Tiểu luận Tìm hiểu chính sách độc quyền của thực dân pháp về muối, rượu, thuốc phiện

MỤC LỤC 1. Bối cảnh lịch sử Pháp xâm lược Việt Nam 1 2. Chính sách cai trị của thực dân Pháp tại Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam 1 3. Chính sách độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện 3 3.1. Tại sao thực dân Pháp lại độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện? 3.2. Độc quyền như thế nào? 5 3.3. Lợi Nhuận thu được từ chính sách độc quyền muối, rượu, thuốc phiện 9 4. Kết luận 11 1. Bối cảnh lịch sử Pháp xâm lược Việt Nam Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ). Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát nổi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp đã chiến thắng.

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2458 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu chính sách độc quyền của thực dân pháp về muối, rượu, thuốc phiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH ĐỘC QUYỀN CỦA THỰC DÂN PHÁP VỀ MUỐI, RƯỢU, THUỐC PHIỆN 1. Bối cảnh lịch sử Pháp xâm lược Việt Nam Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ). Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát nổi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp đã chiến thắng. Quân Pháp tấn công quân Thanh tại Lạng Sơn năm 1885 Pháp tuyên bố sẽ bảo hộ Bắc kỳ (Tonkin) và Trung kỳ (Annam), tiếp tục duy trì các hoàng đế bù nhìn cho đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945 và quốc trưởng từ 1949 đến 1956. 2. Chính sách cai trị của thực dân Pháp tại Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam Vào năm 1887, hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam, trong bối cảnh đó chúng bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách quy mô. Người Pháp đã tổ chức ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở trung ương là Phủ toàn quyền Đông Dương (ban đầu thủ phủ ở Sài Gòn, năm 1902 đặt ở Hà Nội). Đứng đầu Phủ toàn quyền gọi là Toàn quyền Đông Dương, là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Đứng đầu ở 3 kỳ là: Thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ, cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1893 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao. Ngày 22-3-1897, Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume (Paul Doumer) gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động: 1. Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bộ máy cai trị hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc liên bang. 2. Sửa đổi lại chế đợ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao cho phù hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể, và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quán của dân Đông Dương. 3. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng... rất cần thiết cho công cuộc khai thác. 4. Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ. 5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ hải quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh. 6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kỳ, bảo đảm an ninh vùng biên giới Bắc Kỳ. 7. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận". - Thực dân Pháp đã thiết lập một bộ máy cai trị chặt chẽ, cũng như xây dựng bộ máy quân sự, cảnh sát, tòa án, nhà tù…nhằm khống chế hoàn toàn nhân dân Việt Nam nói riêng, nhân dân các nước Đông Dương nói chung. Hai yếu tố chính trioj phục vụ đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế mà người Pháp sử dụng lúc bấy giờ là : “chia để trị” và “dùng người Việt trị người Việt”. - Dùng những chính sách hà khác về sưu thuế, tô dịch, thương nghiệp, công nghiệp, nông nhiệp hay những thủ đoạn đê hèn để bóc lột đến xương tủy của cải của người dân, làm dân chúng trở nên ngu muội, dốt nát…nhưng thực dân Pháp vẫn bám lấy “mặt nạ” khai hóa văn minh, cũng như ngọn cờ “tự do, bình đẳng, bác ái”. - Và một trong những chính sách của Pháp trong cuộc khai thác thuộc địa lần một (1858 – 1941) là chính sách độc quyền về muối, rượu và thuốc phiện 3. Chính sách độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện 3.1. Tại sao thực dân Pháp lại độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện? Về muối : Muối là một trong những thứ nhu yếu phẩm, đặc biệt lại là một sản phẩm vô cùng quan trọng trong miếng ăn của người Việt Nam, là thành phần vô cùng cần thiết trong việc dự trữ thực phẩm, chế biến món ăn và nấu ăn. Muốn muối cá, muối thịt, làm nước mắm, muối dưa cải hay muối chua các thứ rau, tất cả đều phải có muối. Kho cá, kho thịt, làm xôi, nấu cơm nếp, ăn cháo trắng lót lòng cũng phải có muối. Nói tóm lại, bất kỳ món ăn nào cũng phải có muối. Chính vì thế mà đối với người Việt Nam, muối trở thành một sản phẩm vô cùng quan trọng không khác gì gạo. Hơn nữa, nước ta không có mỏ muối. Vì thế, tất cả muối tiêu thụ ở nước ta đều được sản xuất qua phương pháp gạn lọc nước biển bằng cách để cho nước bốc hơi bay đi hết, chất muối lắng xuống ở dưới rồi gom lại thành từng thúng đem đi bán. Do tình trạng này, chỉ những vùng ven biển có bãi cát lài lài, thoai thoải bằng bằng mới có điều kiện để sản xuât muối. Những vùng bờ biến dốc đứng không có điều kiện sản xuất muối. Những yếu tố này đã khiến cho muối trở nên khan hiếm ở trên thị trường. Biết được những yếu tố quan trọng này, các nhà làm chính sách thuế khóa trong chính quyền Liên Minh Pháp – Vatican nghĩ ngay đến biện pháp nắm độc quyền phân phối muối. Qua chính sách đánh thuế bất nhân này, chúng đã thu vơ về ngân quỹ của Liên Minh Pháp – Vatican một khỏan tiền khổng lồ có thể đủ trả lương cho 50% công chức ở Đông Dương. Về rượu : Trong thực tế, rượu đã được coi như khá quan trọng trong nếp sống văn hóa của bất kỳ xã hội nào dù là văn minh hay lạc hậu. Với các quốc gia Đông Phương chịu ảnh hưởng của nền văn minh Khổng Mạnh, rượu đã trở thành một trong những yếu tố vô cùng quan trọng trong nếp sống văn hóa của người dân. Cũng vì thế mà rượu hiện diện trong hầu hết các ngày lễ lạc, đám cưới, đám tang, cúng tế và những cuộc hôi ngộ giữa các bạn bè thân thiết hay trong những bữa tịêc kẻ ở tiễn người đi hoặc trong bữa cơm vui đón mừng người đi xa trở về, tất cả cũng đều phải có rượu. Đặc biệt, rượu còn là biểu tượng của tính cách nam nhi (Nam vô tửu như kỳ vô phong). Vậy nên ở nước ta, rượu cũng vô cùng quan trọng, trong thời xưa, bất bất kỳ làng xóm nào cũng có một hay hai gia đình sinh sống bằng nghề nấu rượu, rượu trở thành sản phẩm rất thông dụng, không bao giờ khan hiếm. Biết rõ tính cách quan trọng của rượu trong nếp sống văn hóa của người Việt Nam là như vậy, với chủ trương cố hữu nắm trọn