Như vậy Đôla hoá có ý nghĩa quan trọng. Nó quyết định đến quá trình phát triển phát triển của đất nước, nhằm giữ vững độc lập về kinh tế và chính trị để đạt được mục tiêu cuối cùng là xây dựng cho VND trở thành phương tiện cất trữ và thanh toán có khả năng chuyển đổi trong nền kinh tế.
Việc tìm ra nguyên nhân và có biện pháp ứng xử kịp thời là một việc làm cần thiết để dưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng Đôla hoá và những ảnh hưởng tiêu cực của nó.
Trong phạm vi một bài tiểu luận nhỏ, em mạnh dạn tham gia vào cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề Đôla hoá hiện nay. Trong quá trình tìm hiểu em biết mình còn gặp nhiều thiếu sót. Em mong dược sự góp ý của các thầy cô giáo
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo của các thầy cô để giúp đỡ em hoàn thành bài viết này !
27 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1183 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vấn đề Đôla hoá hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu
John Connally, Bộ trưởng Ngân khố Mỹ dưới thời tổng thống Nĩxon khi đáp lại lời than phiền của các nguyên thủ quốc gia về vấn đề tỷ giá đã nói: “Đôla là đồng tiền của chúng tôi nhưng là vấn đề của các bạn”. Và quả thật đồng Đôla là đồng tiền của nước Mỹ - đất nước cách chúng ta không biết bao nhiêu ngàn cây số nhưng Đôla đang là vấn đề hiện hữu của nền kinh tế nước ta, một vấn đề đã tốn bao giấy mực để bàn cãi trên các báo và tạp chí trong thời gian vài năm gần đây.
Đi khỏi nền kinh tế Việt nam sau những năm đầu của thập kỷ 90, như là một cố nhân “Đôla hoá” đã trở lại và đặc biệt lộ rõ mặt vào những năm cuối của thế kỷ 20 và những năm đầu tiên của thế kỷ 21 không phải là vấn đề mới mẻ, Đôla hoá gần như lúc nào cũng là nguy cơ tiềm tàng của một nền kinh tế đang phát triển như nước ta. Không được chào đón, Đôla hoá đã gây ra nhiều ảnh hưởng cả tốt lẫn xấu đến nền kinh tế trong nước mà mặt xấu dường như lúc nào cũng chiếm ưu thế. Bởi vậy bàn luận phân tích mổ xẻ vấn đề Đôla hoá trong thời điểm này là vấn đề rất cần thiết. Không có tham vọng giải quyết hết, đề cập đủ mọi vấn đề, bằng bài tiểu luận của mình em chỉ mong muốn góp một tiếng nói vào cuộc thảo luận đang sôi nổi về một vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế-vấn đề Đôla hoá.
Vì kiến thức còn nông cạn cũng như thời gian nghiên cứu chưa nhiều. Bài tiểu luận của em chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót. Mong được các thầy cô góp ý, phê bình và sửa chữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
phần 1 Đôla hóa Một số vấn đề chung
I -Khái niệm đô la hoá
Thông thường mỗi một quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình, thực hiện hầu như đầy đủ các chức năng tiền tệ, trừ chức năng tiền tệ thế giới mà không phải đồng tiền nào cũng làm được. Do điều kiện chính trị-kinh tế-xã hội cụ thể nên đô la Mĩ (USD), một loại ngoại tệ mạnh, có phạm vi giao dịch rộng nhất thế giới, dần dần được sử dụng song hành với đồng nội tệ của quốc gia, đến một mức nào đó được gọi là tình trạng Đôla hoá nền kinh tế. Trong những năm gần đây vấn đề Đôla hoá ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách cũng như công chúng. Vậy căn cứ vào đâu, dựa trên tiêu chí nào để gọi đó là nền kinh tế bị Đôla hoá?
Theo giải thích của một số chuyên gia của IMF, Đôla hoá (dollarization) là tình trạng dân chúng (người cư trú) nắm giữ một tỉ lệ có ý nghĩa trong cơ cấu tài sản của họ dưới hình thức Đôla. Nói một cách khác, trong một nền kinh tế, khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số các chức năng của tiền tệ thì có thể coi nền kinh tế bị Đôla hoá.
II. Phân loại Đô la hoá
Theo IMF tỉ lệ Đôla hoá của một nền kinh tế được căn cứ vào tỉ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng so với lượng tiền cung ứng. Ngày nay khái niệm tiền nói chung và cấu trúc tiền trong mỗi quốc gia đã mở rộng rất nhiều, trong đó quan trọng nhất phải kể đến là M2. Theo cách tính này IMF cho rằng nếu tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ trên M2 trong một nền kinh tế lớn hơn 30% thì nền kinh tế đó có thể coi là gặp phải tình trạng Đôla hoá cao. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp này có 18 nước. Có 34 nước khác được IMF xếp là nước có mức độ Đôla hoá vừa phải với tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ khoảng 16,1%. Việt Nam được IMF xếp vào loại này.
Về cơ bản, Đôla hoá gồm 3 loại chính là: Đôla hoá không chính thức, Đôla hoá bán chính thức và Đôla hoá chính thức.
_Đô la hoá không chính thức là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế mặc dù không được quốc gia này chính thức thừa nhận. Thuật ngữ Đôla hoá không chính thức bao gồm cả các trường hợp nắm giữ tài sản nước ngoài hợp pháp và không hợp pháp. ở một số nước, việc giữ một số tài sản ngoại tệ là hợp pháp như các tài khoản bằng USD tại các ngân hàng trong nước, nhưng lại không hợp pháp khi có tài khoản tại ngân hàng nước ngoài trừ phi được cấp phép.
Đô la hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển
_Đôla hoá bán chính thức. Khoảng 12 nước trên thế giới được IMF xếp là nước “Đô la hoá bán chính thức” hay có hệ thống lưu hành chính thức hai đông tiền. ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày, không giống các nước có Đôla hoá bán chính thức duy trì NHTW hay một cơ quan tiền tệ có quyền hạn tương tự để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
_Đô la hoá chính thức: hay còn gọi là Đôla hoá hoàn toàn xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng tiền duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ đóng vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Các nước thường chỉ áp dụng Đôla hoá chính thức khi thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.
Đôla hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước Đôla hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm tiền hợp pháp. ở hầu hết các nước Đôla hoá chính thức, các đối tác tư nhân được phép kí hợp đồngbằng bất cứ loại tiền nào mà họ cùng đồng ý.
Theo IMF hiện nay có khoảng 14 nước được xếp là các nước Đôla hoá chính thức.
Theo nghiên cứu của hệ thống dự trữ liên bang Mỹ, hiện tại, người nước ngoài nắm giữ khoảng 55% đến 70% số Đôla Mỹ lưu hành.
