnh mẽ đến ngôn ngữ từ vựng của trẻ từ bố mẹ là vấn đề tuổi tác và nghề nghiệp. Ở những trẻ em là con đầu - tuổi đời của bố mẹ còn trẻ và là những người trí thức thì vốn ngôn ngữ của trẻ có những điểm riêng nhất định. Quan sát những trẻ em thuộc đối tượng này cho thấy những vốn từ vựng của trẻ không chỉ dừng lại ở ngôn ngữ mẹ đẻ mà còn xuất hiện cả vốn từ vựng nước ngoài. Vốn từ vựng nước ngoài ấy chủ yếu là tiếng Anh và nó thường xuyên được sử dụng trong gia đình. Vốn từ vựng này mới chỉ là những từ gần gũi, thông dụng trong cuộc sống sinh hoạt như: hi, hello. bye, thank you, good night, apple, cat, dog, hat, table, one, two, thrre,… Đây là một xu thế của cuộc sống hiện đại – khi mà ngoại ngữ có vai trò ngày càng cao trong cuộc ssống. Những ông bố , bà mẹ trí thức trẻ phần đa có hiểu biết nhất định về ngoại ngữ nên thường tranh thủ dạy thêm cho con ngay từ khi còn nhỏ để trẻ thích ứng dần với ngoại ngữ, tiện lợi cho vấn đề học tập sau này. Mặt khác, theo quan sát của chúng tôi, gần đây xuất hiện một kiểu ngữ mới của những trẻ là con đầu, có bổ mẹ trẻ tuổi. Đó là cách nói hiệp vần như: dở hơi biết bơi, chuyện nhỏ như con thỏ, ngất trên cành quất, phê ra trên bờ đê, thần kinh dẫm phải đinh,… Đây là một hiện tượng mới trong ngôn ngữ, chỉ mới xuất hiện trong thời gian gần đây, song khá phổ biến trong giới trẻ. Từ mang nghĩa chính được ghép với những từ phía sau nó mà chẳng liên quan gì về tư duy logic nhưng chúng lại hiệp vần với nhau tạo ra cảm giác thoải mái, vui vẻ trong giao tiếp. Ở nhiều gia đình, các ngữ này đã trở thành những phát ngôn thông dụng, chính bản thân trẻ cũng được người lớn giao tiếp với chúng bằng những ngữ đó, vì vậy nó mặc nhiên trở thành vốn từ của trẻ và được trẻ sử dụng một cách thường xuyên, đầy thích thú. Nghề nghiệp của bố mẹ cũng tác động đến vốn từ vựng của trẻ. Bố mẹ làm ruộng thì đồng thời trẻ sẽ có vốn từ liên quan đến nghề làm ruộng như: cày, bừa, cấy, gặt, trâu, bò, dần, sàng,…Bố mẹ làm nghề dệt thì trẻ sẽ biết thêm các từ như bông, thoi,…Bố mẹ làm cơ quan thì vốn từ cua trẻ thường có là: công tác, xếp, máy tính, …Những vốn từ này trẻ thu được là do nghe thấy từ giao tiếp của bố mẹ với người khác hoặc với trẻ. 2. Sự tác động về phía nhà trường 2.1. Địa điểm nhà trường Khi chưa đi học, môi trường giao tiếp chủ yếu của trẻ là gia đình nhưng khi đi học ở nhà trẻ, mẫu giáo, trẻ có thêm những mối quan hệ mới vì vậy môi trường giao tiếp của trẻ thay đổi. Để thấy rõ sự tác động của nhà trường đối với vốn từ vựng của trẻ, tôi sẽ xem xét sự tác động ngôn ngữ của nhà trường dưới sự đối sánh với vốn ngôn ngữ mà trẻ tiếp thu được từ gia đình. Dưới đây tôi sẽ xét ở hai góc độ chính là địa điểm trường học của trẻ và nội dung các bài học của trẻ ở trường. Theo quan sát của chúng tôi, địa điểm của trường học có những tác động nhất định đến vốn từ vựng của trẻ. Vốn từ vựng ở các trường vùng phương ngữ khác nhau sẽ có sự khác nhau. Điều này cũng tương tự như sự tác động của địa bàn sinh sống của gia đình đến vốn từ vựng của trẻ. Cái đáng bàn ở đây là trong trường hợp vùng phương ngữ của trường trẻ học và vùng phương ngữ của gia đình có sự khác nhau thì vốn từ vựng của trẻ sẽ như thế nào? Đối với những trẻ ở trường hợp nói trên thì vốn từ vựng của trẻ bao