quyền kiểm sóat tất cả mọi ngành sinh họat trong xã hội, Giáo Hội La Mã và thực dân Pháp bèn quyết định nắm độc quyền sản xuất và phân phối rượu, rồi cưỡng bách nhân dân ta hàng năm phải tiêu thụ số lượng ruợu theo đúng chỉ tiêu mà chúng đã đề ra. Với việc nắm trong tay độc quyền sản xuất rượu trong nước, thực dân Pháp không chỉ thu về lợi nhuận hàng năm, mà còn có khả năng không chế và đầu độc nhân dân ta (xin được trình bày ở phần sau). Về thuốc phiện : Thuốc phiện bị coi như là một sản phẩm có tác hại vô cùng nguy hiểm cho những người hút và gia đình họ. Thế nhưng, từ khi dân ta rơi vào ách thống trị của Liên Minh Pháp – Vatican, thuốc phiện lại do chính quyền chủ động nhập cảng, thiết lập các cơ sở biến chế, tổ chức hệ thống phân phối, khuyên khích mở các tiệm hút và tiệm bán công khai cho khách hàng tiêu thụ, rồi nắm độc quyền buôn bán sản phẩm này. Như vậy là chính quyền đã tạo điều kiện thuận lợi cho khá nhiều người mà đa số thuộc thành phần khá giả dễ dàng a dua đua đòi rồi sa ngã vào tình trạng nghiện ngập, làm hư hại cả cuộc đời. Nhìn rộng ra, nếu quốc gia có quá nhiều người nghiện hút thuốc phiện như vậy, thì dân nước sẽ không còn ý chí đấu tranh để tự tồn, để mặc cho ngoại nhân thao túng tự tung tự tác. Hậu quả là quốc gia đó sẽ lụn bại, suy vong rồi sớm muộn cũng rơi vào cảnh lệ thuộc nước ngoài. Tuy nhiên, thiết nghĩ rằng, ngoài chủ trương làm tiêu tan ý chí đấu tranh của dân tộc Việt Nam, Liên Minh Pháp – Vatican còn có chính sách độc quyền nhập cảng lậu và phân phối thuốc phiện vừa  để lấy tiền chi phi cho bộ máy cai trị tại Đông Dương, vừa để trả lương hậu hĩ cho công chức người Pháp trong bộ máy cai trị này với mục đích khích lệ họ tích cực thẳng tay đàn áp và bóc lột dân ta. 3.2. Độc quyền như thế nào? Về muối : - Chính sách thuế muối thực dân Pháp áp dụng cho các tỉnh Trung kỳ như sau : Năm 1897, mỗi tạ muối (60kg) phải đóng thuế 30 xu, gấp 3 lần giá muối mua của người sản xuất; đến năm 1906, Pháp tăng lên mỗi tạ muối phải nộp 2,5 đồng bạc thuế. Như vậy, cứ mỗi tạ (60kg) muối Pháp đã tăng thêm 2 đồng bạc thuế (hơn 130% ), chưa kể các khoản thuế phụ gia. - Tại Khánh Hòa : Khánh Hòa là nơi sản xuất muối lớn trong cả nước, người dân phải nộp 170 xu cho mỗi tạ muối sản xuất được. - Tại Biên Hòa – Bà Rịa : chúng độc quyền mua bán và giao việc quản lý muối cho sở Thương chánh. Để dễ bề kiểm soát, sở Thương chánh tập trung muối sản xuất  trong toàn tỉnh vào một kho muối ở Long Điền. Chúng trưng dụng ghe thuyền làm biển của ngư dân bất cứ lúc nào để chở muối nhập kho. Tiền thuế chuyên chở muối giá rất thấp so với thu nhập thông thường của một chuyến ra khơi đánh cá. Đối với người làm muối, chúng buộc bán toàn bộ số muối sản xuất được với giá rẻ mạt và mua lại để ăn với giá cao gấp nhiều lần. Cũng trong lĩnh vực thuế muối, trong vòng 10 năm (1892-1902) thuế tiêu thụ mới tăng lên 22,5 lần ( năm 1892: 5 xu 1 tạ 60 kg, năm 1906: 1 đồng 35 xu 1 tạ). Tư bản Pháp độc quyền thu mua muối với giá rẻ: 0,2 xu 1 thùng (52kg), bán ra 150 xu (đắt hơn 20 lần). Về sau giá mua muối có nâng lên 16 xu, nhưng giá bán ra tăng lên 250 xu. Nhiều người làm muối ở Bà Rịa đã bị phá sản, bị thu hẹp sản xuất vì sự chiếm giữ độc quyền mua bán của bọn tư bản thực dân. Về rượu : - Theo ghi nhận của công ty Rượu Hà Nội : ”Năm 1898, hãng Rượu