III -Nguồn gốc Đô la hoá
Theo kinh nghiệm quốc tế thì hiện tượng Đôla hoá thường gặp khi nền kinh tế có tỉ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ giảm thì người dân phải tìm công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng phương tiện thanh toán cũng như làm đơn vị tính toán ( hay là thước đo giá trị )
Các đồng tiền mạnh là những đồng tiền ổn định cả về đối nội và đối ngoại cũng như thông qua vai trò quốc tế của chúng. Điều này được thể hiện bằng chỉ số độ tin cậy “z” mà từ góc độ của quốc gia có đồng tiền yếu, thì chỉ số này có thể được hiểu là tâm lý dự đoán phá giá đồng nội tệ về lâu dài so với đồng tiền chủ đạo. Như vậy, ngay cả khi không có tâm lý dự đoán phá giá đồng tiền trong ngắn hạn thì lãi suất đồng tiền yếu cũng phải cao hơn lãi suất đồng tiền mạnh.
Nội tệ = 1 USD + z
Theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển thì giá trị của “z” vào khoảng từ 5% đến 10%/năm. Đối với NHTW thì đây là một thông số đánh giá quan trọng trong ngắn hạn, bởi vì “z” chỉ có thể thay đổi trong khoảng thời gian dài. Kinh nghiệm cũng cho thấy khi lãi suất ở Mỹ tăng lên 1% thì đòi hỏi lãi suất ở những nước có đồng tiền yếu phải tăng cao rất nhiều, nhằm đối phó lại với tình trạng chuyển đổi tài sản sang USD. Do vậy không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả các nước đang phát triển đều hạn chế hoạt động xuất khẩu vốn tư nhân, nhằm ngăn ngừa việc đầu tư bằng ngoại tệ được trả lãi. Ngoài ra, nếu có thêm tâm lý dự đoán phá giá đồng tiền trong ngắn hạn thì công thức lãi suất cho đồng nội tệ phải được đổi thành
Nội tệ = 1 USD + z +e
(e là tỉ lệ mất giá đồng nội tệ)
Khi lãi suất đồng nội tệ không đảm bảo việc bù thêm đầy đủ các yếu tố này thì dân chúng sẽ thích cất trữ bằng đồng ngoại tệ hơn là nội tệ
IV Các tác động của Đô la hoá đối với nền kinh tế
1/Tác động tích cực
Quá trình đôla hoá đã mang lại cho nên kinh tế một số tác động tích cực
_Việc sử dụng Đôla sẽ tạo cho nền kinh tế “một cái van giảm nhẹ sức ép” của những mất cân đối, kết quả của tính không hiệu quả dưới cơ chế kế hoạch tập trung, đồng thời cung cấp cho các tác nhân kinh tế một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức.
_Hạ thấp chi phí giao dịch. ở những nước Đôla hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Đôla hoá chính thức cũng loại bỏ những giao dịch với các nước khác. Các chi phí dự phòng cho rủi ro cho tỷ giá cũng không cần thiết, điều này giúp thúc đẩy tương mại và đầu tư giữa các nước. Ví dụ thông qua việc dùng đồng Đôla, Mêhicô đã giảm được một khối lượng đáng kể chi phí giao dịch thương mại với Nhật bản vì khâu thương mại Pêsô-Đôla được loại bỏ.
Một khía cạnh khác của lợi ích giảm chi phí là các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Việc tồn tại hai đồng tiền buộc các ngân hàng phải tiến hành danh mục đầu tư tách biệt giữa nội tệ và ngoại tệ.
_Hạ thấp lạm phát hiện tại và rủi ro lạm phát trong tương lai thấp hơn. Bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ các nước Đôla hoá chính thức bảo đảm duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức thấp ở các nước phát hành đồng ngoại tệ. Lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân ,khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Lạm phát thấp cũng giúp những người nghỉ hưu, những người có thu nhập cố định và những người nghèo có các tài khoản tại ngân hàng và có bảo đảm rằng khoản tiết kiệm của họ được duy trì giá trị.
_Lãi suất thấp hơn khuyến khích phát triển kinh tế. ở các nước Đôla hoá chính thức người ta sẽ thực hiện so sánh và tiếp nhận đồng nào có giá trị hơn, có mặt bằng lãi suất thấp hơn. Mặt bằng lãi suất thấp sẽ cho phép tăng trưởng kinh tế cao hơn và sẽ tạo điều kiện để thu hẹp khoảng cách so với các nước công nghiệp.
_Đô la hoá ở mức độ lớn sẽ thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với tỷ giá trên thị trường phi chính thức, các hoạt động càng có động cơ chuyển từ thị trường bất hợp pháp sang thị trường hợp pháp ( thị trường chính thức ).
_Mức độ mở cửa lớn hơn và minh bạch hơn. Các nước thực hiện Đôla hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích thì NHTW sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Đặc biệt là khi một nền kinh tế bị Đôla hoá hoàn toàn nhà nước sẽ không trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt, kỉ luật về tiền tệ và ngân sách nhà nước thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn
2/Tác động tiêu cực
Cũng như các vấn đề khác Đôla hoá cũng có tính hai mặt của nó. Bên cạnh những tác động tích cực, vấn đề Đôla hoá không tránh khỏi những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế:
- Dự trữ ngoại tệ của nhà nước khó tăng trưởng do trốn thoát vốn.
Số lượng Đôla hoá của tư nhân, cơ quan hay doanh nghiệp đã biến thành phương tiện cất trữ thì nhà nước chẳng sử dụng được nữa, trong lúc dự trữ ngoại tệ tại NHTW còn ít ỏi thì lượng ngoại tệ của các NHTM gửi ra nước ngoài lại rất lớn. Rõ ràng Đôla hoá đi cùng với sự chạy trốn vốn bao gồm cả nghĩa xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản ở dây không phải là một khái niệm về địa lý, mà thuộc về chức năng xuất khẩu miêu tả sự chuyển đổi tiền tệ của mình ra ngoại tệ. Số ngoại tệ này không do NHTW nắm giữ, bất kể liệu đồng ngoại tệ đó được cất giữ dưới gối đầu giường hay gửi vào hệ thống ngân hàng trong nước hay nước ngoài. Đó là một sự lẩn tránh việc tạo lập tài sản danh nghĩa bằng đồng bản tệ.
- Đôla hoá càng nặng, đồng bản tệ trở thành đồng tiền chuyển đổi càng trở nên khó khăn.
Sự khác nhau có tính quyết định giữa đồng tiền mạnh và đồng tiền yếu là dựa trên sự ổn định danh nghĩa của nó. Nó liên quan đến chức năng làm phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ. Đôla hoá làm cho đồng bản tệ bị lấn át về chức năng này. Nếu không sớm kiềm chế và đẩy lùi đến lúc nào đó sẽ làm mất vai trò của NHTW. Xét về bên trong với đồng bản tệ thì NHTW không bao giờ thiếu khả năng thanh toán, nhưng lại rất có thể xảy ra với ngoại tệ đối với bên ngoài. Nếu Đôla hoá còn tiếp diễn, đồng bản tệ khó đóng được vai trò làm đồng tiền chuyển đổi.
- Đôla hoá càng tăng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng càng tẻ nhạt.
