Tính chất và vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU: Trong thời đại ngày nay, Nhà nước nào cũng có vai trò nhất định trong sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt là trong sự nghiệp cải tổ và xây dựng nền kinh tế. Việt Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước với nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần cùng tham gia. Trong điều kiện như vậy thì vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là khách quan, một nhu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường, thể hiện ở việc Nhà điều tiết nền kinh thông qua việc hoạch định chính sách. Vì vậy, nâng cao vai trò của Nhà nước trong quản lý và điều tiết nền kinh tế, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa là vấn đề mang tính thời sự và là đề tài nghiên cứu của nhiều cấp, ngành, nhiều cán bộ và sinh viên. Nhà nước thực hiện tốt vai trò kinh tế của mình đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng với hiệu quả cao và bền vững, tạo tiền đề rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tránh nguy cơ tụt hậu và đuổi kịp các nước kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới. Đây là một vấn đề lớn cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, song do kiến thức còn hạn chế, bài bài viết này chỉ nêu lên những nội dung cơ bản và một số thực trạng vai trò của Nhà nước đối với công nghiệp hóa trong những năm qua, đồng thời đưa ra một số ý kiến nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong thời gian tới. Bài viết đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo hướng dẫn, đồng thời được sự giúp đỡ của Thư viện trường về nhiều tài liệu tham khảo bổ ích. Bài viết này được chia thành 2 chương, bao gồm: Chương 1: "Tính tất yếu khách quan vai trò Nhà nước trong trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Chương 2: Thực trạng về vai trò của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH và những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH-HĐH ở nước ta trong thời gian tới Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và quan tâm của thầy đã giúp em hoàn thành đề án này.

doc26 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tính chất và vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c không ít nhưng chưa mạnh. Việt Nam có khoảng 10000 cán bộ đại học trên 1 triệu dân. Số cán bộ khoa học công nghệ về các nghành khoa học kĩ thuật chỉ chiếm 15, 4% trên tổng số. Chất lượng đào tạo cán bộ khoa học thấp, chưa được cập nhật tri thức hiện đại của thế giới, thiếu cán bộ chủ chốt thực hiện những chương trình nghiên cứu khoa học có tình đột phá cao. Lực lượng chuyên gia thường chỉ nắm lí thuyết mà thiếu thực hành. Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 30/3/1991của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng về khoa học đã chỉ rõ : đội ngũ cán bộ khoa học đông nhưng không đồng bộ thiếu những cán bộ khoa học thạo công nghệ giỏi quản lí. Việc đào tạo, bôì dưỡng và sự dụng cán bộ khoa học còn nhiếu thiếu sót. Đầu tư tài chính cho công nghệ của Nhà nước thấp. Nghị quyết 26/NQ-TW ngày 30/3/1991 cảu bộ chinhd trị đã nêu rõ : “tăng mạnh đầu tư cho cho các hoạt động khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn..”. Phát biểu tại Hội nghị lần 7 ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, Tổng bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh  “ phải có đầu tư thoả đáng về phương diện tài chính thì mới có thể tạo ra tiềm lực mạnh về khoa học và công nghệ”. Chi phí bình quân cho một hàng năm cho mỗi cán bộ khoa học và công nghệ từ ngân sách ở VIệT NAM chỉ đạt 1000 USD so với mức bình quân trên thế giới là 55324 USD. Điều đó có nhiều nguyên nhân do khó khăn chung của nền kinh tế, do sự eo hẹp của ngân sách. Song cần nhấn mạnh là cơ chế quản lí huy động còn mang nặng tính tập trung quan liêu, kém hiệu quả. Để có thể tránh được nguy cơ trở thành bải thải công nghệ VIệT NAM cần có những chính sách cụ thể được hoạch định một cách cụ thể thích hợp với những yêu cầu mới hoàn cảnh mới. Trước thực trạng trên việc nghiên cứu các biện pháp, chính sách để tăng cường hiệu quả đổi mới và quản lí công nhệ nhập càng có ý nghĩa quyết định sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Ngoài các luật và pháp lệnh đã có như luật đầu tư nước ngoài, pháp lệnh chuyển giao công nghệ, pháp lệnh bảo hộ sở hữu quyền công nghiệp đã có một số văn bản của Chính phủ. Nhưng vẫn còn thiếu những văn bản cụ thể và điều quan trọng là các văn bản đã có chưa được chấp hành nghiêm túc. Trước hết Nhà nước phải giữ được vai trò kiểm soát chặt chẽ đối với việc đổi mới thiết bị bằng con đường nhập. Nhà nước cần chủ động đầu tư hoặc khuyến khích đầu tư để có những doanh nghiệp đủ mạnh thực hiện công việc phân biệt thật giả tốt xấu, tập hợp  phân tích, tổng hợp thông tin về thiết bị công nghệ thế giới từ các kênh có thể có. Việc kiểm soát là cấp bách nhưng phải đảm bảo tính khách quan và chặt chẽ. Trong giai đoạn đầu việc chuyển giao vẫn là nhập và thích nghi với công nghệ nhập. Vì vậy công tác nghiên cứu triển khai và đào tạo cán bộ cũng tập trung theo hướng này, áp dụng có hiệu quả công nghệ nhập cũng là thành quả khoa học đáng biểu dương và kính trọng. Theo kinh nghiệm nhiều nước, để phát huy hiệu quả công nghệ nhập có thể thực hiện sao chép nhân bản vừa tiết kiệm ngoại tệ vưà nâng cao trình độ thiết kế chế tạo, thiết bị có thể được cải tiến nâng cao tính năng đưa năng suất hiệu quả cao hơn. Đó cũng chính là quá trình nâng cao năng lực nội tại của công nghiệp trong quá trình chuyển giao công nghệ. 1.2.2.3.Chính sách về đối ngoại: Công tác đối ngoại đã giúp các nước từ đối đầu chuyển sang đối và mở ra nhiều cơ hội để phát triển kinh tế – xã hội. Đồng thời tạo điều kiện để các quốc gia trong đó có Việt Nam tạo ra nhiều hàng hoá. Đối với nước ta trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để tạo ra sự phát triển kinh tế từg một nước có nền kinh tế lạc hậu trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế cao.  