gồm cả hai loại phương ngữ của hai địa phương khác nhau. Chẳng hạn, đối với trẻ mà gia đình có vốn từ vựng của phương ngữ ở Hà Nội và học ở trường trên địa bàn Thanh Hoá thì trẻ sẽ có vốn từ vựng của cả hai vùng. Như vậy, trẻ vừa có thể hiểu được vốn từ vựng của Hà Nội lại vừa có thể hiểu được vốn từ vựng của Thanh Hoá. Khi nói “ đau chốc” hoặc “đau đầu”, nói “con trâu” hoặc “con tru”…. trẻ đều cố thể hiểu. Mặt khác, địa điểm của trường còn ảnh hưởng đến vốn từ vựng ngoại ngữ của trẻ. Các trẻ em học ở thành phố thường có vốn từ vựng nước ngoài, trong khi đó trẻ em nông thôn lại hầu như không biết ngoại ngữ. Điều này là do sự tác động của điều kiện kinh tế xã hội cũng như đặc điểm chương trình giáo dục của từng địa phương khác nhau quy định. Khi chúng tôi hỏi người nhà trẻ về việc phản ứng của trẻ đối với vốn từ vựng địa phương khác thì được biết mới đầu trẻ có phản ứng là bác bỏ từ vừa nghe nhưng sau đó khi được giải thích thì trẻ chấp nhận và hiểu được. 2.2. Sự tác động thông qua nội dung bài học Vốn từ vựng của trẻ đặc biệt được mở rộng thông qua nội nung các bài học. Nếu như ở gia đình, vốn từ của trẻ chủ yếu là những điều gắn liền với trực quan (nhà, đồ chơi, bàn, ghế, búp bê, cơm, bát, đau, mát, nóng, lạnh, đi, chạy,…) thì ở trường học, trẻ có nhiều khả năng để biết thêm những từ không trực tiếp tác động đến trực quan như: voi, hổ, thiên nga, gấu,cáo, sói, phù thuỷ, hoàng tử, công chúa, nhà vua, công an, bác sỹ, bộ đội,…thông qua các câu chuyện cổ tích và tranh ảnh của nhà trường. Thực ra khi ở nhà trẻ cũng có thể đã biết trước những từ đó nếu người nhà có thời gian kể chuyện cổ tích, thần thoại và dạy thêm cho trẻ về hiểu biết xã hội nhưng theo nghiên cứu của chúng tôi thì phần đa trẻ biết được những từ đó thông qua nhà trường. Quan sát cho thấy rằng những trẻ đi học mẫu giáo thì số lượng từ không trực tiếp tác động đến trực quan của trẻ nhiều hơn so với những trẻ ở nhà. Mặt khác, thông qua nhà trường thì vốn từ vựng của trẻ là những tính từ cũng phát triển hơn. Đặc biệt là các tính từ chỉ màu sắc. Nếu như khi ở nhà thì vốn từ của trẻ chủ yếu là các từ đơn giản như: xanh, đỏ, tím, vàng,…thì khi đến trường trẻ sẽ có khả năng diễn đạt các màu sắc đó một cách phong phú hơn như: đỏ lòm lòm, xanh lè, vàng khẹt, tím ngắt,… 3. Mối quan hệ giữa nhà gia đình và nhà trường trong việc hình thành vốn từ vựng của trẻ Gia đình và nhà trường đều có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành vốn từ vựng của trẻ. Hai môi trường này cũng hỗ trợ nhau để hoàn thiện và mở rộng hơn vốn từ vựng của trẻ trên nhiều mặt, nhiều phương diện khác nhau. Vì vậy nếu một trong hai môi trường này sử dụng ngôn ngữ không lành mạnh sẽ gây ra những tác động tiêu cực đối với ngôn ngữ trẻ. Nhưng thực chất thì môi trường nào quan trọng hơn và tác động đến ngôn ngữ của trẻ nhiều hơn? Để thấy được điều này, ta sẽ so sánh trường hợp của nhữg trẻ đến trường và những trẻ không đến trường và những khía cạnh tác động theo chiều hướng khác nhau giữa gia đình và nhà trường. Trong trường hợp trẻ không đến trường, phạm vi vốn từ vựng của trẻ bị thu hẹp lại, và tần suất dùng một số từ vựng giảm, chẳng hạn như: phấn, bảng, bé ngoan, bút màu, vở, bà tiên, phù thuỷ, công chúa, voi, hổ, sói, thỏ, cáo, công