Bởi thị trường này chủ yếu là mua bán ngoại tệ. Nhưng Đôla hoá làm cho lượng ngoại tệ bị sức hút vào cất giữ trên tài khoản của NHTM. Lượng ngoại tệ này cũng có vốn khả dụng mà người sở hữu là người gửi tiền nên NHTM không thể đưa ra thị trường liên ngân hàng để mua bán mà được. Mặt khác các NHTM lại cho vay thẳng ngoại tệ, rất ít liên quan đến thị trường mua bán ngoại tệ. NHTW sử dụng phương tiện mua và bán kiểm soát, can thiệp thị trường. Nhưng một lượng ngoại tệ lớn vận động lại không qua thị trường này nên không thể làm sôi động lên được.
- Đôla hoá gây trở ngại cho NHTW về kiểm soát và điều tiết nguồn vốn khả dụng.
Việc kiểm soát lượng tiền cung ứng thông qua thị trường mua bán ngoại tệ, NHTW dùng phương tiện của thị trường để điều tiết cung cầu ngoại tệ, mua ngoại tệ vào dự trữ là cung cấp đồng bản tệ ra lưu thông vào thị trường và ngược lại bán ngoại tệ là thu hồi đồng bản tệ về. Việc làm này không làm thay đổi tổng phương tiện thanh toán, chỉ là một sự chuyển dịch giữa hai đồng tiền nhưng nó lại ảnh hưởng tới cung cầu ngoại tệ, liên quan đến sự biến đổi tỷ giá hối đoái, và rất quan trọng qua trạng thái chuyển đổi này NHTW mới nắm được tương đối chính xác về tổng phương tiện thanh toán.
- Đôla hoá làm giảm tác dụng của chính sách tỷ giá khuyến khích xuất khẩu.
Chính sách phá giá đồng bản tệ là hạ thấp giá trị của nó để các nhà xuất khẩu khi thu được ngoại tệ chuyển đổi qua đồng bản tệ sẽ được hưởng một giá trị lớn hơn cộng thêm lãi suất tiền gửi đồng bản tệ hấp dẫn thu nhập của các nhà xuất khẩu tăng cao tạo khả năng cạnh tranh giá cả hàng hoá trên thị quốc tế có lợi cho mình. Nhưng vì Đôla hoá thu hút sự cất trữ và thanh toán bằng ngoại tệ vẫn có lợi các nhà xuất khẩu không muốn bán ngoại tệ cho ngân hàng dẫn đến chính sách tỷ giá kém hiệu lực.
- Đôla hoá còn diễn biến, chủ trương đi đến thả nổi tỷ giá có sự quản lí của nhà nước khó thực hiện.
Như đã nêu trên, Đôla hoá làm cho thị trường mua bán ngoại tệ liên ngân hàng thiếu điều kiện hoạt động, tỷ giá không phản ánh đúng cung cầu cạnh tranh, lực lượng dự trữ ngoại tệ mỏng manh, NHTW chưa đủ sức can thiệp và kiểm soát những điều kiện còn thiếu nên khó thực hiện chính sách thả nổi tỷ giáhối đoái để chuyển công cụ quản lí trực tiếp sang công cụ quản lí gián tiếp.
Phần 2 TìNH TRạNG ĐÔ LA HOá tại việt
nam Thực trạng và giải pháp
Là một trong những nước nằm trong khu vực các nước đang phát triển, với chính sách mở cửa tự do hoá thương mại, Việt Nam cũng phải đối mặt với vấn đề Đôla hoá. Tại Việt Nam, tình trạng Đôla hoá nền kinh tế đã diễn ra trong nhiều năm nay. Trên cơ sở xem xét những vấn đề lý luận chung và dựa vào tình hình thực tế, chúng ta cùng nhìn nhận lại vấn đề Đôla hoá ở Việt Nam: hiện trạng, xu hướng, nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
I - Diễn biến tình trạng Đôla hoá tại Việt Nam
Đồng Đôla Mỹ (USD) mới xâm nhập vào nước ta chừng hơn chục năm nay kể từ khi Nhà nước ta thực hiện chính sách kinh tế thị trường mở cửa. Với cơ chế tiền tệ thế giới đương đại, những đồng tiền mạnh, đặc biệt là đồng USD được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Nó thực hiện vai trò tiền tệ thế giới. Đó là cơ hội cho USD xâm nhập ngày càng mạnh mẽ vào đời sống kinh tế xã hội của các nước. Với chính sách kinh tế thị trường mở cửa, tạo cho quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, giao lưu vốn và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển và tác động trực tiếp vào nền kinh tế—tiền tệ của mỗi nước. Mỗi quốc gia đã xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ. Hiện tượng Đôla hoá dần dần trở thành nhu cầu, thành thói quen và mặc nhiên được thừa nhận ở các nước kém phát triển. Nước ta cũng trong bối cảnh ấy.
Để nghiên cứu cụ thể vấn đề này cần xem xét trên cả ba khía cạnh sau.
1/ Đôla hoá nằm ngoài ngân hàng,
Việc xác định chính xác lượng tiền này là rất khó, nhất là đối với một nước đang phát triển như nước ta, khi mà tình trạng buôn lậu diễn ra phổ biến mà các biện pháp ngăn chặn tỏ ra không có hiệu quả, bộ máy hải quan non kém và tuỳ tiện, luật pháp không nghiêm, tình trạng tham nhũng còn đáng lo ngại. Do đó chỉ có thể căn cứ vào các nguồn Đôla Mỹ từ nước ngoài chuyển vào trong nước qua con đường tư nhân như: thu nhập từ buôn lậu hay buôn bán tiểu ngạch, kiều hối, quà biếu và quà tặng bằng Đôlâ Mỹ cá nhân mang trực tiếp theo mình khi xuất nhập cảnh có khai báo (trên mức qui định) và không khai báo (không tự giác khai báo và dưới mức phải khai báo) các nguồn thu bằng Đôla Mỹ ở trong nước như dịch vụ du lịch với khách nước ngoài... Bởi vậy chủ yếu phải dựa vào quan sát thông tin dư luận, nhìn nhận các giao dịch thanh toán trong dân cư, nhất là các giao dịch có giá trị lớn như mua bán bất động sản, mua xe máy... Thực trạng này thấy rất rõ ở nước ta khi mà hiện nay có tới hơn 2,0 triệu khách quốc tế vào Việt Nam, trên 2,5 triệu Việt kiều (mỗi năm chuyển về nước hơn 2,0 tỷ Đôla ); số lượng người Viêt Nam đi làm việc, học tập công tác du lịch ở nước ngoài đang tăng lên; hoạt động thương mại-buôn bán tiểu ngạch dịch vụ trên biên giới đất liền và trên biển phát triển. Điều hiển nhiên là riêng số kiều hối thống kê của hải quan và các Công ty dịch vụ kiều hối, các ngân hàng được nêu dưới đây chắc chắn không thể là số lượng gần đủ. Số liệu thống kê của NHNN cho hay, lượng kiều hối chuyển về nước các năm gần đây như sau:
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
USD(triệu)
249.47
284.96
468.99
400.00
590.00
1200.0
1757.0
(nguồn: tạp chí ngân hàng số 1+2/2002)
Trong cơ cấu các nguồn chuyển kiều hối năm 2000 thì chuyển qua ngân hàng là 950 triệu USD, chiếm 54,6%; chuyển qua các doanh nghiệp: 165 triệu USD chiếm 9.3%, chuyển qua bưu điện: 32 triệu USD, mang trực tiếp có khai báo với hải quan: 610 triệu USD, chiếm 34,7%. Hiện nay trong cả nước có 62 ngân hàng và 43 tổ chức kinh tế làm dịch vụ kiều hối.