Do đó chính sách đối ngoại phải đặt lên hàng đầu. 1.2.3. Vai trò của nhà nước trong việc tổ chức thực hiện CNH-HĐH : Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài. Việc nghiên cứu các mô hình và kinh nghiệm của các nước trong quá trình cộng nghiệp hoá rất cần thiết cho chúng ta. Mỗi mô hình cụ thể và những kinh nhgiệm cụ thể đều xuất phát từ điều kiện cụ thể của mỗi nước trong bối cảnh quốc tế. Từ những kinh nghiệm của các nước, nhà nước có những chính sách thực hiện công nghiệp hoá một cách có hiệu quả. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ THỜI GIAN QUA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CNH – HĐH Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI 2.1. THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CNH – HĐH Ở NƯỚC TA THỜI GIAN QUA. 2. 1.1. Thực trạng về xác định mục tiêu, định hướng cho bước đi của CNH – HĐH. Vai trò kinh tế của Nhà nước là vai trò không thể thiếu được của mỗi Nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước,. Vai trò của Nhà nước được biểu hiện ở các nội dung sau: Thứ nhất, Nhà nước có vai trò định hướng sự phát triển kinh tế. Vai trò quản lí của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trước hết và quan trọng ở chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xác định mục tiêu Nhà nước cụ thể hoá đường lối kinh tế của Đảng thành những mục tiêu, tốc độ phát triển cần phải đạt tới và xác định thứ tự mục tiêu. Do đó không những cần coi trọng mà phải nâng cao kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, Nhà nước tạo môi trường, điều kiện cho các hoạt động kinh tế. Điều kiện quan trọng hàng đầu là sự ổn định về chính trị kinh tế xã hội đển các tổ chức kinh tế, các chủ thể kinh doanh hàng hoá yên tâm bỏ vốn đầu tư, mở rộng sản xuất.. Xây dựng phát triển đồng bộ các loại thị trường bao gồm thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền tệ sản phẩm khoa học, dịch vụ… Phát triển hệ thống thông tin kinh tế, khoa học công nghệ, các dự báo về mặt hàng giá cả các nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Xây dựng mới và nâng cấp dần cơ sở hạ tầng cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Bao gồm cơ sở hạ tầng về tài chính tiền tệ và cơ sở hạ tầng xã hội. Thứ ba, Nhà nước điều tiết thị trường bằng các công cụ như : Pháp luật:quản lí Nhà nước trong nền kinh tế thị trường chủ yếu bằng pháp luật. Pháp luật, quan trọng là hệ thống pháp luật kinh tế, tạo hành lang an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm kỉ cương cho các hoạt động của đời sống kinh tế xã hội. Do đó cần có hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và từng bước hoàn chỉnh khắc phục tình trạng thiếu pháp luật gây nhiều kẽ hở trong quản lí. Đó là một nguyên nhân quan trọng của những hành vi lạm dụng tiêu cực tham nhũng buôn lậu, ăn cắp tài sản quốc gia gây hỗn loạn trong các hoạt động kinh tế. Các chính sách kinh tế :trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, chính sách kinh tế là một công cụ cực kì sắc bén và trước hết là chính sách tài chính tiền tệ tín dụng, chính sách thương mại và thuế quan, chính sách công nghệ và chuyển giao công nghệ… Thứ tư, sự kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế. Kiểm soát là nhằm thiết lập các trật tự kỉ cương trong hoạt động kinh tế, bảo vệ tài sản quốc gia, lợi ích của người lao động và góp phần thực hiện công bằng xã hội, Nhà nước thực hiện kiểm kê kiểm soát đăng kí kinh doanh, hoạt động kinh doanh, chất lượng sản phẩm, tài chính… đối với mọi hoạt động sản xuất lưu thông. Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá thì vai trò hoạch định chính sách phát triển kinh tế đảm bảo nền kinh tế theo đúng mục tiêu đã định là quan trọng nhất. 2. 1.2. Thực trạng về phát triển nguồn nhân lực. Nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục trong sự nghiệp đổi mới và phát triển, nghị quyết lần thứ 4 BCHTW Đảng khoá VII đã chỉ rõ “ cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy và là mộtđiều kiện cơ bản để bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội. Giáo dục là quốc sách hàng đầu thể hiện ở các quan điểm cơ bản sau : Thứ nhất, đầu tư cho giáo dục là một dạng đầu tư phát triển vì nó là động lực để tăng trưởng kinh tế. Giáo dục cung cấp cho nền kinh tế một lực lượng lao động có tay nghề giỏi có trí tuệ cao có năng lực thực sự. Để thực hiện được thì phải đổi mới liên tục mô hình giáo dục. Khi giáo dục trở thành động lực tăng trưởng kinh tế thì ngân sách cho giáo dục không còn là gánh nặng cho xã hội nữa. Thứ hai, đó là quan điểm xã hội hoá giáo dục đào tạo. Phát triển giáo dục và đào tạo phải mang tính chất xã hội hoá cao là sự nghiệp của toàn dân. Khi giáo dục có tính xã hội thì mọi thành viên trong cộng đồng đều có trách nhiệm quan tâm góp sức lực tiền của phát triển giáo dục. Mặt khác mọi thành viên đều phải có nghĩa vụ học tập vì nó mang lại lợi ích trực tiếp cho bản thân, cho các doanh nghiệp và cho toàn xã hội. Cho nên người đi học phải có nghĩa vụ đóng góp học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp chi phí đào tạo. Thứ ba trong nền kinh tế thị trường có sự phân hoá giàu nghèo do đó để công bằng trong cơ hội giáo dục và đào tạo, tạo nên sự đồng đều giữa các vùng Đảng và Nhà nước có các chính sách ưu tiên phát triển. Thứ tư, ưu tiên xây dựng các cơ sở đào tạo có chất lượng cao. Bởi vì khi quy mô giáo dục mở rộng thì không thể phát triển đều khắp trên diện rộng các trường có chất lượng như nhau. Do đó phải tập trung phát triển một bộ phận nhỏ giáo dục có chất lượng cao. Bộ phận giáo dục và đào tạo có chất lượng cao sẽ là hạt nhân để từ đó giúp cho việc nâng cao chất lượng của cả hệ thống giáo dục. Giáo dục VIệT NAM đang đứng trước những thách thức to lớn trước yêu cầu đổi mới kinh tế xã hội và trước yêu cầu công nghiệp hoá hiện đaị hoá trước sức ép về nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực. Trong vòng 20 năm tới giáo dục VIệT NAM phải thực hiện được các mục tiêu cơ bản : nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu thứ nhất là nâng cao mặt bằng dân trí. Vận động thanh thiếu niên dưới 23 tuổi đi học để nâng số năm đi học trung bình của người dân ở mức 5 hiện nay lên 9 vào