an, bác sỹ, học bài….Khả năng biết và nhớ từ vựng ngoại ngữ cũng sẽ kém hơn. Khi có sự lệch pha trong ngôn ngữ gia đình và ngôn ngữ nhà trường tức là trường hợp mà phương ngữ gia đình và phương ngữ nhà trường có sự khác nhau.Khi đó, người nhà trẻ không phải là người bản ngữ của địa phương đang sống. Trong trường hợp này thì trẻ có thể hiểu được cả hai vùng phương ngữ, song trong giao tiếp thì trẻ sẽ chọn ngôn ngữ của vùng phương ngữ nào? Theo quan sát của chúng tôi, thì phần đa trẻ em trong trường hợp nói trên sử dụng ngôn ngữ của gia đình. Nếu bố mẹ mang đặc điểm của phương ngữ Thanh Hoá sống ở Hà Nội, thì vốn từ vựng của trẻ, sẽ chủ yếu là vốn từ vựng Thanh Hoá, ngược lại nếu bố mẹ mang đặc điểm của vùng phương ngữ Hà Nội sống ở Thanh Hoá thì trẻ sẽ có vốn từ vựng của Hà Nội. Sở dĩ có đặc điểm trên là do gia đình là môi trường đầu tiên tác động đến ngôn ngữ của trẻ, vì vậy mức độ tác động của nó sẽ lớn hơn các môi trường khác. Như vậy, phương ngữ của trẻ trong trường hợp này không phụ thuộc vào ý thức của trẻ mà chủ yếu phụ thuộc vào thói quên, bản năng. C- Phần kết luận Nghiên cứu sự tác động của hoàn cảnh sống đối với vốn từ vựng của trẻ mẫu giáo lớn là một vấn đề lý thú và có ý nghĩa thiết thực trong việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ. Qua nghiên cứu, chúng ta rút ra một số nhận xét cơ bản như sau: Môi trường giao tiếp chủ yếu và có tác động trực tiếp, chi phối quá trình hình thành ngôn ngữ nói chung cũng như vốn từ vựng nói chung của trẻ là gia đình và nhà trường. Cả hai môi trường này đều có vai trò hết sức quan trọng và hỗ trợ nhau trong việc hình thành vốn từ vựng của trẻ. Sự ảnh hưởng của gia đình đến vốn ngôn ngữ của trẻ được biểu hiện qua nhiều yếu tố hết sức đa dạng mà ta có thể khái quát thành ba điểm chính là: địa bàn sinh sống của gia đình và thành phần gia đình và nghề nghiệp, tuổi tác của bố mẹ. Nhà trường là môi trường quan trọng thứ hai sau gia đình trong việc hình thành vốn từ vựng cho trẻ. Những tác động của nhà trường đến ngôn ngữ của trẻ được thể hiện rõ nhất ở hai điểm chính là địa điểm nhà trường và các bài học ở trường. Nếu so sánh mức độ ảnh hưởng của gia đình và nhà trường đến việc hình thành vốn từ vựng của trẻ thì ta thấy môi trường gia đình có sự tác động đến trẻ nhiều hơn. Điều này là do môi trường gia đình gần gũi với trẻ hơn và cũng là môi trường đầu tiên hình thành vốn từ vựng của trẻ, tạo nên thói quen dùng từ cho trẻ. Từ nghiên cứu trên chúng ta cần nhận thức đúng đắn hơn về vai trò của gia đình và nhà trường trong quá trình hình thành vốn từ vựng của trẻ. Đồng thời hiểu rõ hơn về các khía cạnh tác động đến vốn từ vựng của trẻ, từ đó có những điều chỉnh đúng đắn trong việc giáo dục, định hình sự phát triển của ngôn ngữ trẻ. TÀI LIỆU THAM KHẢO Từ vựng học tiếng Việt - Nguyễn Thiện Giáp – NXB Giáo Dục / 2005. Dẫn luận ngôn ngữ- Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) – NXB Giáo Dục / 2006. Ngôn ngữ học xã hội - Nguyễn Văn Khang – NXB Khoa học xã hội / 1999. Phương ngữ Tiếng Việt - Hoàng Thị Châu – NXB Đại học quốc gia Hà Nội / 2004. Tâm lý học đại cương - Nguyễn Quang Uẩn – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội / 2007. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNN34t.doc