Đặc biệt là người dân còn có tâm lý cất trữ USD trong nhà mà không phải bất kì ai cũng sẵn sàng gửi và ngân hàng, sử dụng USD trong thanh toán mua đất đai, nhà ở; các cửa hàng cửa hiệu, khách sạn nhà hàng, Công ty du lịch và dịch vụ công khai hay không công khai thu tiền của khách bằng ngoại tệ... Do đó, phân tích và quan sát thì Việt Nam khó tránh khỏi tình trạng Đôla hoá trong xã hội.
2/ Đôla hoá tiền gửi.
Có thể nói, dư âm của lạm phát cao trong thời gian cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân cư nên những người sở hữu khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ không dại gì mà chuyển đổi sang tiết kiệm bằng VND. Gíá trị đồng nội tệ giảm theo xu hướng thời gian khiến cho người tiết kiệm có khuynh hướng phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng cách lựa chọn hình thức tiết kiệm bằng ngoại tệ, đặc biệt là Đôla Mỹ. Thêm vào đó, lãi suất tiết kiệm USD tăng cao trong năm 2000 càng làm gia tăng mức độ Đôla hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng. Tỉ lệ lợi tức trên 1 đồng ngoại tệ gửi tại NH lớn hơn nhiều so với việc gửi bằng 1 đồng nội tệ đã làm thay đổi việc lựa chọn tài sản tiết kiệm
Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống ngân hàng
Đơn vị:%
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
ngoại tệ
39,2
33.5
31,7
33,2
33,6
39,1
45,3
VND
60,8
66,5
68,3
66,8
66,4
60,9
54,7
tổng
100
100
100
100
100
100
100
(nguồn: tạp chí ngân hàng số 6/2001)
Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy rằng mức độ Đôla hoá đã trở lại năm 1999, sau khi đã giảm bớt trong giai đoạn 1995-1998, thực sự bùng nổ trở lại vào năm 2000. Đôla hoá không chỉ diễn ra ở khu vực tiền gửi tiết kiệm của dân cư, mà còn xuất hiện ở tổ chức kinh tế xã hội. Tiền gửi của tổ chức kinh tế xã hội tăng mạnh không phải do lãi suất huy động USD trong năm 2000 tăng cao, bởi lãi suất USD ngân hàng trả cho các tổ chức kinh tế gửi tại mình bị ràng buộc bởi trần lãi suất qui định của NHNN. Nguyên nhân chính làm tăng tiền gửi của tổ chức kinh tế là do các công ty có nguồn ngoại tệ chưa giải ngân cho các dự án tạm thời gửi tại ngân hàng hay ngoại tệ thu được từ xuất khẩu tăng trong năm 2000 nhưng công ty lại không bán mà giữ lại do tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng cao. Như vậy lãi suất ngoại tệ doanh nghiệp thực hưởng sau khi điều chỉnh sự biến đổi tỉ giá sẽ hấp dẫn hơn gửi bằng VND. Trường hợp thiếu vốn VND, doanh nghiệp sẽ vay của ngân hàng với lãi suất hấp dẫn vì cạnh tranh giữa các ngân hàng khốc liệt hơn.
3/ Đôla hoá cho vay
Trên cơ sở lý thuyết và xu hướng chung của nền kinh tế Đôla hoá, các ngân hàng cho vay bằng USD nhiều hơn nếu rủi ro phá giá cao. Và ngược lại tín dụng bằng nội tệ sẽ tăng cao. Vậy Đôla hoá cho vay ở Việt Nam có nằm ngoài qui luật chung này.
Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng
Đơn vị: %
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Ngoạitệ
38.6
38,7
36,6
31,2
25,2
22,6
18,6
VND
61,4
61,3
63,4
68,8
74,8
77,4
81,4
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
( Nguồn: tạp chí ngân hàng số 6/2001)
Bảng trên cho thấy rằng cho vay ngoại tệ của hệ thống ngân hàng đến năm 2000 chỉ chiếm chưa đầy 20% tổng dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Tỉ trọng cho vay bằng ngoại tệ so với tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng cho thấy Đôla hoá các khoản cho vay ở mức trung bình, nhưng đánh giá qua tốc độ tăng trưởng liên hoàn, (bảng dưới đây) ta nhận thấy Đôla hoá cho vay hầu như không diễn ra trong 3 năm qua (1998-2000).
Tốc Độ tăng trưởng liên hoàn cho vay ngoại tệ, VND của hệ thống Ngân hàng ( năm gốc1994 )
Đơn vị :%
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Ngoại tệ
+27,0
+13,5
+4,5
-5,6
+0,2
+0,2
VND
+26,6
+24,1
+33,0
+26,8
+12,0
+30,0
(nguồn: tạp chí ngân hàng số 6/2001)
Tại sao các doanh nghiệp lại không mặn mà với việc sử dụng vốn ngoại tệ? Như đã phân tích, doanh nghiệp vay bằng ngoại tệ vừa phải chịu lãi suất USD khá cao so với VND vừa phải gánh thêm phần giảm giá đồng nội tệ. Nếu trong năm 2000 khách hàng vay ngoại tệ với lãi suất cực kỳ ưu đãi ở mức 5,8-6,0%/năm thì lãi suất sau điều chỉnh mức độ giảm giá của VND so với USD đã lên tới 9,2-9,4%/năm. Trong khi đó, vay bằng VND các doanh nghiệp chỉ phải trả ở mức 8,0-8,5%/năm, mức ưu đãi 7,5-8,0%/năm. Hơn nữa, doanh nghiệp vay ngoại tệ chủ yếu cho mục đích nhập khẩu, nguồn thu lại chủ yếu bằng VND. Trên cơ sở đã phân tích, doanh nghiệp thấy vay bằng VND sau đó chuyển sang mua ngoại tệ nhập khẩu sẽ có lợi hơn. Ngoại trừ doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ để cân đối cho khoản vay bằng ngoại tệ.
Tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng tiền gửi tăng lên không phù hợp với tỷ trọng gia tăng của tín dụng bằng ngoại tệ trong tổng tín dụng ngân hàng, do đó, chênh lệch giữa lượng vốn huy động và cho vay khách hàng được nới rộng ra. Để sử dụng phần vốn ngoại tệ dư thừa các ngân hàng chỉ lựa chọn danh mục đầu tư là mua trái phiếu chính phủ của các nước phát hành bằng ngoại tệ hay gửi trên thị trường tiền tệ quốc tế... Chính vì vậy đây là nguyên nhân giải thích tại sao tiền gửi tại nước ngoài của các ngân hàng lại tăng lên. Sự đào hối không phải là do các ngân hàng không muốn đầu tư vào trong nước mà chính khách hàng từ chối vay bằng ngoại tệ.
Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống Ngân hàng
Đơn vị: %
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tỉ trọng
135
148
141
104
73
47
33
( nguồn: tạp chí ngân hàng số 6/2001)
Bảng trên đã chỉ rõ mức độ sử dụng vốn huy động ngoại tệ. Trong giai đoạn 1994-1997: cho vay bằng ngoại tệ khả năng huy động của các ngân hàng, do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp phần thiếu hụt này. Giai đoạn 1998-2000 có xu hướng ngược lại, đầu tư tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động. Giải toả phần vốn huy động ngoại tệ dư thừa, các ngân hàng kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế hay đầu tư vào trái phiếu chính phủ.
Như trên đã nói, tình trạng Đôla hoá nền kinh tế Việt Nam được thể hiện trên cả ba lĩnh vực nói trên nhưng có tính chất khác nhau. Việc cho vay bằng ngoại tệ ở tỉ lệ không cao và hầu hết là để thanh toán cho phía nước ngoài. Ngoại tệ trong xã hội, chủ yếu là USD, được dân cất trữ, sử dụng trong buôn lậu, một phần chỉ sử dungj trong phạm vi hẹp nhưng mức độ cũng không phổ biến. Còn khía cạnh tỷ lệ tiền gửi USD trong hệ thống ngân hàng thì mức độ Đôla hoá diễn ra mạnh mẽ nhất.
Lợi ích hay tác hại của việc Đôla hoá đối với một nền kinh tế phụ thuộc vào tác động của nó đến nền kinh tế. Đôla hoá xuất hiện từ hành vi lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ hơn là VND vì công chúng muốn tự phòng ngừa rủi ro như sự bất ổn của giá cả, nền kinh tế suy thoái kéo dài... Hoặc do tỉ lệ lợi tức kiếm được cao hơn nếu lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ thay vì bằng đồng nội tệ, thì mức độ Đôla hoá không quá trầm trọng đối với nền kinh tế. Hơn nữa, toàn cầu hoá thị trường tài chính có thể kéo theo Đôla hoá. Đôla hoá xuất phát từ việc công chúng lựa chọn ngoại tệ như là một đơn vị tiền tệ trong thanh toán, trao đổi-hình thức thay thế đồng tiền sẽ nguy hại tới nền kinh tế. Đôla hoá dưới hình thức này sẽ phản ánh sự vắng mặt tính ổn định của nền kinh tế, bóp méo thị trường tài chính, cũng như làm tỉ giá biến động mạnh. Trong trường hợp này, nền kinh tế bị phụ thuộc bên ngoài nhiều hơn, hay tác động của các cú sốc bên ngoài sẽ tác động lớn hơn đến nền kinh tế.
Như vậy đối chiếu với tình trạng Đôla hoá ở Việt Nam, một điều khẳng định rằng mức độ Đôla hoá diễn ra không quá trầm trọng, mới chỉ dừng lại ở mức là công chúng lựa chọn tài sản tiết kiệm bằng ngoại tệ bởi nó có tỉ lệ lợi tức hấp dẫn và tự phòng ngừa được sự biến động của tỷ lệ lạm phát.
Ii - ảnh hưởng của tình trạng Đôla hoá đối với nền kinh tế Việt Nam
Tình trạng Đôla hoá đã và đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nứơc ta. Nhưng, do đặc điểm kinh tế – xã hội riêng qui định nên ngoài những tác động tương tự như các nước khác, tình trạng Đôla hoá ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam cũng mang những nét riêng phù hợp với chế độ kinh tế chính sách xã hội mà chúng ta đã lựa chọn.
1/ ảnh hưởng tích cực
Khách quan mà nói, trong cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại( tỷ giá thả nổi ở tầm quốc tế ), đôla hoá cũng mang lại một số lợi ích nhất định.
Nó tạo ra cơ hội tái trung gian trong nền kinh tế vĩ mô không ổn định. Bởi vì có một lượng lớn Đôla Mỹ trong hệ thống ngân hàng cũng bhư không có tình tạng người dân ồ ạt đổ xô đi mua Đôla Mỹ bằng đồng nội tệ.
Có một lượng lớn ngoại tệ, các ngân hàng có điều kiện mở rộng các hoạt động của mình, nhất là hoạt động đối ngoại. Hơn nữa, sự tồn tại các khoản tiền gửi băng đồng Đôla Mỹ tại các ngân hàng trong nứơc tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị trường khu vực và thị trường thế giới, giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế.
Một lượng lớn Đôla Mỹ được gửi trong các ngân hàng, tạo thành nguồn vốn ngoại tệ lớn để cho vay và đầu tư cho nền kinh tế; hạn chế việc phái đi vay nước ngoài. Song trong điều kiện cho vay bằng ngoại tệ của các ngân hàng gặp khó khăn, thì với lãi suất trên thị trường quốc tế cao, các ngân hàng trong nước đem gửi nước ngoài. Rõ ràng người dân cũng được hưởng lợi từ lãi suất hơn là cất trữ trong nhà, các ngân hàng cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích như ở phần trên. Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. Theo số liệu của IMF, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam là 3,297 triệu USD, có thêm nguồn ngoại tệ khác là gần 2,5 tỷ USD của các ngân hàng trong nước gửi ở nước ngoài.
Nó làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ của Nhà nước.Trên cơ sở nguồn vốn ngoại tệ huy động được, NH cho các doanh nghiệp vay để thanh toán hàng hoá và chi phí nhập khẩu phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Đôla hoá làm hạn chế những khoản kiều hối “chui”, góp phần làm thăng bằng cán cân thanh toán của Nhà nước.
2/ ảnh hưởng tiêu cực
Tuy nhiên, đôla hoá cũng mang đến một số những ảnh hưởng không tốt đối với nền kinh tế xã hội của Việt Nam.
- Đôla hoá khiến tăng mức độ rủi ro của nền kinh tế đối với các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Mục tiêu tiến tới trên đất nước Việt Nam chỉ sử dụng đồng tiền Việt Nam không đạt được. Đồng nội tệ không được coi trọng. Trong khi đất nước đang thiếu vốn, nhất là vốn ngôại tệ, phải đi vay nước ngoài, thì ngược lại có một lượng lớn Đôla Mỹ đem gửi ở nước ngoài.
- Tỷ trọng Đôla Mỹ trong khối lượng tiền tệ M2 là cao, tỷ trọng ngoại tệ trong cơ cấu tài sản có của các ngân hàng cao; nhưng tỷ trọng Đola Mỹ sử dụng trong giao dịch thanh toán trong nước ở mức thấp và giảm so với trước. Khó có thể có phương pháp nào thống kê chính xác được tỷ trọng Đôla Mỹ được sử dụng thanh toán trong dân cư. Song thực tế cho thấy hiện nay hầu hết các thanh toán có gía trị thường được dùng bằng đồng Việt Nam hoặc vàng . Nên có thể thấy tài sản của người dân bằng USD chủ yếu ở dạng tiền gửi tronh hệ thống ngân hàng.