năm 2020. Mặt bằng dân trí được nâng lên và biểu hiện của nó là người có trình độ văn hoá phổ thông nắm được kiến thức khoa học công nghệ cơ bản. Thứ hai là tăng học sinh các cấp học liên tục. Thứ ba là nâng tỉ lệ những người có trình độ cử nhân tiến sĩ ngang bằng với các nước trong khu vực. Mục tiêu thứ hai là đào tạo nguồn nhân lực. Tập trung trước hết vào đào tạo hướng nghiệp cho học sinh một cách thiết thực. Để cho mọi người có kĩ năng lao động kĩ thuật liên tục tăng lên 30% vào năm 2020. Tăng tỉ lệ lao động được đào tạo nghề ở mức 60% năm 2020. Mục tiêu thứ ba là bồi dưỡng nhân tài vì nhân tài là động lực của sự phát triển, là động lực tạo nên các thế mạnh trong hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Để bồi dưỡng nhân tài Nhà nước chủ trương thành lập một bộ phận giáo dục có chất lượng cao có quy mô và chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế đó là các trường điểm ở bậc học phổ thông và một số trường đại học quốc gia đào tạo đa nghành. Nâng dần tỉ lệ học sinh ở các trường này lên 20% vào năm 2020. Song song với đào tạo ở trong nước bồi dưỡng đào tạo ở nước ngoài cũng rất quan trọng, phải thường xuyên cử các cán bộ khoa học quản lí chủ chốt đi đào tạo ở nước ngoài. Quy mô giáo dục không ngừng phát triển ở các nghành học, các cấp học. Nhưng sự phát triển không đồng đều qua các thời kì. Thời kì trước đổi mới giáo dục, giáo dục Việt Nam tuân theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Giáo dục và đào tạo được nhà nước cấp ngân sách hoàn toàn các chỉ tiêu giáo dục được đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nhà nước có kế hoạch phân bổ và sử dụng lực lượng lao động đã qua đào tạo. Do đó mức tăng quy mô giáo dục do nhà nước hoạch định và năm sau luôn cao hơn năm trước. Thời kì đổi mới quy mô giáo dục có những biến động lớn lúc đầu có sự giảm sút đột ngột và sau đó tăng dần nhưng mức tăng không đáng kể. Theo số liệu của Tổng Cục thống kê thì năm học 1986-1987 cả nước có 12482, 9 nghìn học sinh phổ thông thì năm học 1990-1991 con số đó là 11882, 9 nghìn giảm 5%. Những năm sau số học sinh phổ thông đã tăng lên. So với tỉ lệ tăng dân số trong độ tuổi đi học thì mức tăng lượng học sinh đến trường không đáng kể. Nói khác đi là tỉ lệ học sinh trong độ tuổi đi học giảm đi, thí dụ năm học 86-87 cả nước có 910, 6 nghìn thì năm 90-91 chỉ còn 524, 2 nghìn, giảm 73%. Số học sinh trong độ tuổi đi học trung học liên tục giảm từ năm 90-93, phần lớn những người bỏ học là con em lao động nghèo hoặc con em nông dân họ trở thành lao động chính, một bộ phận khác là con em các gia đình thành thị họ cần có việc làm để nâng cao mức sống tìm việc làm trong các cơ sở tư nhân. Năm 1991-1992 là năm học chặn đứng tình trạng xuống cấp về quy mô giáo dục ở các cấp học. Trong hai năm  học sau đó số lượng học sinh các cấp học phổ thông đã tăng lên với mức tăng hàng năm là 5%và 7%. Điểm nổi bật của nền giáo dục Việt Nam là tỉ lệ học sinh nữ so với tỉ lệ học sinh nam trong nhiều năm là không thay đổi ở các bậc học phổ thông và là 93-94%. Đó là thực tế đã có tại VIệT NAM trong khi ở các nước đông dân khác như Trung Quốc, Ân Độ không có. So với thời kì trước năm 1986 thì số học sinh trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề giảm nhanh năm 86-87 có 156 nghìn thì năm 90-91 là 135, 4 nghìn giảm 15%. Quy mô học sinh trung học chuyên nghiệp đã tăng từ năm 90-91 đến nay nhưng xu thế không rõ ràng. Quy mô đào tạo sinh viên đại học và cao đẳng có nhiều biến động lớn. Mỗi năm có khoảng 20 nghìn sinh viên đại học cao đẳng chính quy tốt nghiệp. Tỉ lệ sinh viên đại học cao đẳng trong độ tuổi đi học của Việt Nam là 2, 3-2, 5%. Tỉ lệ này cao hơn mức 2% của Trung Quốc nhưng lại thấp hơn so với mức 16% của Thái Lan, 10% của Inđônêxia và 40% của Hàn Quốc. Thời kì đầu số lượng sinh viên giảm sút nhưng tăng nhanh trong những năm gần đây. Nhiều nghiên cứu cho thấy tình hình trên có hai lí do. Thứ nhất hình thức giáo dục phong phú và có nhiều đổi mới. Thứ hai mức sống của nhiều tầng lớp dân cư đã tăng lên nhiều người có nguyện vọng học cao hơn để nâng cao địa vị xã hội của mình. Hệ thống giáo dục mở rộng. Hệ thống giáo dục Việt Nam bao gồm giáo dục mầm non mẫu giáo, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp. Sau giáo dục đại học và hệ thống giáo dục cao học từ 3 đến 5 năm để đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ. Số trường học phát triển nhanh mỗi làng xã có ít nhất một trường tiểu học hoặc trung học cơ sở. Trước tình hình phải tăng số lượng người có trình độ chuyên môn cao, Nhà nước chủ trương phát triển hệ thống đào tạo đại học và cao đẳng. Trong điều kiện thiếu giáo viên đại học, giáo dục Việt Nam chủ trương lấy người trình độ đại học dạy đại học và đây là trường hợp ngoại lệ bởi vì hầu hết các nước trong khu vực thường mời các giáo sư nước ngoài. Bằng con đường đó giáo dục đại học cao đẳng Việt Nam đã mở rộng quy mô một cách nhanh chóng và có khả năng đào tạo đa nghành. Hiện nay Việt Nam có 109 trường đại học, cao đẳng và đào tạo hơn 200 nghành học. Quy mô giáo dục và đào tạo mở rộng trong suốt 50 năm qua đòi hỏi số giáo viên tăng lên để đáp ứng nhu cầu đó Hiện tại cả nước có 467, 4 nghìn giáo viên phổ thông, trong đó có 288, 2 nghìn tiểu học, 142, 2 trung học cơ sở và 37 nghìn phổ thông trung học. Cả nước có khoảng 9, 7 nghìn giáo viên trung học chuyên nghiệp 6, 2 nghìn giáo viên dạy nghề và 22 nghìn giảng viên đại học và cao dẳng. Trước tình hình chuyển sang nền kinh tế thị trường biên chế giáo dục không tăng đời sống một bộ phận đội ngũ giáo viên gặp khó khăn do đó một số bỏ nghề. Năm học 94-95 đã có 20 nghìn giáo viên phổ thông xin thôi việc có nghĩa là năm đõ thiếu 60 nghìn giáo viên phổ thông chủ yếu là giáo viên ở bậc tiểu học. Thiếu giáo viên phổ thông đã trở thành vấn đề bức xúc trong nhiều năm. Hệ thống đào tạo tại chức. Trong chính sách giáo dục và đào tạo hình thức giáo dục tại chức rất được Nhà nước quan tâm hình thức này sẽ đáp ứng được 3 yêu cầu cấp bách. Thứ nhất phát triển nguồn nhân lực bổ sung vào lực lượng lao động những người có trình độ cao hơn. Thứ hai tạo điều kiện cho