Mở Đầu
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của xã hội. Trong thương mại quốc tế, mọi giao dịch đều đòi hỏi phải có tốc độ nhanh chóng, thanh toán bằng tiền mặt đã cho thấy những mặt hạn chế của nó. Do vậy vào những năm 50 của thế kỷ 20, một số ngân hàng trên thế giới đã giới thiệu thẻ thanh toán. Cho đến nay việc thanh toán bằng thẻ đã khẳng định được những tính năng ưu việt của nó so với các phương tiện thanh toán khác.
Hiện nay ở rất nhiều nước trên thế giới việc thanh toán không dùng tiền mặt đã trở lên quen thuộc, phổ biến với mỗi người dân.trong khi đó ở Việt Nam khối lượng thanh toán không dung tiền mặt còn chiến tỷ lệ rất hạn chế. thanh toán không dùng tiền mặt chưa được người dân chấp nhận rộng rãi, thạm chí nhiều người còn chưa thấy tấm thẻ tín dụng bao giờ có thể nói một chúng ta chưa phát huy được tính ưu việt của thẻ và như vậy chúng ta chưa tận dụng hết các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển kinh tế.
Mặc dù thẻ thanh toán đã ra đời được hơn 50 năm nhưng nó mới được biết đến ở Việt Nam khoảng 10 năm trước đây. để có một cái nhìn sâu hơn về thẻ thanh toán và các giải pháp cho sự phát triển là rất cần thiết tuy răng điều đó không đơn giản chút nào. Nó đòi hỏi phải có sự quan tâm,nghiên cứu một cách đầy đủ, phải có cái nhìn sâu hơn.
Với mong muốn các hình thức thanh toán qua các loại thẻ của ngân hàng cung cấp ngày càng được chấp nhận rộng rãi em đã chọn đề tài: “ tìm hiểu thẻ Debit Card và giải pháp phát triển thẻ ở Việt Nam”
Nội dung của bài phân tích và nghiên cứu.
PHẦN 1: TÌM HIỂU TỔNG QUAN VỀ THẺ
+ Lịch sử hình thành của thẻ
+ Phương thức thanh toán bằng thẻ và tính ưu việt của nó.
PHẦN 2: Tìm hiểu về thẻ Debit card
+ khái niệm thẻ Debit Card
+ Đặc điểm thẻ Debit Card
+ Tính năng thẻ Debit Card
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thẻ thanh toán
PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH THẺ
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1619 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu thẻ Debit Card và giải pháp phát triển thẻ Debit Card, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở Đầu
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của xã hội. Trong thương mại quốc tế, mọi giao dịch đều đòi hỏi phải có tốc độ nhanh chóng, thanh toán bằng tiền mặt đã cho thấy những mặt hạn chế của nó. Do vậy vào những năm 50 của thế kỷ 20, một số ngân hàng trên thế giới đã giới thiệu thẻ thanh toán. Cho đến nay việc thanh toán bằng thẻ đã khẳng định được những tính năng ưu việt của nó so với các phương tiện thanh toán khác.
Hiện nay ở rất nhiều nước trên thế giới việc thanh toán không dùng tiền mặt đã trở lên quen thuộc, phổ biến với mỗi người dân.trong khi đó ở Việt Nam khối lượng thanh toán không dung tiền mặt còn chiến tỷ lệ rất hạn chế. thanh toán không dùng tiền mặt chưa được người dân chấp nhận rộng rãi, thạm chí nhiều người còn chưa thấy tấm thẻ tín dụng bao giờ có thể nói một chúng ta chưa phát huy được tính ưu việt của thẻ và như vậy chúng ta chưa tận dụng hết các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển kinh tế.Mặc dù thẻ thanh toán đã ra đời được hơn 50 năm nhưng nó mới được biết đến ở Việt Nam khoảng 10 năm trước đây. để có một cái nhìn sâu hơn về thẻ thanh toán và các giải pháp cho sự phát triển là rất cần thiết tuy răng điều đó không đơn giản chút nào. Nó đòi hỏi phải có sự quan tâm,nghiên cứu một cách đầy đủ, phải có cái nhìn sâu hơn. Với mong muốn các hình thức thanh toán qua các loại thẻ của ngân hàng cung cấp ngày càng được chấp nhận rộng rãi em đã chọn đề tài: “ tìm hiểu thẻ Debit Card và giải pháp phát triển thẻ ở Việt Nam”
Nội dung của bài phân tích và nghiên cứu.
PHẦN 1: TÌM HIỂU TỔNG QUAN VỀ THẺ
+ Lịch sử hình thành của thẻ
+ Phương thức thanh toán bằng thẻ và tính ưu việt của nó.
PHẦN 2: Tìm hiểu về thẻ Debit card
+ khái niệm thẻ Debit Card
+ Đặc điểm thẻ Debit Card
+ Tính năng thẻ Debit Card
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thẻ thanh toán
PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH THẺ
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : HỒ HỮU TIẾN
SINH VIÊN THỰC HIÊN : NGUYỄN QUANG PHI
PHẦN 1
TÌM HIỂU TỔNG QUAN VỀ THẺ
Lịch sử hình thành của thẻ
Những tấm thẻ đầu tiên trên Thế Giới
Thẻ thanh toán chính thức ra đời vào năm 1949 tại Hoa Kỳ. Từ đó đến nay, thẻ thanh toán trở thành một hình thức giao dịch phổ biến tại một số các nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật, Liên minh Châu Âu…đóng góp của nó trong sự phát triển kinh tế của quốc gia là rất quan trọng.
Do ông Frank MC Namara, một doanh nhân người Mỹ phát minh vào năm 1949 những tấm thẻ thanh toán đầu tiên có tên là “Diner’s Clup”
Quá trình thẻ thanh toán du nhập vào Việt Nam
Nhìn chung, với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định của Việt Nam trong 2 năm 2006-2007 thì với báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, hiện nay người dân Việt Nam có khoảng 15 triệu tài khoản ngân hàng trong đó chủ yếu là các tài khoản tiết kiệm. Điều này cho thấy, Việt Nam la một đất nước có nhiều tiềm năng phát triển thị trường thẻ thanh toán, đất nước với hơn 86 triệu dân.
Kinh tế Việt Nam phát triển năm sau cao hơn năm trước 7 – 8% trong nhiều năm liên tục kể từ 2006, trình độ công nghệ thông tin của Việt Nam ngày càng phát triển, bên cạnh đó, còn học hỏi được từ các chuyên gia từ nước ngoài, có trình độ và chuyên môn cao đủ sức để bảo mật tài khoản cho khách hàng trong tương lai. Đi đôi với sự phát triển ấy là hệ thống ngân hàng phát triển vượt bậc, nhiều chi nhánh ngân hàng được mọc lên khắp nơi, đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Những năm gần đây, một số nhà cung cấp dịch vụ đã hợp tác với các ngân hàng triển khai các dịch vụ thanh toán qua thẻ.