- Nó là phương tiện giúp cho bọn buôn lậu sử dụng USD để buôn lậu tại các cửa khẩu; tiếp tay cho các Việt kiều đầu tư vốn bất chính; bọn phản động quốc tế hay trong nước dùng đôla để gây rối an ninh chính trị trong nước.
Riêng trong lĩnh vực Ngân hàng, do chạy theo lợi nhuận, các Ngân hàng đua nhau nâng lãi suất để thu hút ngoại tệ dẫn đến tình trạng Đôla hoá tài sản nợ trong các ngân hàng
Về phía các doanh nghiệp có hịên tượng cất giữ USD trên tài khoản hoặc giữ bằng tiền mặt số USD không phải kết hối tại đơn vị để buôn bán lòng vòng chờ chênh lệch tỷ giá, gây căng thẳng cung cầu ngoại tệ
ở Việt Nam, dễ dàng nhận thấy các chức năng tiền tệ đang dần bị thu hẹp do USD lấn tới .Đến một chừng mực nào đó, VND khong đủ sức phòng vệ thì nền kinh tế sẽ suy sụp. Điều dễ hiểu là nhà nước ta không phát hành đôla nên không có quyền lực điều hành nó như đồng nội tệ.
JJJ – Nguyên nhân dẫn đến tình trạng Đôla hoá
Vậy thì tình trạng Đôla hoá nền kinh tế do đâu? Thông qua tìm hiểu tình hình thực tế ở Việt Nam chúng ta dễ dàng nhận thấy một số nguyên nhân sau:
- Trình độ phát triển nền kinh tế cùng tính chất của nền kinh tế. Việt Nam là một nước đang phát triển. Nền kinh tế đang trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường, còn non kém trong việc quản lý. Lạm phát cao, tăng trưởng kinh tế chậm và thiếu bền vững. Việc mở giao lưu buôn bán quốc tế khiến chúng ta phải chấp nhận việc xuất hiện và tồn tại của đồng Đôla trên thị trường.
Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển ngày càng trở nên tinh vi phức tạp khó kiểm soát. Tình trạng các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế và các cửa hàng kinh doanh, cửa hiệu vàng bạc ... bán hàng thu bằng ngoại tệ, thu đổi nhoại tệ còn tuỳ tiện, diễn ra phổ biến.
- Trình độ dân trí và tâm lý người dân. Nước ta có trình độ dân trí chưa cao, ngưòi dân có thói quen nắm giữ vàng và Đôla nên nền kinh tế có có mức độ Đôla hoá cao.
Thu nhập của các tầng lớp dân cư nhìn chung còn thấp, tâm lí tiết kiệm và để giành, lo xa cho cuộc sống tĩnh dưỡng về già, lo nơi ăn chốn ở lo cho con cái học hành càng lớn. Nhất là thói quen cất trữ vàng trong thời bao cấp vẫn còn in đậm trong mọi người dân cho đến nay. Do đó trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế hiện nay giá vàng biến động giảm giá và không được ưa chuộng ; cộng với những lo sợ về tỷ giá, mức độ mất giá của đồng Việt Nam... nên người dân chỉ có một lựa chọn tối ưu là Đôla Mỹ.
- Thu nhập bằng Đôla Mỹ trong các tầng lớp dân cư tăng lên và mở rộng. Đó là những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và tổ chức quốc tế ở Việt Nam; tiền cho thuê nhà và kinh doanh khách sạn mini, kinh doanh du lịch; tiền của người Việt Nam ở nước ngoài đi xuất khẩu lao động hay đi học tập, tiền kiều hối gửi về; tiền của người Việt Nam đi hội thảo học tập và làm việc ngắn ngày ở nước ngoài mang về .
- Trình độ phát triển của hệ thống Ngân hàng, nhất là hoạt động thanh toán chưa phát triển, công nghệ thanh toán còn lạc hậu, thì thường là có tình trạng Đôla hoá nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối; cùng mức độ bảo đảm tính nghiêm minh của cơ chế quản lý. Nếu như đồng nội tệ ổn định, cơ chế quản lý ngoại hối chặt chẽ, thì tình trạng Đôla hoá nền kinh tế rất rất khó xảy ra.
Trong cơ chế quản lý ngoại hối hiện nay của nhà nước ta hiện nay, cho phép người Việt Nam nhận tiền kiều hối, tiền của người thân ở nước ngoài gửi về bằng ngoại tệ, mà không bắt buộc phải bán cho ngân hàng, nhận đồng tiền Việt Nam như trước đây. Trong bối cảnh đồng Việt Nam liên tục giảm giá so với đồng Đôla Mỹ, lãi suất gửi Đôla Mỹ hấp dẫn, nên rõ ràng họ không dại gì mà chuyển đổi sang nội tệ (đồng Việt Nam).
Đối với các doanh nghiệp, trước đây qui định phải kết hối 80% nhưng hiện nay tỷ lệ kết hối qui định giảm xuống còn 50% tức là một doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ trước đây qui định phải bán ngay tới 80% cho ngân hàng thì nay chỉ phải bán 50%. Trước diễn biến về tỷ giá và thị trường, bán ngoại tệ thì dễ còn khi có nhu cầu nhập khẩu mua lại ngoại tệ ngân hàng thì hết sức khó khăn, trong khi đó tỷ giá tháng này một mức tháng sau lại thay đổi. Do đó là một giám đốc sẽ hết sức dễ hiểu khi anh ta chỉ bán ngoại tệ theo đúng tỷ lệ kết hối qui định, thậm chí còn chần chừ, trì hoãn việc bán ngay, mà để tồn tại số dư ngoại tệ trên tài khoản là điều dễ hiểu.