người nghèo hoặc những người đang làm việc tại các cơ quan không có điều kiện học tập chính quy tập trung có thể học tập đại học và sau đại học. Thứ ba khắc phục tình trạng thiếu hụt đội ngũ có chuyên môn cao để xây dựng đất nước sau những năm bị chiến tranh tàn phá. Số sinh viên đại học tại chức liên tục tăng từ 91 đến 95. Năm 91-92 chỉ có khoảng 17 nghìn học viên đến năm 94-95 con số đó là 66, 4 nghìn tốc độ tăng khá nhanh so với các năm trước đó. Hình thức đào tạo tại chức cũng rất quan tâm đến yêu cầu đào tạo nghề mới và đào tạo lại nghề. Hệ thống đào tạo tại chức đã có những đóng góp to lớn phát triển đội ngũ cán bộ, trí thức vươn lên trình độ cao để làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Trong suốt thời kì 51-90 các nước Liên Xô và Đông Âu, Trung Quốc đã đào tạo cho Việt Nam hơn 52000 sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh. Trong cùng thời gian đó có một số ít sinh viên Việt Nam được các nước Pháp Thuỵ Điển Nhật Bản giúp đào tạo. Đến cuối 1994 do sự mở rộng giao lưu quốc tế Việt Nam đã có 1900 sinh viên 394sinh viên cao học 715 nghiên cứu sinh 298 thực tập sinh đang học tập và nghiên cứu tại 25 nước trên thế giới. Nhiều nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế đã giúp Việt Nam xây dựng hàng nghìn phòng học, thiết bị và đồ dùng học tập. Sự hợp tác trên đã giúp Việt Nam bắt kịp với những thành tựu khoa học kĩ thuật mới. So với các nước thu nhập bình quân đầu ngưới thấp như Việt Nam thì nền giáo dục như Việt Nam vẫn được xếp vào loại khá. Tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số mặt yếu kém sau: - Mô hình giáo dục đa nghành và chuyên môn hẹp không thích nghi kịp vời xu thế đổi mới. Nhiều năm đã xảy ra sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng. Số lượng lớn sinh viên ra trường không có việc làm lãng phí ghê gớm nguồn tri thức và ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu học tập và dẫn đến tỉ lệ bỏ học cao của học sinh phổ thông. - Cơ cấu đào tạo không hợp lí giữa đào tạo đại học và đào tạo nghề. Trong khi cần giải quyết việc làm thì mở rộng quy mô dạy nghề mhưng quy mô đào tạo đại học lại mở rộng do xu thế thanh niên vào đại học tăng. - Chất lượng giáo dục những năm gần đây có sự giảm sút ở nhiều cấp có nhiều lí do như : học sinh bỏ học, chất lượng giáo viên các cấp đều yếu theo đánh giá của Bộ giáo dục thì giáo viên không đạt tiêu chuẩn là 60-70%, tình trạng thiếu sách giáo khoa ở tất cả các cấp và giáo trình đại học không được cập nhật thông tin tri thức hiện đại. 2.1.3. Thực trạng về vai trò huy động vốn và quản lí vốn của nhà nước: Trước đổi mới trong cơ chế quản  lí kinh tế quan liêu bao cấp của một nền kinh tế chỉ huy Việt Nam không có thị trường tài chính với một hệ thống tài chính tập trung mọi nguồn vốn vào tay Nhà nước để phân phối theo kế hoạch cho từng dự án đầu tư từng xí nghiệp. Khi công cuộc đổi mới được tuyên bố vào cuối năm 1986 và chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần thì chính sách tài chính đã có sự chuyển đổi một cách mạnh mẽ từ cơ chế đầu tư trực tiếp bằng Ngân sách sang tín dụng đầu tư mở rộng liên doanh liên kết huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước. Sự chuyển biến về chính sách tài chính đã làm thay đổi lớn trong cơ cấu vốn đầu tư nước ta. Trước kia nguồn vốn chỉ toàn từ ngân sách nhưng khi sang kinh tế thị trường thì các nguồn vốn được  giải phóng và làn sóng đầu tư dâng lên mạnh mẽ ở tất cả các khu vực. Nếu như năm 1988 tỉ lệ đầu tư của nền kinh tế chỉ đạt 8, 9%GDP thì đến năm 1991 tỉ lệ tiết kiệm  là 10, 1%và tỉ lệ đầu tư là 15%. Năm 1994 tỉ lệ tương ứng là 16, 7 và 24%. Tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư đều tăng nhanh và mạnh ở cả hai khu vực Nhà nước và tư nhân. Nếu như năm 1991 phần thu ngân sách của chính phủ vấn chưa đủ chi thường xuyên thì năm 1992 đã bắt đầu có tiết kiệm  va năm 1994 tỉ lệ tiết kiệm là 4, 5 % GDP. khu vực tư nhân năm 1994 tỉ lệ tiết kiệm của hộ gia đình đạt trên 11% GDP trong đó tự đầu tư của khu vực này đạt 6, 5% GDP phần còn lại được cung cấp cho khu vực doanh nghiệp và chính phủ. Tuy nhiên một phần đáng kể 5%GDP  được đầu tư vào xây dựng nhà ở do đó phần chi cho đầu tư phát triển kinh tế còn thấp. Trong 5 năm 1991- 1995 ước tính huy động vốn nguốn vốn đầu tư cho phát triển của toàn xã hội đạt 15- 16 tỉ USD trong đó Nhà nước chiếm 43% (bao gồm đấu tư từ ngân sách Nhà nước tín dụng đầu tư Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư ) phần vốn từ đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm  37% đầu tư của dân là 20%. Chính phủ đầu tư nhiêu hơn cho hạ tầng kinh tế xã hội. Đầu tư của nhân dân dẫn tới nhiều cở sở sản xuất của tư nhân được hình thành và hoạt động có hiệu quả phần lớn là có quy mô nhỏ và vừa nhưng cũng có một số doanh nghiệp tư nhân lớn thu hút nhiều lao động. So sánh với một số các nước Asean tỉ lệ tích luỹ và đầu tư của Việt Nam đều thấp hơn nhiều. Điều đó cho thấy việc huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ở Việt Nam tuy có những kết quả ban đầu nhưng vẫn là một lĩnh vực nóng bỏng và thách thức lớn, lâu dài đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Thị trường tài chính. Thị trường tài chính Việt Nam gồm 3 yếu tố cấu thành là: thị trường ngầm, tín dụng thông qua hệ thống Ngân hàng và thị trường phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Thị trường ngầm được hình thành một cách tự phát để đáp ứng các quan hệ cung cầu về vốn trong nội bộ khu vực dân cư. Thị trường này phát triển mạnh vào 1988- 1992 do hệ thống ngân hàng chưa phát triển kịp để giải quyết nhu cầu về vốn đột ngột tăng trong quá trình đổi mới. Đặc điểm của thị trường này là thời thời gian cho vay ngắn, lãi suất cao nhưng việc vay và cho vay đơn giản thuận tiện. Tuy nhiên độ rủi ro cao vì vậy giai đoạn 1990-1993 đã xảy ra tình trạng đổ vỡ của các tổ chức “họ ” và “hụi  ” do việc những người vay tiền mất khả năng thanh toán hoặc lấy tiền rồi bỏ trốn. Tới nay thị trường này đã thu hẹp và chiếm một tỉ lệ nhỏ. Thị trường tín dụng ngân hàng. Thị trường tín dụng thông qua ngân hàng là thị trường vốn