Từ năm 1993, thị trường thẻ ngân hàng Việt Nam mới xuất hiện những sản phẩm thẻ đầu tiên do Vietcombank phát hành. Đến nay, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của thị trường thẻ Việt Nam: 20 ngân hàng thương mại phát hành Thẻ nội địa, trong đó có 8 ngân hàng thương mại phát hành Thẻ Quốc tế, số lượng thẻ phát hành năm 2008 xấp xỉ 3,5 triệu thẻ (trong đó thẻ nội địa là 3 triệu thẻ và thẻ quốc tế là 0,5 triệu thẻ); tổng số lượng máy ATM đến thời điểm này trong toàn hệ thống là 2.600 máy ATM, 22.000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS). Thị trường thẻ tăng trưởng bình quân 300%/năm, với các sản phẩm ngày càng phong phú đa dạng.
Tuy nhiên, hình thức thanh toán mới mẻ này mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của một số lượng rất nhỏ khách hàng có tài khoản tại ngân hàng có kết nối với nhà cung cấp dịch vụ, và cũng bị giới hạn bởi mạng lưới ATM, POS của ngân hàng
Tính đến tháng 6/2008, Việt Nam với dân số gần 86 triệu người nhưng chỉ có khoảng 10.35 triệu thẻ, trong đó thẻ tín dụng quốc tế chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Mặt khác, cơ sở chấp nhận thẻ của các ngân hàng còn rất ít, điều này làm hạn chế sự phát triển của thẻ thanh toán ở Việt Nam. Các trang web bán hàng chủ yếu giao dich bằng tay, lại chịu phí trung bình 2-3% trong hầu hết các giao dich nếu giao dịch bằng thẻ thanh toán.
Số lượng máy ATM và POS có phát triển nhanh chóng, lên đến khoảng 3.800 và 22.900, tỉ lệ số máy trên số dân vẫn ở mức thấp của khu vực. Ví dụ, tỉ lệ số máy ATM trên số dân của Việt Nam là 1:23.000 so với 1:19.000 của Trung Quốc và 1:2.638 của Singapore.
Sư kết hợp giữa các ngân hàng với nhau trong việc mở rộng mạng lưới các máy ATM, POS, các kết nối thanh toán song phương giúp cho việc chuyển khoản liên ngân hàng được thuận tiện hơn rất nhiều.Thêm vào đó, các giao dịch chuyển khoản liên ngân hàng là rất tốn kém, cả về thời gian và lệ phí. Việc tới đây các ngân hàng phát triển mạnh các dịch vụ ngân hàng trực tuyến (Internet banking, home banking) sẽ rút ngắn khoảng cách giữa người dùng và mỗi ngân hàng. Tuy nhiên, một hạn chế căn bản vẫn tồn tại, đó là việc các giao dịch thanh toán (Ví dụ bằng chuyển khoản qua internet banking) chưa được tích hợp với các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ và các ngân hàng chưa kết nối được với nhau trong các hoạt động thanh toán qua internet banking hay home banking.
Qua đây chúng ta thấy được sự cần thiết của việc phát triển thị trường thẻ thanh toán đem lại rất nhiều sự thuận tiện cho khách hàng cũng nhu các nhà cung cấp. Các ngân hàng có cơ hội tiếp xúc với nguồn vốn huy động giá rẻ thông qua phát triển các loại hình dịch vụ ATM, hay thẻ thanh toán trên đất nước Việt Nam.
Trong một tương lai gần, chắc chắn con số này sẽ tăng nhanh hơn nữa khi những hinh thức thanh toán không sử dụng tiền mặt phát triển mạnh hơn trong thị trường Việt Nam.
Bên cạnh đó, thị trường thẻ thanh toán phát triển mạnh hơn khi các ngân hàng cải tiến những hình thức dịch vụ của mình. Như việc ngân hàng Đông Á cho phép gởi tiền trực tiếp từ máy ATM hay các dịch vụ mà thẻ ngân hàng mang lại cho chủ thẻ ngày càng đa dạng hơn(in sao kê, chuyển tiền, gởi tiền…).
Bước phát triển của thẻ thanh toán có thể kể đến những bước chính sau:
Năm 1990, Ngân hàng Pháp BFCE và ngân hàng Ngoại thương Việt Nam kí kết hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa, mở đầu cho sự gia nhập thẻ thanh toán vào thị trường Việt Nam. Ngân hàng Ngoại Thương, Sài Gòn Thương Tín cũng liên kết với trung tâm thanh toán thẻ Visa để làm đại lý thanh toán.
Năm 1995 cùng với Ngân hàng Ngoại thương TP.HCM, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu, Ngân hàng Liên doanh First-Vina-Bank và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Eximbank được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép chính thức gia nhập tổ chức thẻ quốc tế Mastercard.
Năm 1996 Ngân hàng Ngoại thương trở thành thành viên chính thức của tổ chức Visa International. Tiếp sau đó là Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Công thương VN, trong đó Ngân hàng Ngoại thương và Á Châu thực hiện thanh toán trực tiếp với tổ chức này.
Việc phát hành thẻ và triển khai phát triển thẻ trên quy mô lớn gặp rất nhiều khó khăn, còn bị giới hạn nhiều về cơ sở pháp lý, điều kiện kinh tế, kỹ thuật, hạ tầng….chỉ dừng lại ở mức phát hành thẻ thí điểm, giữa nội bộ các ngân hàng phát hành và chủ thẻ Theo Ngân hàng nhà nước, dich vụ thẻ đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, 150-300% /năm.
Cho đến hết năm 2007, các ngân hàng phát hành hơn 8 triệu thẻ, bình quân 10 người dân có 1 người dùng thẻ. Thị trường thẻ Việt Nam năm 2007 tăng 2.5 lần so với năm 2006.
Dịch vụ thẻ phát triển giúp cho khách hàng ngày càng tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ thanh toán hiện đại, thúc đẩy các ngân hàng thương mại tiếp tục phát triển mảng dịch vụ thanh toán áp dụng công nghệ cao như dịch vụ homebanking, internet banking, mobile banking… Dự kiến đến cuối năm 2010 toàn thị trường đạt mức phát hành 15 triệu thẻ, trong đó 70% các trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng tự chọn v.v. lắp đặt các thiết bị chấp nhận thanh toán thẻ. Phấn đấu đến năm 2020 con số này đạt lần lượt là 30 triệu thẻ và 95%. Trong thời gian tới, thị trường thẻ Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh, là một thị trường đầy tiềm năng, hứa hẹn đem lại nhiều lợi ích cho người sử dụng và lợi nhuận cho các tổ chức trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng.