- Đôla Mỹ lên giá so với đồng tiền Việt Nam, lãi suất tiền gửi Đôla Mỹ tăng cao, còn lãi suất tiền gửi đồng tiền Việt Nam giảm thấp. Trong nhiều tháng của năm 2000, lãi suất tiền gửi Đôla Mỹ tăng cao, còn lãi suất tiền gửi Việt Nam giảm thấp. Trong nhiều tháng của năm 2000, lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam kỳ hạn 12 tháng là 0.6%/tháng, hay 7.2%/năm, còn lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn cuả Đôla Mỹ là 5.6% -5.8%. Nhưng trongcả 12 tháng của năm 2000, đồng Việt Nam giảm giá tới gần 4% so với Đôla Mỹ (14.650đ/USD so với 14.160đ/USD đầu tháng 1/2000 )Như vậy, nếu như gửi Đôla Mỹ vẫn có lợi hơn tới 3,4%/năm. Nếu theo dõi chi tiết diễn biến tỷ giá trên cả 3 thị trường qua các tháng trong năm 2000 có thể thấy như sau:
Thời gian
thị trường ngoại tệ LNH(đ/USD)
tỷ giá các NHTM (đ/USD)
Thị trường tự do
(đ/USD)
bình quân T1/00
14016-14032
14039-14024
14139-14171
binh quân T2/00
14032-14045
14045-14059
14109-14142
bình quân T3/00
14042-14051
14060-14062
14090-14117
bình quân T4/00
14050-14052
14062-14054
14104-14130
bình quân T5/00
14060-14065
14075-14077
14168-14200
bình quân T6/00
14072-14074
14084-14086
14185-14210
bình quân T7/00
14075-14082
14089-14092
14165-14186
bình quân T8/00
14085-14092
14104-14109
14185-14211
bình quân T9/00
14149-14152
14161-14163
14328-14366
bình quân T10/00
14293-14300
14305-14309
14460-14457
bình quân T11/00
14370-14460
14380-14480
14410-14148
bình quân T12/00
14480-14501
14509-14511
14556-14566
Như vậy, đến cuối năm 2000, tỷ giá trên cả ba thị trường
đã tăng so với đầu năm như sau:
-Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tăng 3,2%(14051/14016)
-Thị trường mua bán của các NHTM tăng 3,1%(14511/14042)
-Thị trường tự do tăng 3,5%(14566/14139)
- Người Việt Nam đi du lịch ra nước ngoài ra tăng nhanh chóng trong các năm vừa qua.Các công ty du lịch đều niêm yết, thông báo, quảng cáo giá tour du lịch bằng Đôla Mỹ. Do đó muốn đi du lịch phải có ngoại tệ, phải tích trữ Đôla Mỹ. Người Việt Nam đi xuất khẩu lao động nước ngoài phải đặt cọc một khoản Đôla Mỹ trong tài khoản ngân hàng. Mà số lượng ngời này cũng tăng lên rất nhanh trong thời gian qua. Bên cạnh đó, người Việt Nam đi du học nước ngoài bằng các hình thức khác nhau, chủ yếu là đi học tự túc đang tăng lên gấp bội. Muốn được chấp nhận voà học các trường nước ngoài, người xin đi học phải chứng minh được nămg lực tài chính của mình, thể hiện bằng số dư tiền gửi Đôla Mỹ trong các Ngân hàng ở Việt Nam. Tiếp đến, trong quá trình học, gia đình ở trong nước thường xuyên phải chuyển tiền cho con em mình theo học bằng Đôla Mỹ, thông qua các ngân hàng. Do đó, phải có số dư tiền gửi Đôla Mỹ tại các ngân hàng để chuyển tiền ra nước ngoài cho con em du học.
- Đôla xuất hiện thông qua nguồn tài trợ quốc tế bằng các phương thức đầu tư, viện trợ và tìn dụng quốc tế.
- Một số yếu kém của đồng tiền Việt Nam chậm được khắc phục như :hiện nay các đồng tiền phát hành của ta vẫn còn các diểm yếu như giá trị và mệnh giá thấp ( cao nhất là 100.000 VND tương đương với trên 6 USD )và chưa được khắc phục. Vì vậy, khi để dành hoặc thực hiện các giao dịch cá nhân có giá trị lớn hay các tài sản đắt tiền nhiều người vẫn ưa thích sử dụng đồng Đôla.
IV – Các giải pháp để ngăn chặn quá trình Đôla hoá
Đôla hoá càng kéo dài, cái giá phải trả càng đắt. Đã đến lúc tìm những giải pháp cụ thể hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng nói trên .
Trên lý thuyết ta có thể thấy rõ NHTW hoàn toàn có khả năng làm chủ và kiểm soát được hiện tượng Đôla hoá bằng các công cụ của chính sách tiền tệ sẵn có thông qua lượng tiền cung ứng M2
Ta có: M2 = D + C = D(1+ k)/(k +r + e) x MB
Với D là tổng tiền gửi các loại của nền kinh tế
C là tiền mặt trong lưu thông
k là tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt
r là tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHTM
e là tỷ lệ dự trữ dư thừa của NHTM
MB là tổng tiền mặt do NHTW phát hành
Từ công thức trên ta đã thấy rõ NHTW có thể chủ động điều tiết nền kinh tế.
1/ Những biện pháp đã thực hiện để kiểm soát Đôla hoá
Những năm đầu thế kỷ 21, hiện tượng Đôla hoá đã trở lại và có xu hướng tăng lên ở Việt nam. Để đối phó với tình hình này, NHTW đã can thiệp bằng một số công cụ.
Công cụ đầu tiên của NHTW là tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Lần can hiệp thứ nhất vào tháng 11/2000, các NHTM phải trích tỷ lej dự trữ bắt buộc từ 5% lên tới 8% trên số dư tiền gửi huy động được . Nó chỉ tác động tới ngân hàng nhạy cảm .Mặt khác, do lãi suất trên thị trường tiền tệ quốc tế tại thời diểm đó vẫn ở mức tương đối hấp dẫn so với mức lãi suất huy động trong nước, đặc biệt đối với các kỳ hạn thấp thì khoảng cách chênh lệch vẫn cao hơn. Cuộc can thiệp lần này không mấy hữu hiệu. NHTW đã điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc lần 2 tháng 12 /2000, tăng từ 8% tới 12%. Kết hợp với tình hình lãi suất trên thị trường quốc tế giảm xuống, lần điều chỉnh này đã gây ra cú sốc cho các NHTM. Kết quả là đồng loạt các ngân hàng hạ lãi suất huy động USD. Ngày 31/1/2001, Cục dự trữ liên bang Mỹ(FED) bất ngờ giảm lãi suất chỉ đạo 0.5% từ 6%(3/1/2001)xuống 5.5%. Tại phiên họp của Uỷ ban tiền tệ ngày 20/3/2001, FED cắt giảm lãi suất chủ đạo xuống mức 5%. Can thiệp lần 3 vào tháng 4/2001, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 12% lên 15%. Ngày 18/4 và 15/5/2001, FED liên tục giảm lãi suất chủ đạo mỗi lần 0.5% xuống mức 4%. Như vậy, hang loạt chuỗi biến cố xảy ra tác động tới hành vi điều chỉnh lãi suất của các NHTM. Đến thời điểm cuối quí 1/2001, lãi suất huy động tiết kiệm bằng USD chỉ ở mức 4,15 - 4,25%/năm
Kết hợp với biện pháp tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, ngày 28/3/2001, NHTW đã ra quyết định số 238/2001/QĐ-NHNN của NHNN, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của pháp nhân tại ngân hàng là 0,1%/năm; kỳ hạn 6 tháng là 1,5%/năm, trên 6 tháng là 2%/năm. Với các mức lãi suất này, kết hợp với tỷ giá tương đối ổn định đã khuyến khích các doanh nghiệp kết hối ngoại tệ.