chủ yếu vốn chủ yếu hiện nay tại Việt Nam. Hệ thống ngân hàng đã có bước tiến đáng kể trong những năm đổi mới năm 1988 pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành và có hiệu lực từ năm 1990 đã cho phép thành lập các loại ngân hàng sau ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mở tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, hợp tác xã tín dụng. Từ khi có pháp lệnh này hệ thống ngân hàng đã mạnh cả về số lượng và chất lượng. Tính bình quân cứ 20000 người dân có một chi nhánh ngân hàng. Con số này so với các nước trên thế giới còn thấp nhưng là bước tiến đáng kể của Việt Nam. Hệ thống ngân hàng huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế và của các tầng lớp dân cư thông qua hệ thống quỹ tiết kiệm và hợp tác xã tín dụng. Ngân hàng đã đa dạng hoá các hình thức huy động vốn với nhiều hình thức hấp dẫn. Mức tăng huy động vốn của năm hệ thống ngân hàng năm 1994 đạt 160% năm  1993 chiếm 70% tổng nguồn vốn huy động năm 1994 đã chiếm 20% GDP. Thị trường trái phiếu cổ phiếu. Trong những năm gần đây với chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một sự thúc đẩy thị trường trái phiếu cổ  phiếu  phát triển. Việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu dựa trên các văn bản pháp lí sau : - Luật công ty ban hành 1990 quy định về việc phát hành cổ phiếu trái phiếu của các công ty cổ phần. - Quyết định 202 Ttg 8-6-1991 ban hành quy chế tạm thời về phát hành cổ phiếu trái phiếu doanh nghiệp nhà nước - Luật doanh nghiệp ban hành tháng 4- 1995. - Nghị định 23CP ngày 22 – 3 –1995 về việc phát hành trái phiếu quốc tế. Thị trường trái phiếu cổ phiếu đã có sự phát triển cao hơn nhưng cho tới nay quy mô thị trường còn nhỏ bé. Số lượng cổ phiếu còn ít giá trị cổ phiếu chưa đến 1% GDP thời hạn các loại trái phiếu tới 90% là ngắn hạn (dưới 1 năm ) còn lại từ 1-3 năm. Tháng 7-2000 nước ta thành lập sở giao dịch chứng khoán đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh đây là một bước tiến vượt bậc tuy nhiên hàng hoá cho thị trường này còn quá ít thị trường chưa có sự sôi động. Chưa có sự chuẩn mực về công khai hoá, vế kế toán kiểm toán đối với các công ty phát hành trái phiếu cổ phiếu điếu đó làm cho người đâu tư lo ngại vì sự rủi do của các cổ phiếu  trái phiếu do các công ty  phát hành. Đầu tư trực tiếp (FDI). Tổng vốn đầu tư tuy tăng nhanh tăng 50% hàng năm trong thời kì 1989-1995 nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và khả năng phát triển thị trường vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam. Tổng vốn đầu tư được thực hiện chiếm tỉ trọng 34% vốn đăng kí tương đối khá nhưng đó chưa phải là tỉ trọng cao nhất có thể đạt được do nhiếu nguyên nhân gây chậm trễ việc thực hiện dự án như kéo dài thời gian xét cấp đất giải phóng mặt bằng và nhiều thủ tục rườm rà khác. Hệ thống chính sách chưa hoàn thiện thiếu đồng bộ, không đủ mức cụ thể thường hay thay đổi, đặc biệt việc thi hành pháp luật còn tuỳ tiện. Quy hoạch kinh tế và lãnh thổ kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài chưa được xác định cụ thể triển khai chậm chạp gây bị động cho cả hai phía đầu tư và xét duyệt dự án. Hiện nay Việt Nam chưa có nhiều đối tác mạnh có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Việc góp vốn của bên Việt Nam trong nhiều dự án quá thấp, chủ yếu bằng quyền sử dụng đất. Trong một số dự án bên nước ngoài góp vốn bằng thiết bị công nghệ lạc hậu với giá cao và bên Việt Nam còn có nhiều sơ hở trong tiêu thụ sản phẩm. Viện trợ phát triển chính thức (ODA ). Thời kì 1991-1995 giá trị ODA cho Việt Nam bình quân mỗi năm đạt khoảng 480 triệu USD. Thực tế cho thấy tiềm năng vốn nước ngoài tuy lớn nhưng việc khai thác huy động còn nhiều khó khăn và còn đang ở mức thấp. Tháng 11-1993 các nhà tài trợ tại Hội nghị quốc tế tại Pari cam kết hỗ trợ phát triển 1, 86 tỉ USD vào tháng 11-1994 nhóm tư vấn cam kết hỗ trợ phát triển 1, 95 tỉ USD. Vấn đề là phải giải ngân, tiếp nhận nhanh chóng và sự dụng có hiệu quả Việt Nam vẫn trong tình trạng thiếu quy hoạch chung về kêu gọi ODA làm cơ sở cho việc vận động các dự án cụ thể. Phân bố dàn trải thời gian thẩm định kéo dài, giải phóng đền bù di dân chậm chạp nhất là đối với các dự án cần diện tích mặt bằng lớn Hiện nay chưa có số liệu thống kê chính thức cho phép nghiên cứu tin cậy và chi tiết về cơ cấu và hiệu quả vốn đầu tư tại Việt Nam. Theo nhiều tài liệu thì thời kì 1989-1994 hệ số ICOR của Việt Nam vào khoảng 1, 8-2, 4 trong nông nghiệp 1, 5 đến 2, 0 trong công nghiệp 2, 5 đến 3, 0 và trong dịch vụ và kết cấu hạ tầng 3, 0 đến 4, 0 hoặc hơn nữa. Hệ số ICOR của Việt Nam được đành giá là thấp so với nhiều nước đang phát triển khác. Các chuyên gia của ngân hàng thế giới đưa ra 3 lí do giải thích cho điều trên là : n  Một là nhiều dự án đầu tư lớn từ thập kỉ trước đến giai đoạn phát huy hết công suất. n  Hai là do tác động của cơ chế mới làm cho các tiềm năng được phát huy tốt hơn mà không cần thêm vốn. n  Ba là các ngành sản xuất cần nhiều lao động mà không cần nhiều vốn đã có bước phát triển khá trong những năm qua. 2.1.4. Thực trạng về vai trò quản lý của nhà nước về thương mại và thuế quan Trong thời kì trước đổi mới chính sách thương mại và thuế quan bị chi phối bởi nguyên tắc Nhà nước độc quyền về ngoại thương, mọi hoạt động xuất nhập khẩu đều do các tổng công ty của Bộ ngoại thương thực hiện trên cơ sở kế hoạch đã được cấp trên duyệt, các đơn vị sản xuất có nghĩa vụ thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đã được giao. Trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến nay với chính sách đổi mới hoạt động ngoại thương đã có những chuyển biến rõ rệt. Trong giai đoạn 86-90 kinh tế đối ngoại được coi là là một  ‘mũi nhọn’. Đặc điểm của thời kì này là nới lỏng cơ chế quản lí ngoại thương và bắt đầu một chính sách mở cưả. Luật đầu tư nước ngoài được quốc hội thông qua 12-1987 là văn bản pháp lí đầu tiên đánh dấu sự chuyển hướng thực sự sang chính sách ‘mở cửa’. Nghị định 64/HĐBT ngày 16 tháng 6-1989 của Hội đồng bộ trưởng về chế độ tổ chức quản lí kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu là cơ sở của chính sách thương mại thời kì này. Tuy nhiên nhìn chung các chính sách về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi quan điểm Nhà nước độc quyền ngoại thương. Đại hội đảng lần VII đã khẳng định quan điểm :VIệT NAM muồn làm bạn với tất cả các nước. VIệT NAM thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Trên tinh thần đó nghị định 114/HĐBT 7-4-92 về quản lí của nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu đã đánh dấu một bước tiến mới trong chính sách ngoại thương của VIệT NAM   Luật thuế xuất nhập khẩu được ban hành 1-3-92 sau đó được sửa đổi có hiệu lực 1-9-93 đã tạo cơ sở vững chắc cho việc xử lí thuế trong giao dịch thương mại quốc tế. Theo quy định của các văn bản này, trừ các loại hàng cấm mọi hàng hoá được xuất nhập khẩu mà không phải chịu sự hạn chế nào. Trong xuất khẩu những mặt hàng cấm xuất khẩu bao gồm :vũ khí, đồ cổ các loại ma tuý, gỗ tròn, động vật hoang dã và động thực vật quý hiếm. Cho đến 1994 Chính phủ còn áp dụng hạn nghạch đối với 3 mặt hàng nhưng đến 1995 chỉ còn lại một mặt hàng là gạo. Bên cạnh hạn nghạch xuất khẩu, VIệT NAM còn áp dụng chế độ cấp giấy phép xuất nhập khẩu, thậm chí cho từng chuyến hàng. Chế độ này đã gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Từ ngày 1-7-1994 Chính phủ chính thức bãi bỏ giấy phép cấp cho từng chuyến hàng, cho phép các công ty sản xuất các mặt hàng xuất khẩu được xuất khẩu và nhập khẩu nguyên liệu cần thiết theo chế độ thuế xuất nhập khẩu hiện hành mà không cần có giấy phép. Có thể nói đây là một bước tiến bộ căn bản vừa có tác dụng khuyến khích xuất khẩu đồng thời cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong nhập khẩu, Việt Nam cũng quy định như trong xuất khẩu nhưng với diện rộng hơn nhằm bảo đảm trật tự an toàn xã hội bảo vệ thuần phong mĩ tục và bảo vệ một số ngành công nghiệp trong nước. Đến 1995 theo quyết định 96TM/XNK chỉ còn 8 mặt hàng cấm nhập  : vũ khí, ma tuý, văn hoá phẩm đồ trụy, hoá chất độc, pháo nổ, thuốc lá điếu, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng, ôtô có tay lái nghịch. Trong nhập khẩu, Nhà nước cũng áp dụng chế độ cấp giấy phép nhập khẩu theo chuyến. Trong năm 93 đã cải cách áp dụng giấy phép nhập khẩu theo chuyến có giá trị trong vòng 6 tháng. Từ năm 95 các doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng chỉ cần nộp kế hoạch nhập khẩu cho bộ thương mại 2 lần trong năm đó là tháng 5 và 10. Sau khi kế hoạch được duyệt thì có thể tiến hành nhập khẩu. Diện mặt hàng nhập khẩu quản lí bằng hạn nghạch cũng giảm dần. Năm 94 có tới 15 mặt hàng thì sang năm 95 chỉ còn 7 mặt hàng ăng dầu thép xi măng phân bón. Đó được coi là các mặt hàng nhạy cảm đối với thị trường Việt Nam do đó chính phủ không những  quy định hạn nghạch mà còn phải đạt được những tiêu chuẩn nhất định để giao hạn nghạch. *Chính sách thuế quan. Luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam được ban hành năm 1987 và đã qua nhiều lần sửa đổi. Biểu thuế suất của Việt Nam biến thiên từ 0-200% với 28 mức thuế suất khác nhau. Thuế suất được xác định theo thông lệ :thuế suất thấp đối với thiết bị cơ bản, tư liệu sản xuất, tăng dần với hàng tiêu dùng và cao nhất đối với hàng xa xỉ và thường có mức chênh lệch rất lớn giữa các mức thuế suất. Thuế nhập khẩu còn bao gồm cả thuế doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt nên thuế suất rất cao. Biểu thuế suất trên đã được sửa đổi vào tháng 5-92 và tháng 1-93 nhưng vẫn còn 28 mức thuế dao động từ 0-200% như trước. Vào tháng 1-94 chính phủ bãi bỏ thuế đánh vào xăng dầu và phân bón nhưng lại thay vào đó một khoản phụ thu đối với một số mặt hàng có tỉ suất lợi nhuận cao. Các khoản phụ thu này tuy có tạo được nguồn cho quỹ bình ổn giá nhưng lại gây phức tạp và không phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính phủ thực hiện chế độ miễn thuế nhập khẩu với thiết bị máy móc phụ tùng, phương tiện sản xuất kinh doanh, vật tư để đầu tư xây dựng cơ bản hình thành xí nghiệp hoặc để tạo thành tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh(nghị định 191/CP ngày 28/12/1994). Tóm lại chính sách thưong mại và thuế quan của Việt Nam trong những năm vừa qua phản ánh xu hướng mở cửa của nền kinh tế theo hường từng bước tự do hoá thương mại phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này được thể hiện ở những khía cạnh đổi mới và đơn giản hoá việc cấp giấy phép và hạn nghạch xuất nhập khẩu. Chính phủ từng bước thực hiện tự do hoá thương mại bằng cách dỡ bỏ dần hàng rào phi thuế quan. Hầu hết các hạn nghạch đã được bãi bỏ và thay vào đó là hệ thống thuế xuất nhập khẩu. Nhà nước tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước tiếp cận với thị trường ngoài nước ;hỗ trợ xây dựng các cơ sở chế biến hàng xuất khẩu. * Kết quả và tồn tại. Trong quá trình đổi mới chính sách thương mại và thuế quan Việt Nam đã thu được một số thành tựu quan trọng trong những năm qua trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại - Tổng giá trịkim ngạch xuất khẩu tăng lên 3 lần trong đó xuất khẩu tăng hơn 5 lần, tốc độ tăng trung bình của xuất khẩu 90-94 là trên 20% và nhờ đó từ chỗ xuất khẩu : nhập khẩu =1:2, 8 thời kì 81-85 đã tiến tới chỗ xuất khẩu trang trải 80% nhu cầu nhập khẩu (94) so với 24, 6% năm 86. Giá trị xuất nhập khẩu 1986-1994(triệu USD) Năm Tổng giá trị xuất nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu 1986 2507, 1 677, 8 1839, 3 1987 2856, 4 723, 9 2132, 5 1988 3373, 0 833, 5 2539, 5 1989 3908, 3 1524, 6 2383, 7 1990 4289, 0 1845, 0 2474, 0 1991 4980, 4 2081, 7 2187, 7 1992 4980, 0 2475, 0 2505, 0 1993 6909, 0 2985, 0 3, 924, 0 1994 8100, 0 3600, 0 4500. 