Fontaine của Pháp đã xây dựng Nhà Máy Rượu Hà Nội tại địa điểm 94 Lò Đúc ngày nay, là một trong bốn nhà máy rượu được hãng lập nên tại Đông Dương và có quy mô lớn hơn cả.” “Chính phủ Bảo Hộ đã tính số người cho mỗi tỉnh, mỗi làng mà chia rượu cho quan lại đưa cho dân nhận lãnh. Đồng thời (nhà nước) lại giao kế hoạch tiêu thụ rượu đến các cấp chính quyền huyện, tổng xã đề ra các biện pháp cụ thể như ma chay, cưới xin, lễ hội, đình đám, bắt buộc phải mua rượu đủ theo quy định.” - Khi chưa bị Pháp xâm chiếm, giá 1 lít rượu ở Việt Nam chỉ có 6 xu. Khi toàn quyền Bô (Beau) giao cho hãng Phôngten của người Pháp độc quyền nấu và kinh doanh (1902) thì giá 1 lít rượu lên 14 xu, 18 xu, rồi 29 xu. Trong khi đó, hãng Phôngten mua rượu của người Việt Nam nấu chỉ có 7 xu. - Độc quyền nấu rượu thì giao cho công ty Société des Distilleries d'Indochine phân phối cho toàn Liên bang dưới hiệu "RA" (Régie de Alcool), tục gọi là "rượu ty". Những nguồn rượu khác thì bị liệt vào hạng rượu lậu và ai nấu hay mua thì bị truy tố và tài sản tịch thu. - Tại Khánh Hòa: Thực dân Pháp cấm người dân không được nấu rượu mà phải uống rượu do nhà nước cung cấp, quá quắt hơn, với mục đích chính trị, chúng còn ép buộc mỗi người dân hàng năm phải tiêu thụ từ 23 – 24 lít rượu. Mỗi năm chúng thu của nhân dân Khánh Hòa nói riêng và toàn Việt Nam nói chung 22.500.000 đồng Đông Dương, chiếm 8% ngân sách vào năm 1944. Về Thuốc phiện : - Liên Minh Pháp – Vatican nhập cảng nha phiến vào Đông Dương và biến thành một có sở kinh doanh kiếm lời từ những năm chót của thế kỷ 19 cho đến năm 1945. - Năm 1897, Toàn Quyền Doumer đã cho tiến hành một loạt cải cách, thiết lập một nhà máy biến chế thuốc phiện ở Sàigòn để biến chế thuộc phiện sống Ấn Độ thành thuốc phiện đã hoàn chế cho dân nghiền sử dụng. Nhà máy biến chế mới này sản xuất một loại thuốc phiện đã hoàn chế có thể cháy mau hơn khiến cho người hút có thể tiêu thụ nhiều hơn thường lệ. Theo chỉ thị của Doumer, Sở Độc Quyền Thuốc Phiện mua thuốc phiện với giá rẻ ở tỉnh Vân Nam, Trung Hoa để các tiệm bán lẻ và những tiệm hút của chính quyền có thể lôi cuốn được nhiều khách hàng thuộc giới lao động nghèo mà họ không có đủ tiền để sử dụng loại thuốc phiện đắt tiền mang nhãn hiệu Ấn Độ. Nhà nước lại cho mở thêm các tiệm hút và các tiệm bán lẻ để đáp ứng cho nhu cầu khách hàng càng ngày càng gia tăng. (năm 1918) có 1,512 tiệm hút và 3,098 tiệm bán lẻ). Việc buôn bán thuốc phiện rất thịnh đạt. Nhà máy sản xuất thuốc phiện (Manufacture d'Opium) trên đường Blanchy (Hai bà Trưng) vào thời thuộc địa ở Sài Gòn. Một nhân công đang đóng gói các kiện hàng. - Tại Khánh Hòa : thực dân Pháp độc quyền buôn bán và chế biến, đồng thời chúng cũng khuyến khích người dân hút thuốc phiện. Chỉ tính riêng trong năm 1924, người Pháp đã thu 42.533.000 đồng Đông Dương của nhân dân Việt Nam, trong đó có Khánh Hòa, qua buôn bán thuốc phiện, chiếm tới 74% ngân sách. 3.3. Lợi Nhuận thu được từ chính sách độc quyền muối, rượu, thuốc phiện - Từ năm 1902 – 1914 lợi nhuận thu được từ thuốc phiện Năm Tài khoản ở Đông Dương Thu nhập từ nhà máy thuốc phiện % Thu nhập / Tài khoản Số lượng bán ra 1902 27,1 6,8 25% 113,7 1903 29 7,7 27% 123 1904 32,3 7,8 24% 118 1905 31,8 7 22% 107 1906 31,3 6,6 21% 93,3 1907 31,2 7,6 24% 116 1908 32,8 7,8 24% 107 1909 34,5 8 23% 107 