Phương thức thanh toán bằng thẻ và tính ưu việt của nó.
cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng và những ứng dựng thành tựu công nghệ thông tin, tự động hóa…, có rất nhiều hình thức TTKDTM trong đó có loại hình thẻ. Thẻ rất tiện lợi, an toàn đã, đang được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Phương tiện thanh toán tiền mặt là không thể thiếu, xong ngày nay, thanh toán bằng tiền mặt không còn là phương tiện thanh toán tối ưu trong các giao dịch thương mại, dịch vụ, đặc biệt là giao dịch có giá trị và khối lượng lớn.
Các hoạt động giao dịch thương mại, dịch vụ, hàng hóa ngày nay diễn ra mọi lúc, mọi nơi, vượt qua cả giới hạn về khoảng cách. Xét trên nhiều góc độ, khi hoạt động thanh toán trong xã hội còn thực hiện phổ biến bằng tiền mặt, nhất là trong thanh toán các khoản có giá trị lớn có thể dẫn đến một số bất lợi và rủi ro như: Chi phí của xã hội để tổ chức hoạt động thanh toán (như chi phí của Chính phủ cho việc in tiền; chi phí vận chuyển, bảo quản, kiểm, đếm tiền của hệ thống ngân hàng, của các chủ thể tham gia giao dịch thanh toán) là rất tốn kém; Việc thực hiện giao dịch thanh toán bằng tiền mặt với khối lượng lớn dễ bị các đối tượng phạm pháp lợi dụng để gian lận, trốn thuế, trì hoãn hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng hoặc các chủ nợ; Vấn đề an ninh trong thanh toán, bảo quản, vận chuyển tiền mặt luôn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm; Sử dụng nhiều tiền mặt trong giao dịch thanh toán của xã hội sẽ là môi trường thuận lợi cho tội phạm lưu hành tiền giả, đe dọa trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức, cá nhân và tình hình anh ninh quốc gia. Các bất lợi và rủi ro trên đây là vấn đề xảy ra với bất kỳ quốc gia nào, song với các nước mà thanh toán bằng tiền mặt còn ở mức phổ biến trong xã hội, tình hình sẽ càng phức tạp và khó kiểm soát hơn.
Điểm khác biệt lớn nhất giữa thanh toán điện tử và thanh toán truyền thống là thông qua các phương tiện điện tử, loại bỏ hầu hết việc giao nhận giấy tờ và việc ký truyền thống thay vào đó là các phương pháp xác thực mới.
Dùng phương pháp mới để xác nhận đúng người có quyền ra lệnh thanh toán mà không cần tiếp xúc trực tiếp. Lợi ích lớn nhất là sự tiết kiệm chi phí và tạo thuận lợi cho các bên giao dịch. Các giao dịch qua kênh điện tử có chi phí vận hành rất thấp. Chi phí chủ yếu là đầu tư ban đầu, trong điều kiện công nghệ phát triển nhanh chi phí đầu tư cũng giảm đáng kể. Doanh nghiệp không cần phải đầu tư nhân sự, địa điểm và các chi phí lưu chuyển hồ sơ cho việc giao dịch.
Giao dịch bằng phương tiện điện tử nhanh hơn so với phương pháp truyền thống. Thông thường giao dịch tại quầy cho một khách hàng chuyển tiền mất khoảng chưa đầy 15 phút, không kể thời gian đi lại và chờ đợi nhưng giao dịch trên Internet, Mobile hoặc qua hệ thống thẻ chỉ qua một vài thao tác đơn giản trong một vài phút.
Với thanh toán điện tử, các bên có thể tiến hành giao dịch khi ở cách xa nhau, không bị giới hạn bởi không gian địa lý. Với người tiêu dùng, họ có thể ngồi tại nhà để đặt hàng, mua sắm nhiều loại hàng hóa, dịch vụ nhanh chóng. Việc không phải mang theo nhiều tiền mặt, giảm thiểu rủi ro mất tiền, tiền giả, nhầm lẫn… sẽ giảm bớt được việc thiếu minh bạch so với giao dịch bằng tiền mặt.
PHẦN 1
Tìm Hiểu Về Thẻ Debit Card
Khái Niệm Thẻ Debit Card
Thẻ ghi nợ (Debit card): đây là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi đợc sử dụng để mua hàng hoá hay dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn ... đồng thời chuyển ngân ngay lập tức vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn... Thẻ ghi nợ còn hay được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động.
Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuôc vào số dư hiện hữu trên tài khoản của chủ thẻ.
Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản
Thẻ online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản chủ thẻ.
Thẻ offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch đợc khấu trừ vào tài khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
Đặc điểm thẻ Debit Card
Thẻ Ghi nợ - Debit Card (DC) là loại thẻ được phát hành dựa trên việc ghi nợ trực tiếp vào tài khoản tiền gửi của chủ thẻ. Do đó, việc đầu tiên để được phát hành thẻ là bạn phải làm thủ tục mở 1 tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Và cũng chính đặc điểm này mà DC còn có chức năng chuyển khoản từ TK tiền gửi của người này sang TK người khác và một số chức năng khác mà CC (Credit Card )không có.
Với khái niệm như trên, điểm khác biệt so với CC là DC không hề có hạn mức tín dụng mà hạn mức sử dụng chính là số tiền bạn hiện có trong tài khoản tiền gửi của bạn. Do mục đích chủ yếu của PC là phương tiện thanh toán không dùng thương mại nên thường các NH sẽ cho phép bạn dùng DC để thanh toán tiền mua hàng cho tới khi tài khoản của bạn chỉ còn số dư tối thiểu (hiện nay đa số các NH ở VN qui định số dư tối thiều trong tài khoản tiền gửi từ 0 – 100.000 VNĐ), nhưng chỉ cho rút tiền mặt từ máy ATM trong giới hạn nhất định mặc dù có thể số dư tài khoản của bạn còn rất lớn (ở Việt Nam hiện nay hạn mức rút tiền mặt từ máy ATM cho DC là 10.000.000 – 20.000.000/ngày, tùy ngân hàng và tùy loại thẻ). Tại VN hiện nay, Debit card cũng có 2 loại là Debit card quốc tế và Debit card nội địa.
Debit card quốc tế có các thương hiệu như: Visa Debit Card, Visa Electron Card, MasterCard Dynamic, MasterCard Electronic, Master MTV Debit Card, …Debit card nội địa là tất cả các loại thẻ mà chúng ta thường gọi là thẻ ATM (thật ra do thói quen chứ tên này không chính xác, như đã trình bày thì có nhiều loại thẻ có thể sử dụng tại máy ATM) do các ngân hàng phát hành với chính thương hiệu của ngân hàng đó, ví dụ : VCB Connect 24, Đông Á, Techcombank, Inconbank, BIDV, Agribank, … Do chưa có tiếng nói chung nên thẻ ATM ở Việt Nam hiện nay còn tình trạng thẻ ATM của ngân hàng này có thể không rút được tiền tại máy ATM của ngân hàng khác (hiện nay bước đầu đã có 1 số liên minh của các Ngân hàng Việt Nam về thẻ ATM). Việc này gây ra nhiều lãng phí xã hội như phải phát hành nhiều thẻ, đầu tư nhiều máy ATM do mỗi ngân hàng phải tự đầu tư máy, phát triển cơ sở vật chất.