0 Nguồn Bộ thương mại, Tạp chí Thương mại 6-1995. -  Ta thấy giá trị xuất khẩu tăng lên một cách đáng mừng nhưng xét về giá trị xuất khẩu theo đầu người và cơ cấu xuất khẩu thì VIệT NAM phải có nỗ lực to lớn mới có thể đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá trong những năm tiếp theo. Về kim nghạch xuất khẩu theo đầu người năm94 mới đạt được mức 50USD chưa bằng 1/3 mức của một nước có nền ngoại thương tương đối phát triển nghĩa là Việt Nam phải có những nỗ lực rất lớn mới có thể đạt được mức của các nước có nền ngoại thương tương đối phát triển trong khu vực. Hoạt động xuất nhập khẩu 91-95 tương đối sôi động và có chiều hường đi vào nề nếp tốt. Có được kết quả này một phần quan trọng nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của chính phủ một mặt bãi bỏ những thủ tục hành chính cản trở hoạt động thương mại, khuyến khích xuất khẩu kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu. Ngày 28-2-1994 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 78/TTg định hướng xuất nhập khẩu đây là cơ sở pháp lí điều hành xuất nhập khẩu theo hướng khuyến khích tối đa xuất khẩu kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu. Việc ban hành nghị định 33/CP ngày 19-4-94 của Chính phủ thay thế nghị định 114/HĐBT ngày 7-4-1992 của Hội đồng Bộ trưởng hạ thấp mức vốn tối thiểu tại thời điểm đăng kí kinh doanh từ 200nghìn USD xuống 100nghìn USD đối với các doanh nghiệp thuộc các tỉnh miền núi các doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có điều kiện tham gia kinh doanh. Việc bãi bỏ hàng loạt những văn bản cũ, lạc hậu thiếu tình khả thi thay vào đó là các văn bản mới phù hợp chung với xu hướng chung của thương mại quốc tế, đồng thời có tính khả thi cao hơn đã giảm được những tranh chấp không đáng có giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lí nhà nước, giữa các doanh nghiệp nhà nước với các bạn hàng… Hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là lương thực nguyên nhiên liệu, khoáng sản còn sản phẩm chế biến có tỉ lệ rất thấp. Mặt khác 80% thu nhập từ xuất khẩu là 2 mặt hàng là gạo và dầu thô. Cơ cấu xuất khẩu này là không có lợi vì giá cả thế giới trong những thập kỉ vừa qua là không có lợi cho nhóm hàng lâm sản không qua chế biến và hàng nguyên liệu. Ví dụ nếu lấy giá năm 1970 là 100% thì năm 1993 giá cao su là 63%, giá cà phê là 30% giá thiếc lá 40%. Chế độ thuế xuất nhập khẩu mặc dù còn nhiều thiếu sót nhưng đã góp phần bảo  hộ sản suất trong nước hướng dẫn tiêu dùng trong nước và là nguòn thu khá cho ngân sách nhà nước. Số thu hút về thuế xuất nhập khẩu tăng nhanh qua các năm và giữ vị trí quan trọng trong tổng số thu về thuế : 19% năm 93, 26, 4% năm 1994… 2.2  MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA  NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ NƯỚC TA THỜI GIAN TỚI. - Để thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính và khai thác tốt hơn nguồn vốn trong nước Nhà nước phải ổn định được môi trường kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát và tỉ giá. - Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về thị trường tài chính và khuyến khích đầu tư. - Thực hiện chế độ lãi suất linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, phấn đấu giảm dần lãi suất trên cơ sở tỉ lệ lạm phát giảm dần nhờ ổn định kinh tế vĩ mô ;giảm chi phí phục vụ của ngân hàng và nghien cứu sửa đổi chính sách thuế đối với ngân hàng. Nên quy định mức chênh lệch tối đa giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền cho vay. phương pháp này ó ưu điểm khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại loại trừ được sự lợi dụng vị trí độc quyền của một số ngân hàng huy động với mức lãi suất thấp cho vay với mức lãi suất cao làm thiệt hại cho cả người gửi lẫn người vay vốn. Ngoài ra sự cạnh tranh mà biện pháp này tạo ra khiến cho các ngân hàng phải nâng cao hiệu quả và giảm chi phí kinh doanh. - Tiếp tục phát triển thị trường các nguồn vốn ngắn hạn bằng cách nâng cao năng lực hoạt động của các ngân hàng thương mại mở rộng các chi nhánh ngân hàng đến các vùng nông thôn vừa khai thác nguồn vốn tiết kiệm  vừa cung cấp các khoản tín dụng cần thiết cho sự phát triển kinh tế nông thôn. - Nhà nước hỗ trợ đầu tư trong nước thông qua các dự án đầu tư quốc gia cụ thể, thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia với lãi suất ưu đãi cho các dự án trung và dài hạn trong các nghành nghề thuộc diện ưu đãi, các vùng có khó khăn. - Ngân sách nhà nước có trách nhiệm bổ sung thêm vốn tín dụng cho ngân hàng thương mại quốc doanh trong quy định để ưu tiên mức vốn cho vay đối với các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên phát triển. - Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp dịch vụ tư vấn quản lí pháp lí doanh nghiệp dạy nghề và đào tạo cán bộ kĩ thuật, cung cấp thông tin kinh tế phổ biến và chuyển giao công nghệ để hỗ trợ đầu tư trong nước. - Khẩn trương tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đẻ nhà nước thu hồi vốn đầu tư tiếp tục tái đầu tư để phát triển kinh tế. Những xí nghiệp hoạt động kinh doanh không hiệu quả thì nên giải thể, những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhưng xét thấy không cần giữ thì nên cổ phần hoá nguồn thu vẫn không giảm mà có thêm khoản tiền lớn về bán cổ phần. - Tiến tới thống nhất hoá chính sách đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài xoá bỏ sự phân biệt về thuế giá và cước dịch vụ đối với đầu tư nước ngoài. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng các chính sách thông thoáng ưu đãi hơn. Đổi mới và đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ. Trong lĩnh vực này vai trò nhà nước cần thể hiện rõ ở các mặt sau : - Xác định những tiêu chuẩn rõ ràng những giới hạn nhất định đối với công nghệ đước chuyển giao. Ngoài những tiêu chuẩn về môi trường nhà nước có các tiêu chuẩn về trình độ kĩ thuật mức độ tiến tiến của công nghệ được chuyển giao. - Nhà nước cần có những cơ chế kiểm soát nhất định và hệ thống tổ chức và lực lượng cán bộ chuyên môn thích hợp. Gắn với chúng là chế độ xử lí nghiêm khắc những vi phạm dù là vô ý hay cố ý. - Tổ chức quan hệ hợp tác quốc tế nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả phát triển công nghệ. Đa dạng hoá các hình thức hợp tác tạo điều kiện dễ dàng thuận lợi cho hợp tác hai bên cùng có lợi. Sử dụng sự giúp đỡ quốc tế để hiện đại hoá cơ sở vật chất kĩ thuật cho nghiên cứu và triển khai đào tạo cán bộ theo hướng khoa học và công nghệ mới. - Tổ chức mạng lưới thông tin công nghệ và hỗ trợ hoạt động tư vấn chuyển giao công nghệ, xây