Trên cơ sở ngang bằng lãi suất,một điều dễ nhận thấy lãi suất VND và USD đã được điều chỉnh cân bằng, đặc biệt sau khi NHNN điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân tại các TCTD thì phần lợi nghiêng về VND. Cụ thể với tỷ giá USD/VND chỉ tăng 0.255% trong quí 1/2001, thì chênh lệch giữa lãi suất VND so với USD sau khi có sự điều chỉnh tỷ giá là +0,47%. Gỉa sử tỷ giá trong quí 2/2001 tăng tương đương quí 1, lãi suất VND không biến động, thì chênh lệch tỷ giá được nới rộng tới +0,72%. Như vậy rõ ràng các doanh nghiệp có lợi hơn khi giữ bằng VND.
Như vậy, bằng hai công cụ can thiệp, NHNN đã ngăn chặn được làn sóng chuỷên đổi hình thức tiết kiệm cũng như giảm bớt hiện tượng tích trữ ngoại hối của các doanh nghiệp
2/ Các hướng điều chỉnh ở tầm vĩ mô
Tiếp tục cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vữn, lành mạnh hoá hệ thống tài chính – tiền tệ và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lí ngoại hối nhằm giảm sự mất cân đối cung cấu về ngoại tể trong toàn hệ thống ngân hàng;thu hút nhiều ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng. Đây là cơ sở vững chắc để từng bước nâng cao giá trị của VND ,làm tăng lòng tin của người dân và từng bước làm cho đồng tiền có tính chuyển đổi cao hơn.
Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần cổ phiếu trái phiếu ...đa dạng các danh mục đầu tư trong nước.
Tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất thương mại dịch vụ và tài chính ngân hàng.
3/ Các giải pháp cụ thể
Thiết chế một chính sách lãi suất nhằm tạo ra chênh lệch lãi suất thực dương giữa tiền gửi VND có lãi suất cao hơn tiền gửi Đôla. Theo một lịch trình hạ lãi suất tiền gửi đôla xuống dần cho đến điểm bằng không. Lãi suất tiền gửi VND phải tính cả độ tin cậy “z” của đôla để bù đắp cho VND mới đủ sức hấp dẫn
Xoá bỏ tâm lý mong đợi tiếp tục phá giá tỷ giá VND so với Đôla
Công cụ chính sách kích thích lợi ích thu hút được mọi người hướng vào cất trữ và thanh toán bằng VND.
Khuyến khích sử dụng đồng Euro.
Theo bà Dương Hồng Phương, chuyên viên Vụ chính sách tiền tệ thuộc NHNN, trước hết Nhà nước sẽ tăng dần tỷ trọng đồng euro trong cơ cấu tiền tệ của quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Bên cạnh đó sử dụng euro để xác định tỷ giá của đồng tiền thay cho cách làm lâu nay dựa vào Đôla Mỹ.
Quản lý tốt hơn trạng thái ngoại hối và có cơ chế điều hoà linh hoạt vốn khả dụng, nhất là vốn ngoại tệ trên toàn hệ thống ngân hàng.
Đổi mới cơ cấu chất lượng VND theo hướng tăng tỷ lệ một số loại mệnh giá cao,đồng tiền đẹp và ít bị làm giả.
Tăng cường đối thoại chính sách và minh bạch hoá các thông tin liên quan đến thị trường ngoại tệ để giảm thiểu tác động không lợi của yếu tố tâm lý. Diều này có tác dụng làm giảm sự đầu cơ ngoại tệ trên thị trường phi chính thức.
Tiếp tục hoàn thiện công nghệ và hệ thống thanh toán ngân hàng nhằm giảm tình trạng sử dụng tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng
Tiếp tục đổi mới chính sách tỷ giá nhằm giảm thiểu rủi ro tỷ giá khi gửi tiêt kiệm, thực hiện thanh toán bằng VND.
Đẩy mạnh chống buôn lậu và các hành vi đầu cơ ngoạitệ
Trên thực tế còn rất nhiều biện pháp để giảm tình trạng Đôla hoá mà em không thể trình bày hết được.Các cơ quan nhà nước càn có sự kết hợp quản lý linh hoạt mềm dẻo phù hợp với tình hình chung của quốc gia trong mỗi thời kỳ .
Kết luận
Như vậy Đôla hoá có ý nghĩa quan trọng. Nó quyết định đến quá trình phát triển phát triển của đất nước, nhằm giữ vững độc lập về kinh tế và chính trị để đạt được mục tiêu cuối cùng là xây dựng cho VND trở thành phương tiện cất trữ và thanh toán có khả năng chuyển đổi trong nền kinh tế.
Việc tìm ra nguyên nhân và có biện pháp ứng xử kịp thời là một việc làm cần thiết để dưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng Đôla hoá và những ảnh hưởng tiêu cực của nó.
Trong phạm vi một bài tiểu luận nhỏ, em mạnh dạn tham gia vào cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề Đôla hoá hiện nay. Trong quá trình tìm hiểu em biết mình còn gặp nhiều thiếu sót. Em mong dược sự góp ý của các thầy cô giáo
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo của các thầy cô để giúp đỡ em hoàn thành bài viết này !
Hà nội ngày 15/09/2002
Sinh viên thực hiện
ĐặNG HUYềN LINH
TàI LIệU THAM KHảO
I) Tiền tệ ,Ngân hàng và thị trường tài chính (Frederic S.Mishkin)
II) Giáo trình Lý thuyết tiền tệ ngân hàng ( HVNH)
III) Các trang Web:
1-
2-
3-
Iv) Các bài báo trong tạp chí ngân hàng
Số 1 , 2 , 6 , 10 /2001
Số 1+2 /2002
V) Các bài báo trong tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ
Số 14 /2001
Số 8 /2002
VI) Các bài báo trong Thời báo kinh tế Việt Nam , Kinh tế Sài Gòn , Diễn đàn doanh nghiệp , Thời báo ngân hàng... các năm 2001 – 2002
VII) Báo cáo thường niên NHNNVN năm 2000
Mục lục
Lời mở đ
Phần 1 Đôla hoá một số vấn đề chung
I Khái niệm Đôla hoá
II Phân loại đôla hoá
- Đôla hoá không chính thức - - Đôla hoá bán chính thức
- Đôla hoá chính thức
III Nguồn gốc Đôla hoá
IV Các tác động của Đôla hoá đối với nền kinh tế
1 Tác động tích cực
2 Tác động tiêu cực Phần 2 tình trạng Đôla hoá ở Việt Nam
Thực trạng và giải pháp
I Diễn biến tình trạng Đôla hoá tại Việt Nam
1 Đôla hoá nằm ngoài ngân hàng
2 Đôla hoá tiền gửi 3 Đôla hoá cho vay
II ảnh hưởng của tình trạng Đôla hoá đến nền
kinh tế Việt Nam 1 ảnh hưởng tích cực
2 ảnh hưởng tiêu cực
III Nguyên nhân dẫn đến tình trạng Đôla hoá IV Các giải pháp để ngăn chặn quá trình Đôla hoá 1 Những biện pháp đã thực hiện để kiểm soát
Đôla hoá
2 Các hướng điều chỉnh ở tầm vĩ mô
3 Các giải pháp cụ thể Kết luận
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0587.doc