1910 35,8 7,8 22% 75 1911 38,3 8,2 21% 61 1912 35,6 8,6 24% 62 1913 35,6 8,8 25% 64,2 1914 35,6 13,1 37% 74,5 Đơn vị tính bằng triệu piastres - Số lượng tính bằng tấn. - Tại Khánh Hòa : Chỉ tính riêng trong năm 1924, người Pháp đã thu 42.533.000 đồng Đông Dương của nhân dân Việt Nam, trong đó có Khánh Hòa, qua buôn bán thuốc phiện, chiếm tới 74% ngân sách. - Nhờ chính sách nắm độc quyền sản xuất và phân phối rượu như trên, trong những năm 1934-1944, chính quyền Liên Minh Pháp - Vatican đã thâu về một khỏan tiền khổng lồ chiếm tới 8,32% tổng số ngân sách của toàn Đông Dương, trong đó riêng hãng Fontaine đã cung ứng tới 6,57% - Theo Địa phương chí tỉnh Gò Công năm 1936, ở Gò Công, bọn chúng có một kho muối chứa 150 tấn, một kho rượu chứa 50.000 lít và các cửa hàng bán thuốc phiện với các loại 100 gram, 40 gram, 20 gram và 10 gram.Việc kinh doanh rượu đã giúp chúng thu được 11.844 francs năm 1886, nhưng chỉ trong sáu tháng đầu năm 1887, con số này đã vọt lên 10.926 francs, gần bằng trọn năm 1886. Về thuốc phiện, sáu tháng đầu năm 1886, bọn chúng thu được 98.640 francs, nhưng cùng kỳ năm sau (1887) thì tăng lên đến 107.500 francs. - Lợi tức thâu nhập của dịch vụ buôn bán thuốc phiện tăng lên đều đều, và vào năm 1938 tính ra lên tới 15 phần trăm của toàn thể tiền thuế thâu nhập ở thuộc địa tại Đông Dương – cao nhất ở Đông Nam Á.” 4. Kết luận Trái ngược với những lợi nhuận thu về cho “Chính quốc”, nhân dân thuộc địa vô cùng khốn khổ dưới chính sách của thực dân. Những chính sách tàn ác, và thâm hiểm của thực dân Pháp không chỉ làm kiệt quệ ngân sách quốc gia, vơ vét tài nguyên thuộc địa, làm nghèo nàn và xơ xác nền kinh tế vốn non yếu, mà còn đầu độc nhân dân thuộc địa bởi rượu, thuốc phiện, khiến người dân càng thêm ngu muội hòng dễ bề thống trị. Trong “ Bản án chế độ thực dân Pháp”, Bác đã bóc trần mặt nạ của thực dân xâm lược của chúng : “Để nhồi nhét văn minh "Đại Pháp" cho người An Nam, ngài Xarô, người trùm của sự nghiệp đó đã không từ một thủ đoạn nào, kể cả những thủ đoạn bỉ ổi nhất và những tội ác…. Lúc ấy, cứ một nghìn làng thì có đến một nghìn năm trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số một nghìn làng đó lại chỉ có vẻn vẹn mười trường học…Trước khi có bức thư quý hoá trên, hằng năm người ta cũng đã tọng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ con…Trước đây, người bản xứ quen mua rượu từng ít một; họ mang chai lọ thế nào cho vừa thì thôi. Nay thì người ta đóng rượu vào chai sẵn. Rượu chỉ bán trong chai nửa lít hay một lít. Người An Nam quen dùng rượu từ 20 đến 22 độ; ngày nay người ta bắt họ dùng rượu từ 40 đến 45 độ… Như thế, tính trên toàn cõi Đông Dương mỗi ngày cứ bán 500 héctôlít rượu thì có 4.000 lít nước lã pha thêm vào; 4.000 lít, mỗi lít giá ba hào, thành 1.200 đồng một ngày, 36.000 đồng một tháng. Như thế chỉ cần mở vòi nước lã không thôi, mỗi năm công ty cũng thu được một món lãi nho nhỏ 432.000 đồng, hay 4 triệu phrăng…” Chỉ đọc mấy dòng trên, ta cũng đã hình dung được đầy đủ bộ măth gian trá của thực dân Pháp, cũng nhưn tình cảnh khốn đốn của người dân thuộc địa dưới thời Pháp thuộc. Đó cũng chính là động lực để nhân dân ta vùng dậy đấu tranh và giành chính quyền năm 1945, xóa bỏ ách thống trị thực dân suốt 83 năm. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLSDOCS (93).doc