Tính năng thẻ Debit Card
bạn có thể thanh toán offline tại các cửa hàng, siêu thị, khách sạn, v.v. Có thể thanh toán online nhưng số lượng site hay shop online chấp nhận loại thẻ này hạn chế hơn thẻ credit.
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thẻ
Thứ nhất, đại đa số người dân Việt Nam có thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán hàng ngày bởi họ cho rằng tiền mặt là phương tiện thanh toán này đơn giản và thuận tiện nhất.
Thứ hai, cổng thanh toán trực tuyến chỉ chấp nhận các loại thẻ thanh toán quốc tế như VISA card, Master Card… Trong khi đó, theo thống kê, trong số hơn 20 triệu người sử dụng Internet tại Việt Nam thì chỉ có 20% có thẻ ghi nợ và 1% có thẻ tín dụng tại các ngân hàng trong và ngoài nước.
Tâm lý sợ rủi ro
Theo các chuyên gia của ngành ngân hàng, việc người tiêu dùng Việt đã quá quen và lệ thuộc vào tiền mặt, cũng như tâm lý "sờ tận tay, nhìn tận mắt" mới yên tâm đã khiến cho thanh toán phi tiền mặt gặp rất nhiều khó khăn khi áp dụng vào đời sống. Có một thực tế là dù nhiều công ty đã tiến hành trả lương cho công nhân, nhân viên qua ATM, nhưng chỉ vài phút sau khi có lương, các nhân viên đã ùa ra quầy ATM để rút sạch tiền, với lý do "để tiền trong tài khoản ngân hàng thì... không yên tâm."
Còn quá ít dịch vụ
Ngoài thói quen sử dụng tiền mặt của người dân còn quá lớn, người dân không thích sử dụng thanh toán qua ATM còn do các dịch vụ trên Internet Banking, Mobile Banking hiện vẫn chưa thực sự đa dạng, công tác quảng bá của nhà băng về dịch vụ lại khá ít nên không thu hút được sự quan tâm nhiều của khách hàng.
Thách thức bảo mật thẻ:
Đặc biệt, khi một loạt các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực như Malaysia, Đài Loan, Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc... đang tích cực chuyển sang loại thẻ thông minh theo chuẩn EMV có độ bảo an cao hơn, những kẻ tội phạm giả mạo thẻ đang có xu hướng chuyển hoạt động sang địa bàn Việt Nam, vì tuyệt đại đa số người Việt Nam đang sử dụng thẻ từ (loại thẻ dễ bị làm giả.)
Đứng trước nguy cơ này, nhiều ngân hàng Việt Nam dường như vẫn "bình chân như vại". Cũng đã có một số trường hợp kiện cáo vì bị mất tiền từ thẻ ATM.
Có thể trong một số trường hợp, lỗi thuộc về phía khách hàng nhưng cách giải quyết của nhiều ngân hàng nhiều khi chưa "thấu tình đạt lý". Đa phần trong các vụ kiện này, người sử dụng bị thua kiện vì ngân hàng luôn "nắm đằng chuôi".
Công việc trang bị kiến thức bảo mật thẻ cho khách hàng dường như chỉ được thực hiện một cách qua loa và thiếu sự quan tâm đúng mức. Với những bất cập trong hệ thống thanh toán ATM của mình, đa phần các ngân hàng sử dụng biện pháp "mũ ni che tai". Còn người sử dụng, nếu không may mắc phải, thì cũng đành than trời và dặn nhau "Thôi đành tự bảo trọng!".
Dù sao đi nữa, người tiêu dùng Việt Nam cũng đã quen dần với việc sử dụng một trong những phương thức thanh toán hiện đại, tiện dụng - thẻ ATM
PHẦN 3
CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM
PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH THẺ
1. Những tiêu chí đánh giá chất lượng thẻ thanh toán
Khi nền kinh tế càng phát triển, nhu cầu thanh toán và các tiện ích ngân hàng càng cao. Để đáp ứng yêu cầu đó, đối với mỗi quốc gia mỗi hệ thống ngân hàng, vấn đề phát triển mở rộng các dịch vụ ngân hàng hiện đại luôn được đặc biệt quan tâm. Nó vừa là thước đo vừa là cơ sở điều kiện để phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng như nền kinh tế, giúp các ngân hàng đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá sản phẩm dịch vụ và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán mới và tiến bộ trong xã hội. Đây là một sản sẩm của hệ thống ngân hàng thời kỳ hội nhập. Ra đời vào năm 1949 tại Hoa Kỳ, tới năm 1993, thẻ thanh toán chính thức có ra đời ở Việt Nam do ngân hàng Vietcombank phát hành, Đến nay, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của thị trường thẻ Việt Nam). Thị trường thẻ tăng trưởng bình quân 300%/năm, với các sản phẩm ngày càng phong phú đa dạng. Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế mạnhh nhất cả nước, nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa mạnh mẽ, tại đây, sự phát triển của thẻ thanh toán đã có những bước tiến vượt trội.
Tuy nhiên, nhận định một cách khách quan, vẫn còn nhiều vướng mắc. Thẻ thanh toán vẫn chưa được phục vụ người tiêu dùng đúng như mục đích ra đời của nó. Vấn đề đặt ra là thẻ thanh toán cần phải đạt được những gì thì mới có thể hoàn thiện và phát triển đúng với tiềm năng của nó.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán, thẻ thanh toán hoàn thiện thì phải vượt trội hơn những phương tiện thanh toán trước nó. Như vậy trước hết, nó phải có được những ưu điểm của những phương tiện thanh toán trước đó.
Thẻ thanh toán có thể đảm bảo chức năng thanh toán một cách gọn nhẹ, nhanh chóng. Tuy nhiên, như vậy chưa đủ, một phương tiện thanh toán hoàn thiện phải đảm bảo một tính năng quan trọng, nhóm xin gọi tính năng này là độ thông dụng.
Độ thông dụng của phương tiện thanh toán là mức độ chấp nhận phương tiện thanh toán đó, được đánh giá qua hoạt động sử dụng phương tiện thanh toán của người của người sở hữu phương tiện thanh toán đó.
Thẻ thanh toán muốn hoàn thiện phải đảm bảo độ thông dụng của nó. Muốn như vậy nó phải đảm bảo lợi ích của các khối chủ thể có liên quan khiến cho các bên đều vui vẻ trong tiến trình phát triển thẻ thanh toán.
