Có thể nói giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng, hữu
cơ không thể tách rời trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quan trọng quyết định, nó là
nội dung còn quan hệ sản xuất giữ vai trò hình thức của phương thức sản xuất. Vì thế
chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất những quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế không phải lúc nào cũng có
được sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Đặc biệt sản xuất
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều lộn xộn trong việc nghiên cứu sử
dụng và phát triển các phương thức sản xuất. Nhưng nếu chúng ta sử dụng đúng các quy
luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực lượng sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến
nhanh cùng với các nước trên con đường công nghiệp hoá – hiện đại hoá mà Đảng và Nhà
nước đã chọn.
Với những thành tựu mà nước ta đã đạt được ta thấy hiệu quả của việc Đảng và Nhà
nước ta đã nhạy bén với thời cuộc, xem xét, nắm bắt tình hình nước ta một cách chính xác
để đưa ra các chính sách phù hợp, và không thể phủ nhận hiệu quả của việc vận dụng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lưc lượng sản xuất của nước ta trong công
cuộc đổi mới đất nước.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 05/01/2022 | Lượt xem: 580 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của Đảng ta trong nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguồn: - Theza
Tiểu luận:
Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
của Đảng ta trong nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay
==================================================================
Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Những hiện tượng lịch sử xuất hiện trong thượng tầng kiến trúc dưới nhiều hình thái tư
tưởng phức tạp: chính trị, pháp lý, tôn giáo, nghệ thuật, triết lý; nhưng tất cả những hình thái
đó, xét tới cùng, là do phương thức sản xuất đời sống vật chất quy định. Vậy muốn hiểu rõ
sự biến chuyển trong thượng tầng kiến trúc, trước hết phải nghiên cứu sự biến chuyển vật
chất trong điều kiện kinh tế của sự sản xuất, những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tác động của “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ pháp triển của lực lượng sản xuất” tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối
với sự vận động, phát triển của nền sản xuất vật chất và do đó là sự vận động, phát triển
của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận động, pháp triển của lịch sử nhân loại từ phương thức
sản xuất thấp lên phương thức sản xuất cao hơn.Quy luật này còn là cơ sở để giải thích về
nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã hội, sự biến đổi trong đời sống chính trị.vì
vậy việc vân dụng quy luật này trong việc xây dựng, phát triển đất nước là điều hợp lí, tuy
nhiên không phải quốc gia nào, đất nước nào cũng vận dụng nó một cách hiệu quả, việc
vận dụng quy luật này cần có sự cân nhắc kĩ lưỡng.
Vì vậy tôi sẽ làm về đề tài “ Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất của Đảng ta trong nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay ” .
2.Tổng quan đề tài
Quy luật quan hệ sản xuất là một đề tài hay và cấp thiết hiện nay. Đã có rất nhiều những
bài báo, trang thông tin nói tới vấn đề này, không những trong nước mà ngay cả các nước
khác trên thế giới.
3.Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách hệ thống quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất . Đánh giá tình hình đất nước hiện nay để có thể vận dụng.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận có nhiệm vụ:
+Phân tích về quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất
+Đánh giá tình hình Việt Nam hiện nay và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .
4.Phạm vi nghiên cứu:
Vấn đề quan hệ sản xuất là một vấn đề rộng. Trong phạm vi của tiểu luận, bản thân chỉ
nghiên cứu một số nột dung chủ yếu về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất , cũng như
đi sâu vào phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
5.Phương pháp nghiên cứu
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Leenin, Chính sách của Nhà nước, của
Đảng Cộng Sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu.
Ngoài các phương pháp luận, bài tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ thể, chú trọng
phương pháp lịch sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kế, khảo sát và
tổng kết thực tiễn,...
6.Đóng góp của tiểu luận
Góp phần làm hiểu sâu và rõ hơn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và vận dụng ở Việt Nam hiện nay.
7.Kết cấu bài tiểu luận
Bài tiểu luận được chia làm 2 chương với việc tìm hiểu và phân tích về chủ nghĩa tư bản
độc quyền trong việc hình thành nên cộng đồng ASEAN.
Chương I
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
1.Quan hệ sản xuất
1.1.Khái niệm của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và
tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong
quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của sản xuất, các mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau tạo
thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không
ngừng của lực lượng sản xuất.
1.2.Kết cấu của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:
- Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối với tư liệu sản xuất,
nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá
lao động, quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một
mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không
ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao
động.Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn
nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, quan hệ tổ chức quản lý và
quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu.
2.Lực lượng sản xuất
2.1.Khái niệm của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức khỏe, thể chất, kinh
nghiệm, kĩ năng, tri thức lao động của họ) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ
lao động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
2.2.Kết cấu của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản
xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao
động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất,
sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp
với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Con người: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là
người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với
sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ
lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức
mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ
của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của người lao động ngày càng
cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng
đóng vai trò chính yếu
Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.Trong tư liệu sản xuất
thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục thế giới tự nhiên.
3. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Tính chất của LLSX: là tính chất của TLSX và của người lao động. Nền SX đó bằng thủ
công cá thể hoặc bằng máy móc tập thể, thể hiện là sự đòihỏi phân công lao động trong nên
sản xuất.
Trình độ của LLSX: được biểu hiện ở trình độ công cụ lao động cộng vớitrình độ tổ chức
lao động xã hội + trình độ ứng dụng khoa học và sảnxuất + kinh nghiệm, kỹ năng lao động
của con người + trình độ phân cônglao động.
3.1.Lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với sự hình thành, biến đổi và phát
triển của quan hệ sản xuất
Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, ở trình độ kĩ
năng, kinh nghiệm của người lao động, trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật và sản
xuấtứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trình độ của lực lượng
sản xuất quyết định quan hệ sản xuất cụ thể:
Tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một quan
hệ sản xuất phù hợp ở cả ba mặt của nó.Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng
biến đổi và phát triển, do yêu cầu phát triển của sản xuất vật chất khi lực lượng sản xuất
không ngừng phát triển lên một trình độ cao hơn, đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải biến
đổi theo cho phù hợp tạo động lực cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên cần nhận thấy, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, nó
luôn vận động và biến đổi trong quá trình lịch sử, hay nói cách khác lực lượng sản xuất
thường phát triển nhanh hơn trong khi quan hệ sản xuất thì chậm thay đổi hơn. Chính vì
vậy, khi sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định thì sẽ mâu
thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện yêu cầu phải xóa bỏ quan hệ sản
xuất lỗi thời thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
3.2.Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Mặc dù bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất có tính độc lập
tương đối so với lực lượng sản xuất, vì vậy quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực
lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất phân phối do đó nó có ảnh
hưởng trực tiếp tới thái độ của người lao động, tới năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá
trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động, từ đó tác động tới lực lượng sản xuất.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai xu
hướng:
-Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuát thì sẽ thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển
-Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phù hợp “ được quan niệm là sự phù hợp biện chứng chứa đựng mâu thuẫn”, tức là
sự phù hợp trong mâu thuẫn, bao hàm mâu thuẫn.Sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đối với
sự phát triển của lực lượng sản xuất có thể là do quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc do
quan hệ sản xuất vượt trước trình độ của lực lượng sản xuất hiện có.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là
quan hệ chung nhất chi phối toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất, phá bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, quá
trình này lặp đi lặp lại làm cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản xuất từ
thấp tới cao dẫn tới sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
Chương II
Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất của Đảng ta trong nền kinh tế ở Việt Nam
hiện nay
1.Tình hình kinh tế đất nước ta hiện nay
Hiện nay Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách này, thì
phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư nhân là một
thành phần rất năng động, hiệu quả. Có điều kiện này thì Đảng mới có thể có thêm kiến
thức và kỹ năng nghiệp vụ cụ thể để lãnh đạo thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế
đó chính là làm cho lực lượng sản xuất phát triển
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong suốt
mấy chục năm qua thực tiễn đã cho thấy những mặt được cũng như những những mặt
còn hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng như quy luật
quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta, với đặc điểm của nước
ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi
trước cái cày đi sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là
chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc
chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do
vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển.
Sau khi giành được chính quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH trong điều kiện nền
kinh tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chí trị tư tưởng để xóa bỏ nhanh
chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể, lúc
đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hoá sản xuất
cũng như sự thắng lợi của CNXH ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã không
mang lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất
và trình độ của LLSX, đã để lại hậu quả là:
Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, buôn bán
nhỏ..) thì tư hữu về TLSX là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và TLSX.
Việc tiến hành tập thể nhanh chóng TLSX dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình
thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi TLSX, không làm chủ được qúa
trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo HTX, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực
sự dấn đến TLSX trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể.
Thư hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý
TLSX cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi
phối, định đoạt TLSX & sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người
làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng &
chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công hữu về TLSX
cùng với ông chủ của nó trở thành hình thức, vô chủ, chính quyền (bộ, ngành chủ quản)
là đại diện của chủ sở hữu là người có quyền chi phối, đơn vị kinh tế mất dần tính chủ
động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không
ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế giàng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ
với kết quả hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có quyền
định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng
chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh,
thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh (thường gọi
là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).