Đối với khối chủ thể người tiêu dùng, thẻ thanh toán phải là phương tiện thanh toán hữu hiệu, đảm bảo khả năng thanh toán ở mức cao, tức là phải đảm bảo thanh toán nhanh, gọn, thuận tiện mà không làm thiệt hại gì dến lợi ích khác của chủ thẻ. Cụ thể hơn, thẻ thanh toán phải đảm bảo thanh toán bất kỳ nơi đâu, và bất kỳ nơi nào, chi phí cho việc giao dịch ở mức thấp nhất có thể (thậm chí có thể bằng 0). Tiêu chuẩn này cũng có nghĩa là thẻ thanh toán phải có hệ thống thanh toán, giao dịch rộng và tốt hay là có nhiều điểm giao dịch và chất lượng dịch vụ đảm bảo. Điều này phụ thuộc vào tổ chức cung cấp thẻ. Bên cạnh đó, để mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, thẻ thanh toán phải đảm bảo và phát huy những tiện ích của nó mà người dân đánh giá là vượt trội như nhỏ gọn, thời gian thanh toán nhanh, an toàn trong việc nắm giữ tiền... và đảm bảo khắc phục những bất cập mà nó đang mang theo.
Đối với khối chủ thể các tổ chức cung cấp thẻ là các ngân hàng. Thẻ thanh toán phải đem được lợi nhuận về cho ngân hàng. Chúng ta đều biết, việc phát triển thẻ thanh toán đòi hỏi phải đầu tư cơ sở vật chất ban đầu rất tốn kém, nếu khả ăng thu hồi vốn không có hoặc quá thấp, không thể bù đắp những lợi ích mà ngân hàng từ bỏ để tập trung cho phát triển thẻ thì việc cung cấp dịch vụ thẻ thanh toán của các ngân hàng là vô nghĩa nếu không nói là ngốc nghếch. Để đảm bảo điều này mà không thiệt hại dến lợi ích từ phía người sử dụng yêu cầu thẻ thanh toán phải thu hút được nhiều người sử dụng, một vài người có thể không đem lại lợi nhuận hoặc chỉ đem lại lợi nhuận rất thấp về cho ngân hàng nhưng với số lượng người sử dụng lớn thì sẽ là nguồn lợi khổng lồ cho các ngân hàng.
Đối với các khối chủ thể là tổ chức chấp nhận thanh toán bằng thẻ, thẻ thanh toán phải đem lại lợi ích cho doanh ngiệp thông qua doanh thu bán hàng. Việc thanh toán bằng thẻ phải đảm bảo doanh thu của doanh nghiệp không được thấp hơn khi than toán bằng tiền mặt. Muốn vậy, thời gian thanh toán bằng thẻ phải nhanh và cách thanh toán phải gọn, và phải kích thích tiêu dùng.
Đối với khối chủ thể là các cơ quan nhà nước, thẻ thanh toán phải đảm bảo chức năng kiểm soát vĩ mô của các cơ quan này. Thông qua thẻ thanh toán, các cơ quan nhà nước biết có thể biết được lượng tiền lưu thông trong thị trường, từ đó đề ra các biện pháp hữu hiệu để điều chỉnh. Thẻ thanh toán không được chưa đựng khả năng lạm phát cao như tín tệ (tiền mặt cũng là tín tệ).
Có thể tóm lược rằng, tiêu chí đánh giá chất lượng thẻ thanh toán chính là độ thông dụng của thẻ so với các phương tiện thanh toán khác. Xác định độ thông dụng của thẻ thanh toán ta dựa vào 4 tiêu chí sau :
Khả năng đem lại lợi ích cho người sử dụng gồm có: sự nhỏ gọn, tính an toàntrong việc nắm giữ tiền, hệ thống thanh toán rộng. Dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt
Khả năng đem lại lợi ích cho tổ chức cung cấp đó là sự thu hút người sử dụng để thu lợi nhuận từ số đông.
Khả năng đem lại lợi ích cho tổ chức chấp nhận thanh toán đó là thời gian thanh toán nhanh và tiêu thu hàng hóa nhiều.
Khả năng đem lại lợi ích cho các cơ quan nhà nước đó là khả năng cung cấp thông tin vaì khả năng kìm hãm lạm phát.
2. Lợi ích nhận được từ việc phát triển thẻ thanh toán
Đối với chủ thẻ
Việc thanh toán nhanh, gọn, thuận tiện giúp giảm đáng kể một số chi phí như chi phí đi lại, tiết kiệm đáng kể thời gian giao dịch. Mặt khác, việc cầm 1 tầm thẻ trong tay sẽ an toán hơn việc bạn cầm 1 lượng tiền mặt lớn khi có nhu cầu giao dịch lớn. Thuận tiện hơn trong việc giao dịch đườn dài. Bạn có thể đặt hàng đường dài và thanh toán bằng cách chuyển khoản. Ngoài ra, bạn có thể hưởng mức lãi suất với số tiền trong thẻ, mặc dù lãi suất nhận được rất thấp do đây là lãi suất tiền gửi vô thời hạn nhưng tỷ suất lợi nhuận của việc này vẫn cao hơn việc bạn nắm giữ tiền mặt trong người mà không làm gì cả. Nếu bạn có cơ hội đầu tư có thể sinh lợi cao hơn, bạn vẫn có thể yên tâm đầu tư vì thẻ thanh toán cũng không ràng buộc tài sản của bạn trong tài khoản thẻ.
Đối với ngân hàng
Ngân hàng có thể thu lợi từ phí giao dịch. Nhưng không nên quá lạm dụng chúng, thẻ thanh toán cung cấp cho ngân hàng một khoản vốn vay khổng lồ với mức lãi suất rất thấp. Khi sử dụng thẻ, ít ai rút hết tiền mặt ra giữ bên ngoài và giữ thẻ không có giá trị trong ví.ví dụ TP.HCM hiện có hơn 3 triệu thẻ làm một phép tính đơn giản mỗi người chỉ để lại trong thẻ 10000 đồng, như vậy số vốn vay mà ngân hàng có được là hơn 30 tỷ đồng, số tiền không nhỏ chút nào.
Đối với các tổ chức chấp nhận thanh toán
Thẻ thanh toán với những tiện ích của nó giúp cho các đại lý không quá mất thời gian cho việc thanh toán của khách hàng, sử dụng thẻ thanh toán cũng giúp thích thích tiêu dùng, đem lại nguồn doanh thu cho các tổ chức này
Đối với các cơ quan chức năng nhà nước
Thẻ thanh toán là công cụ giúp các cơ quan chức năng nhà nước có thể theo dõi một số biến đông của nền kinh tế để đề ra các biện pháp quản lý vĩ mô, thông qua số lượng tài khoản, giá trị trong tài khoản, sự những thay đổi trong hệ thông tài khoản có thể giúp cơ quan chức năng có thể nắm bắt tình hình. Ngoài ra, vấn đề kiểm soát lượng tiền mặt trong lưu thông hàng hóa cũng là vấn đề đau đầu của khối chủ thể các cơ quan này, việc sử dụng thẻ cũng giúp làm giảm đáng kể lượng tiền mặt lưu thông trong thi trường giúp hạn chế khả năng lạm phát và cũng thuận tiện hơn cho nhà nước trong việc đối phó với những biến động của nền kinh tế mà lạm phát là một ví dụ.