Ông bà ta thường nói: muốn biết bơi phải nhảy xuống nước. Còn Lênin, trong tác
phẩm “Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục chính trị”, đã
viết: “Hoặc là tất cả những thành tựu về mặt chính trị của chính quyền Xô viết sẽ tiêu
tan, hoặc là phải làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở kinh tế. Cơ sở
này hiện nay chưa có. Đấy chính là công việc mà chúng ta cần bắt tay vào làm” đúng
theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
2.Vận dụng của Đảng ta trong nền kinh tế hiện nay
Con người không thể tự ý lựa chọn quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu
nói riêng một cách chủ quan duy ý chí. Sở hữu vừa là kết quả vừa là điều kiện cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất, là hình thức xã hội có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm
hãm lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, mỗi loại hình, hình thức sở hữu chưa thể mất đi
khi chúng còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và cũng không thể
tùy tiện dựng lên, hay thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất không đòi hỏi. Do vậy, khi
quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải tính đến sự biến đổi phức tạp từ quan hệ sản xuất,
trong đó trực tiếp là chế độ sở hữu.
Quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, cũng như quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của giới nghiên
cứu lý luận, song ở đây, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.
Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện
ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm
nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động phát triển của xã hội tư bản. Từ
đó, các ông đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
bằng chế độ công hữu. Việc thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu, theo quan
điểm của các ông, không thể tiến hành ngay một lúc, mà phải là một quá trình lâu dài.
Tuy nhiên, vào giai đoạn lịch sứ đó, các ông chưa chỉ ra mô hình cụ thể về chế độ công
hữu.
Kiểu quan hệ sản xuất – quan hệ sở hữu này hay kiểu quan hệ sản xuất – quan hệ
sở hữu khác tuỳ thuộc vào tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện nay
trình độ lực lượng sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, các vùng. Có
những vùng, miền mà người dân vẫn dùng cái cuốc, con trâu để lao động nhưng cũng
có nơi lao động trong phòng thí nghiệm, trong khu công nghệ cao.
Do vậy, tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xoá ngay mọi hình thức bóc lột. Chỉ đến khi
trình độ xã hội hóa sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, thì khi ấy mới có điều kiện chín muồi thực hiện cuộc cách mạng xây dựng
xã hội không còn bóc lột. Chúng ta không thể thủ tiêu chế độ sở hữu ngay lập tức được
mà chỉ có thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào đã tạo được một lực lượng sản xuất
hiện đại, xã hội hóa cao độ với năng suất lao động rất cao thì khi đó mới xoá bỏ được
chế độ tư hữu.
Đất nước chúng ta đang thực hiện nhất quán nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Do vậy, mục đích là phải sản xuất ra thêm nhiều giá trị thặng dư. Vấn đề
bóc lột hay không bóc lột thể hiện trong quan hệ phân phối. Bình đẳng trong phân phối
được thực hiện dưới những hình thức cụ thể như thế nào là tùy thuộc vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp với xu thế
của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã
hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên
phải trải qua nhiều khâu trung gian (thời kỳ quá độ).
Điểm nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu vì vậy khâu
trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều hình thức sở hữu đan xen
nhau) là phù hợp với yêu cầu phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất của nước ta hiện
nay.
Đồng thời không ngừng đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn hóa,
nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” .
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta (xây
dựng lực lượng sản xuất)
- Đây là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
- Phải đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học.
- Từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
- Coi giáo dục đào tạo là nhiệm vụ hàng đầu.
. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã
hội (củng cố đổi mới kiến trúc thượng tầng):
- Đổi mới hệ thống chính trị.
- Nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Kết Luận
Có thể nói giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng, hữu
cơ không thể tách rời trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quan trọng quyết định, nó là
nội dung còn quan hệ sản xuất giữ vai trò hình thức của phương thức sản xuất. Vì thế
chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất những quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế không phải lúc nào cũng có
được sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Đặc biệt sản xuất
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều lộn xộn trong việc nghiên cứu sử
dụng và phát triển các phương thức sản xuất. Nhưng nếu chúng ta sử dụng đúng các quy
luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực lượng sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến
nhanh cùng với các nước trên con đường công nghiệp hoá – hiện đại hoá mà Đảng và Nhà
nước đã chọn.
Với những thành tựu mà nước ta đã đạt được ta thấy hiệu quả của việc Đảng và Nhà
nước ta đã nhạy bén với thời cuộc, xem xét, nắm bắt tình hình nước ta một cách chính xác
để đưa ra các chính sách phù hợp, và không thể phủ nhận hiệu quả của việc vận dụng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lưc lượng sản xuất của nước ta trong công
cuộc đổi mới đất nước.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Góp phần hướng dẫn học tập môn triết học Mác – Lênin. Tập 2
Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2003
2. Tài liệu Lênin toàn tập – Tập 38
Nhà xuất bản Maxcơva 1977
3. Giáo trình Những NLCB của chủ nghĩa Mác – Lênin
Chính Trị Quốc Gia
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_van_dung_quy_luat_quan_he_san_xuat_phu_hop_voi_tri.pdf