3. Những kiến nghị và giải pháp phát triển thẻ thanh toán
Mặc dù phát triển thẻ thanh toán như một xu thế tất yếu trong xu hướng phát triển của Việt Nam, tuy nhiên để hoạt động thanh toán thẻ mang lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế cần phải có những giải pháp hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thẻ thanh toán. Sau đây là một số giải pháp cần thiết đối với thị trường thẻ thanh toán trong giai đoạn hiện nay
3.1. Đối với khối chủ thể các ngân hàng cung cấp
Đẩy mạnh phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
Tiến sĩ Lê Thị Kim Nhung trong bài “nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ ngân hàng” mạng lưới máy ATM, POS còn quá ít so với số lượng khách hàng”... ... “Bình quân tại Việt Nam hiện nay mật độ phân bố máy là 23.000 người/ 1 máy ATM hoặc POS trong khi đó tại Singapore là 2638 người/ máy”.
Có thể hiểu, sự phát triển của hệ thống thanh toán thẻ Việt Nam mớ chỉ đi theo chiều rông chứ chưa có chiều sâu. Số lượng thẻ phát hành ra trong những năm qua tăng nhanh một cách chóng mặt nhưng việc sử dụng thẻ, ứng dụng thẻ vào trong cuộc sống sinh hoạt thì tốc độ lại rất chậm chạp. Việc phát triển thẻ đòi hỏi các ngân hàng phải đầu tư hệ thống cơ sở vật chất ban đầu khá tốn kém và điều này khiến các ngân hàng e dè. Tuy nhiên, ngân hàng quên một điều, thẻ thanh toán cũng là một loại hàng hóa. Hơn nữa, loại hàng hóa này ra đời để đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội tiến bộ. Số liệu thống kê cho thây một lượng lớn người dân hài lòng với thẻ thanh toán, có nghĩa là người dân đã sẵn sàng cho việc sử dụng thẻ, vấn đề ở đây là nằm ở phía các ngân hàng cung cấp dịch vụ này.Nếu như các ngân hàng đảm bảo cho việc sử dụng thẻ thanh toán được thực hiện thì lợi ích mà các ngân hàng nhận được sẽ cao hơn nhiều so với phí tổn ban đầu mà ngân hàng bỏ ra do hưởng lợi ích từ số đông người sử dụng. Đặc biệt là các ngân hàng phải quan tâm phát triển đồng bộ để giảm thiểu sự chênh lêch trong phát triển thẻ .Các ngân hàng phải nhanh chóng giải quyết vấn đề này.
Liên kết các ngân hàng
Hệ thống thanh toán của các ngân hàng còn nhiều hạn chế. Việc đầu tư hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu tốn kém khá nhiều chi phí. Với thực lực hiện nay của các ngân hàng hiện nay, các ngân hàng có thể mở rộng hệ thống thanh toán bằng cách tận dụng hệ thống cơ sở vật chất của nhau. Các ngân hàng không nên vì mục tiêu đảm bảo lợi nhuận của mình mà hạn chế việc liên kết với nhau. Thực tế, việc đảm bảo hệ thống thanh toán tốt sẽ thu hút người tiêu dùng sử dụng thẻ. Các ngân hàng cùng nhau phát triển vẫn tốt hơn việc phát triển không đồng bộ. Các ngân hàng có thể đảm bảo lợi ích của mình bằng một số loại phí, loại phí nhóm đề xuất không phải là phí thu từ khách hàng. Việc thu phí từ khách hàng tạo ra sự phản cảm tử phía khách hàng và hạn chế sự phát triển của thẻ. Phí thu do ngân hàng yêu cầu liên kết trả cho ngân hàng được yêu cầu liên kết dựa vào lợi nhuận mà ngân hàng đó thu được từ hoạt động thanh toán thẻ. Như vậy, các ngân hàng cùng nhau chia sẽ lợi nhuận từ khách hàng, ngân hàng yêu cầu liên kết tận dụng hệ thống thanh toán của ngân hàng được yêu cầu liên kết và đồng thời đóng góp một phần lợi ích cho các ngân hàng được yêu cầu liên kết. Nếu tiến hành thực hiện liên kết các liên minh này sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của thẻ.
Nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo lợi ích cho chủ thẻ.
Bên cạnh việc tìm kiếm thu hút khách hàng, các ngân hàng phải tập trung để giữ những khách hàng có sẵn. Trên thực tế, chất lượng dịch vụ thẻ đã khiến cho nhiều khách hàng phải phàn nàn. Thực trang đang điễn ra đó đang làm mất niềm tin của khách hàng, một loại hàng hóa không chiếm được lòng tin của khách hàng thì hàng hóa đó không có khả năng phát triển. Các ngân hàng phải đảm bảo cho khách hàng sử dụng thực hiện được mục đích sử dụng thẻ của mình.
Hình 3.1 :Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Văn Giàu trong buổi hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2009 của NH Công Thương Việt Nam ngày 11/01/2009, tại Hà Nội (Nguồn: Vietinbannk)
Hình 3.2 :Họp báo về Banking 2009 sáng 10/4/2009 tại Hà Nội. (Ảnh: Tr. Anh).
(Nguồn:Vietnamnet.vn, vnecon.com)
Cụ thể, khi thẻ chưa phát triển chức năng thanh toán như hiện nay, các ngân hàng phải đảm bảo mục tiêu cất giữ tiền và mục tiêu chuyển khoản cho các chủ thẻ. Không được để các tình trạng, khách hàng rút tiền máy hết tiền, hoặc khi khách hàng chuyển khoản thanh toán mà phải chờ 2, 3 ngày người nhận mới nhận được tiền...
Đảm bảo vấn đề an ninh tài khoản thẻ
Vấn đề an ninh của thẻ thanh toán cũng rất bức xúc đối với người dân. Việc đảm bảo tính an ninh của thẻ cũng là một yếu tố đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Hiện tại, một số ngân hàng đã bắt đầu cung cấp thẻ thông minh EMV, EMV là chuẩn thẻ thanh toán có gắn chip điện tử do 3 liên minh thẻ lớn nhất thế giới là Europay, Master Card và Visa đưa ra. So với các loại thẻ từ hiện nay, khả năng hoạt động như một máy tính cho phép thẻ chip có độ an toàn cao hơn bởi khả năng chống lại các hành vi dò (skimming) hay sao chép nội dung thông tin. Khi thực hiện thanh toán, thẻ chip sẽ gửi thêm một thông báo mật nhằm xác minh mỗi giao dịch, khiến tội phạm không thể đánh cắp thông tin để làm thẻ giả, đây là một loại thẻ chíp có tính an toàn rất lớn, các ngân hàng nên chú ý để tập trung phát triển. Ngoài ra, nếu như chúng ta liên kết với Bộ Công an cấp cho mỗi người dân một tấm thẻ thanh toán mang đầy đủ chức năng của một chứng minh thư và như vậy vấn đề an ninh trong thanh toán được thắt chặt hơn đồng thời việc quản lý con người của cơ quan công an cũng dễ dàng hơn.
Tiến hành các hoạt động để người dân biết đến thẻ thanh toán.
Theo số liệu nghiên cứu của nhóm thì mức độ quan tâm hiểu biết của người dân về thẻ thanh toán còn ở mức độ khá thấp. Các ngân hàng phải giải quyết bất cập trên. Thẻ thanh toán cũng như một loại hàng hóa, đây là một loại hàng hóa mà khách hàng có sự suy tính trước khi sử dụng. Các ngân hàng phải phổ biến các kiên thức về thẻ cho người dân, phải có hoạt động Marketing và PR phù hợp để người dân biết đến, sử dụng và trung thành với phương tiện thanh toán này. Các hoạt động quảng cáo trên tivi, đài, báo, internet có tác dụng lớn trong việc kích thích người dân tìm hiểu về thẻ, cũng có thể thông qua các hoạt động tài trợ, hoặc cử các chuyên viên đến địa điểm cụ thể để hướng dẫn người dân cách sử dụng thẻ và cho người dân biết lợi ích từ hoạt động thanh toán thẻ, hoạt động này tạo được lòng tin khá cao đối với khách hàng. Các ngân hàng cũng nên cử nhân viên đến các địa điểm cụ thể để làm thẻ cho người dân vì nhiều người ngại đi làm thẻ, ngân hàng phải chủ động phục vụ khách hàng. Các ngân hàng cũng nên kết hợp với các tổ chức khác để kết hợp tính năng thẻ trong những giấy tờ quan trọng của người dân chẳng hạn như thẻ nhân viên hay thẻ sinh viên...
Chủ động tìm kiếm, liên kết với các đại lý thanh toán để nâng cao chức năng thanh toán của thẻ. Các máy thanh toán POS của các ngân hàng cũng đã có mặt trên thị trường nhưng hầu hết là ở các cửa hàng lẻ. Tại đây nhu cầu chi tiêu của người dân chưa thực sự gắt gao. Tâm lý tiêu dùng tại các đại lý này vẫn là tiền mặt là trên hết. xu hướng mua hàng tiêu dùng, sinh hoạt tại các cửa hàng, siêu thị. Đặc biệt là các siêu thị ngày càng cao. Bởi sự an toàn thực phẩm; giá cả hợp lý và hàng hoá đáng tin cậy... đã thu hút nhiều người dân thành phố mua sắm phổ biến hơn tại các siêu thị trong những năm gần đây. Hơn nữa, nếu sử dụng thẻ để thanh toán trong lĩnh vực mua bán tại siêu thị, cửa hàng... thì chắc chắn sẽ làm thay đổi hẳn tư duy, thói quen sử dụng tiển mặt trong mua bán hàng của các tầng lớp dân cư. Tạo ra bước phát triển căn bản và có tính đột phá đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt – là cơ sở quan trọng để thúc đẩy và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
Xâm nhập vào những thị trường mới mà nhu cầu giao dịch ở đó thật sự cần thiết.
Hoạt động này không những đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng mà còn đem lại nguồn lợi lớn cho các ngân hàng. Chẳng hạn như thị trường chứng khoán, thị trường này có nhu cầu giao dịch cao và đòi hỏi sự nhanh chóng và thuận tiện nên việc đưa thẻ thanh toán vào hoạt động trong thị trường này sẽ được đông đảo nhà đầu tư đón nhận. Số lượng nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán không phải nhỏ sẽ đem lại nguồn lợi lớn cho các ngân hàng.
3.2. Đối với khối chủ thể các tổ chức chấp nhận thanh toán thẻ
Nên chủ động trong việc kết hợp với các ngân hàng trong việc xây dựng cở sở hạ tầng cho việc thanh toán thẻ. Các đại lý thanh toán cũng phải mạnh dãn lắp dặt thêm hệ thống máy thanh toán, tránh trường hợp thắt nút cổ chai, người có thẻ thì nhiều nhưng người sử dụng thẻ thì ít, đảm bảo cho việc thanh toán thẻ được thực hiện nhanh chóng và thuận tiện.
Các đại lý thanh toán nên có khu vực thanh toán riêng cho thẻ với những nhân viên có sự hiểu biết về thẻ đáng kể để chuyên môn hóa việc thanh toán thẻ tại đại lý. Nên sử dụng các máy thanh toán chấp nhận nhiều thẻ của nhiều ngân hàng để tránh xảy ra thực trạng phát triển không đồng bộ giữa các loại thẻ của các ngân háng khác nhau. Việc nâng cao mức độ thông dụng của thẻ thanh toán cũng phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sử dụng. Môi trường sử dụng thẻ tốt sẽ thu hút người dân tìm đếm và sử dụng thẻ.
Các đại lý thanh toán không nên tính phí sử dụng thanh toán thẻ mà phải có những chính sách ưu đãi. Một phương tiện thanh toán nhanh gọn sẽ kích thích tiêu dùng, đây chính là mục tiêu kinh doanh mà các doanh nghiệp mong muốn. Các đại lý thanh toán có thể triển khai chương trình “tích điểm khi sử dụng thẻ để có cơ hội nhận được những phần thưởng giá trị”, con người hành động vì lợi ích sẽ cảm thấy đây là một lợi ích đem lại từ việc sử dụng thẻ và tạo ra nhu cầu sử dụng thẻ thanh toán.
3.3. Đối với khối chủ thể các cơ quan chức năng nhà nước
Các cơ quan chức năng nhà năng nhà nước có chức năng quản lý và điều hành hoạt động thanh toán thẻ trên thị trường. khi mà việc thanh toán thẻ vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, chức năng quản lý của các cơ quan chức năng nhà nước càng được coi trọng. Các cơ quan này phải thực hiện chức năng quản lý và xác định phương hướng phát triên thẻ thanh toán cả trên tầm vi mô và vĩ mô. Các cơ quan chức năng phải có những hoạt động cụ thể góp phần phát triển dịch vụ thanh toán thẻ.
Phải thành lập tổ chức chính thức quản lý và điều hành hệ hoạt động thanh toán thẻ. Tại Việt Nam vẫn chưa có một tổ chức nào chính thức đứng ra điều hành hoạt động thanh toán thẻ. Các hoạt động thanh toán thẻ vẫn chịu sự quản lý chung của Ngân hàng nhà nước. Trên thực tế, đã có văn bản quy định, hướng dẫn các ngân hàng trong việc cung cấp thẻ và các chủ thẻ trong việc sử dụng thẻ, trong đó có quy định về quyền và nghĩa vụ của các ngân hàng và các chủ thẻ trong hoạt đông thanh toán thẻ nhưng đây chỉ là các quy định gướng dẫn của thủ tướng chính phủ đưa xuống và các ngân hàng thực hiện. Thị trường thẻ là một thị trường tiềm năng, thẻ thanh toán là một phương thức thanh toán tiến bộ, cần phải có một tổ chức chính thức đứng ra nhận trách nhiệm điều hành và quản lý hoạt động này giống như ngân hàng trung ương điều hành hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại.
Phải xây dựng hành lang pháp lý vững chắc, chặt chẽ cho hoạt động thanh toán thẻ. Tránh để xảy ra việc quyền lợi của chủ thẻ bị xâm phạm mà kêu trời, trời không thấu, kêu đất, đất không hay chẳng hạn như việc chủ thẻ đi rút tiền tại máy ATM nhưng bị xâm pham quyền lợi (rút tiền không được nhưng vẫn bị trừ tiền trong tài khoản nhưng vẫn không có cơ quan nào chịu trách nhiệm), phải có biện pháp chế tài nghiêm khắc như phạt vào tài chính thật nặng đối với các tổ chức không thực hiện các quy định về phát hành và sử dụng thẻ thanh toán.
Có hoạt động khuyến khích hoặc bắt buộc các ngân hàng liên kết với nhau để tạo ra thị trường thanh toán rộng. Hiện nay, đã có một số tổ chức liên kết thẻ, nhưng các tổ chức này chỉ thực hiện liên kết thanh toán thẻ giữa các ngân hàng trong liên minh. Cần phải khuyến khích hoặc bắt buộc các liên minh này liên kết với nhau.
Phải có hoạt động hỗ trợ cho việc phát triển thẻ. Chúng ta thấy rằng, các ngân hàng không phải không muốn phát triển dịch vụ thẻ thanh toán mà là do phí tổn ban đầu khá cao tạo sức ép cho khiến các ngân hàng vẫn rụt rè trong việc cung cấp dịch vụ này. Các cơ quan chức năng nhà nước nên cung cấp vốn vay cho các ngân hàng đẩy mạnh dịch vụ này với mức lãi suất phù hợp sao cho đảm bảo việc ngân sách nhà nước không bị thâm hụt mà vừa giúp các ngân hàng đẩy mạnh phát triển thanh toán thẻ. Các cơ quan chức năng cũng có thể kết hợp với các ngân hàng cùng nhau phát triển dịch vụ này, các cơ quan chức năng cung cấp vốn, các ngân hàng có công nghệ, hợp tác và chia sẻ lợi ích đạt được từ hoạt động thanh toán thẻ, vừa đảm bảo lợi ích cho các bên mà vừa đảm bảo sự phát triển của thẻ thanh toán. Các cơ quan chức năng nên đặt mục tiêu là sự phát triển dài hạn và lợi ích đạt được trong dài hạn của thẻ thanh toán.
Lời kết
Kết thúc tiểu “: “ tìm hiểu thẻ Debit Card và giải pháp phát triển ở Việt Nam”,bản thân em mong muốn các ngân hàng có thể hiểu rõ và có sự quan tâm đúng mức đến loại hình thanh toán tiến bộ này. Đây không phải là nhiệm vụ chỉ của các ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ hay của người sử dụng, mà nó là vấn đề của toàn xã hội, của mỗi người trong chúng ta.
Là sản phẩm của xã hội tiến bộ, thẻ thanh toán đã khẳng định vai trò là một phương tiện thanh toán hoàn thiện nhất trong lịch sử tiền tệ giúp đẩy nhanh quá trình thanh toán, tiết kiệm chi phí giao dịch, tận dụng dòng tiền nhàn rỗi và giảm lượng tiền mặt lưu thông, ổn định việc lưu thông hàng hóa cũng như tiền tệ.
Thẻ thanh toán sẽ là một phương tiênj thanh toán tốt để góp thúc đẩy kinh tế của Việt Nam đi lên, hòa vào xu thế hội nhập.
Những giải pháp mà tiểu luận, mặc dù thông qua nhiều ý kiến có thể xem là không dễ dàng thực hiện, hoặc khó có thể thực hiện riêng lẻ, hoặc là những ý tưởng có điều kiện phức tạp, nhưng đều hướng tới một mục đích cuối cùng, đó là xây dựng một phương tiện thanh toán hoàn thiện và tạo nền tảng để phát triển kinh tế một cách bền vững
Hi vọng với những giải pháp phát triển đưa ra, sẽ cung cấp một phâng thông tin cho các cơ quan công quyền để chúng ta có thể cùng nhau góp sức xây dựng và hoàn thiện một phương tiện thanh toán tiến bộ, cùng nhau tạo nền tảng vững chắc cho phát triển nền kinh tế nước nhà, giúp Việt Nam tự tin sánh bước với các nước phát triển, đặc biệt trong vấn đề thanh toán, giao dịch và chi trả mua bán hàn hóa.
NGUỒN VÀTÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài giảng: thị QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG của trường Đại Học Kinh Tế Đà Nẵng
Tài liệu thảo luận với các bạn Sinh Viên trên trang vnecon.com
Tài liệu : QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG- học viện ngân hàng
GIẢI THÍCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
DC :Debit Card
CC : Credit Card
POS : Máy thanh toán tiền tự động
ATM : Máy rút tiền tự động
TP.HCM : Thành phố hồ chí Minh
TTKDTM : Thanh toán không dùng tiền mặt
NH : Ngân hàng
LỤC MỤC
MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1 TÌM HIỂU TỔNG QUAN VỀ THẺ 2
Lịch sử hình thành của thẻ 2
Những tấm thẻ đầu tiên trên thế giới 2
Quá trình thẻ thanh toán vào Việt Nam 2
Phương thức thanh toán bằng thẻ và tính ưu việt của nó 4
PHẦN 2 TÌM HIỂU VỀ THẺ DEBIT CARD 7
Khái niệm thẻ Debit Card 7
Đặc điểm thẻ Debit Card 7
Tính năng thẻ Debit Card 8
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thẻ 8
PHẦN 3 CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH THẺ 10
Những tiêu chí đánh giá chất lượng thẻ thanh toán 10
Lợi ích nhận được từ việc phát triển thẻ thanh toán 12
Những kiến nghị và giải pháp phát triển thẻ thanh toán ở việt nam 13
Đối với khối chủ thể các ngân hàng cung cấp 13
Đối với khối chủ thể các tổ chức chấp nhận thanh toán thẻ 16
Đối với khối chủ thể các cơ quan chức năng nhà nước 17
Lời kết 19
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_the_thanh_toan_3604.doc