dựng hệ thống thông tin hiện đại về khoa họcvà công nghệ. - Tổ chức công tác đào tạo nhằm  tăng năng lực, trình độ kĩ thuật của lực lượng lao động. - Phát triển các tổ hợp nghiên cứu – đào tạo – sản xuất. Nghiên cứu xây dựng các trung tâm khoa học và công nghệ cao ở các thành phố lớn, và các vùng lãnh thổ quan trọng. - Tiếp tục hoàn thiện cơ chế và chính sách quản lí kinh tế để thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ thông qua viẹc mở rộng sản xuất hàng hoá khuyến khích cạnh tranh, kích thích đổi mới công nghệ đổi mới sản phẩm tạo nhu cầu đối với khoa học công nghệ. Việt Nam là nước đi sau do đó có lợi thế rất lớn đó là có thể đi tắt đón đầu vì vậy cần có sự tập trung cho việc tiết thu và vận dụng sàng tạo các thành tựu khoa học kĩ thuật của thế giới ứng dụng làm chủ và mở rộng các công nghệ tiến bộ đi đôi với quản lí chặt chẽ công nghệ nhập lường trước và ngăn chặn các hậu quả tiêu cực lâu dài. Việt Nam phải tìm cách để tiếp cận với thị trường công nghệ thế giới. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia là người chủ thật sự của công nghệ hiện đại. Các công ty này giữ một vai trò rất lớn trong chuyển giao công nghệ sang các nước đang phát triển. Do vậy Việt Nam cần tiếp cận với các công ty này để tìm kiếm thị trường vốn công nghệ các kinh nghiệm quản lí và bí quyết kĩ thuật. Vì xuất phát điểm công nghệ Việt Nam quá thấp sức ép dân số và lao động cao do đó cần cân nhắc mức độ thích hợp của công nghệ được chuyển giao tương quan với các yếu tố khác như vốn thị trường quản lí và tổ chức sản xuất. Nhà nước dành một phần một tỉ lệ cao hơn trong ngân sách nhà nước đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ. Thông qua hệ thống ngân hàng nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn để đổi mơí công nghệ như cho vay với lãi suất thấp, chỉ với điều kiện là phương án khả thi chứ không cần thế chấp, cho vay để thanh toán nợ trước khi đổi mới công nghệ, vay ngoại tệ trả nhiều lần… Phát huy nhân tố con người trong chuyển giao công nghệ để có thể tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới, cải tiến công nghệ nhập cho phù hợp với diều kiện Việt Nam tiến tới từng bước sáng tạo công nghệ mới. Trong hoạt động chuyển giao công nghệ nhà nước phải có quy định và chính sách  ngay từ khi nhập khẩu công nghệ. Thực tế ở Việt Nam hiện nay lực lượng cán bộ quản lí công nghệ chủ yếu được đào tạo tại các nước xã hội chủ nghĩa và việc đào tạo lại còn hạn chế. Để khắc phục cần sử dụng tối đa đội ngũ hiện có và thông qua hợp tác để các chuyên gia của Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp xúc, tìm hiểu nân cao trình độ kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp. Nhà nước tạo những điều kiện làm việc cần thiết cho các nhà khoa học như cung cấp thông tin, trang bị phương tiện thí nghiệm. Khuyến khích và trân trọng những tìm tòi khoa học, khơi dậy những nhiệt tình sáng tạo của người nghiên cứu. Phát hiện bồi dưỡng trọng dụng tài năng, mạnh dạn sử dụng các chuyên gia trẻ tài năng được đào tạo có hệ thống thực hiện chế độ trả lương đặc biệt cho họ. Tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Để đảm bảo các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực như đã nêu trên thì nhà nước cần tăng ngân sách cho hoạt động giáo dục và sử dụng nguồn ngân sách đó hiệu quả. Nếu trong nước không đáp ứng đủ thì phải huy động từ nước ngoài như các tổ chức ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu A tranh thủ sự hỗ trợ của UNICEF đồng thới sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả. Để đáp ứng đa dạng nhu cầu của người học thì phải mở rộng quy mô và hình thức giáo dục. Hệ thống giáo dục cần được mở rộng hơn nữa, tạo ra một môi trường giáo dục mở cửa, sự mở rộng đó dẫn đến các điều kiện để cạnh tranh nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ừng đa dạng yêu cầu của người học. Đó còn là hướng để giảm nhẹ ngân sách giáo dục. Nhà nước cần chăm lo đến đời sống đội ngũ giáo viên cải tiến chế độ tiền lương phụ cấp cho giáo viên để cho giáo viên có thể nâng cao vị trí xã hội của mình. Chính sách phát triển nguồn nhân lực chỉ có thể thành công khi chính sách đó đạt được những lựa chọn ưu tiên đúng đắn. Chỉ có lao động đông và rẻ không thể tiến hành công nghiệp mà phải có lao động ở một trình độ nhất định. Thành công của các nền kinh tế Đông A đặc biệt là Nhật bản và Hàn quốc đã chứng minh cho điều đó. Sự phát triển nguồn nhân lực cho phép họ vận hành được nền kinh tế hiện đại sản xuất các sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao trên thị trường các nước công nghiệp phát triển. Đầu tư cho giáo dục rất tốn kém mà hiệu quả của nó không thể thấy ngay được. Cho nên phải tránh tư tưởng vội vàng làm cho giáo dục chỉ tập trung phát tiển vào loại trình độ cao giáo dục đào tạo thoát li khỏi đời sống thực tại gây nên tình trạng một số người qua đào tạo không có việc làm. Từ trình độ giáo dục phổ cập trên mặt bằng xã hội đến giáo dục bậc cao có quan hệ chặt chẽ với nhau và chúng làm nền cho nhau. Việt Nam là nước thu nhập đầu người thấp đông dân tỉ lệ tăng dân số còn cao, áp lực về số học sinh trong độ tuổi đi học là rất gay gắt đang làm cho ngân sách giáo dục trở thành gánh nặng của xã hội. Do đó phải lựa chọn mức độ ưu tiên cho các cấp học, Việt Nam cần ưu tiên phát triển ở cấp tiểu học cả quy mô và chất lượng. Chất lượng giáo dục cấp tiểu học là tiền đề cho các cấp học sau. Mức cầu về lao dộng có tay nghề và có trình độ chuyên môn cao sẽ tăng lên do chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá. Sức ép về đào tạo nghề và đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao của các khu vực kinh tế rất lớn. Giáo dục đào tạo phải đáp ứng nhanh chóng đòi hỏi của thị trường. Luật lao động được quốc hội thông qua tháng 6-94 khuyến khích các cá nhân tổ chức mở rộng sản xuất tạo việc làm để thu hút lao động. Trong luật có các điều khoản cụ thể về kí kết hợp đồng lao động tuyển dụng lao động và chế độ tiền lương. Các quy định đó cho phép doanh nghiệp sử dụng lao động linh hoạt hơn tạo nên sự chuyển dịch lao động từ khu vực kinh tế này sang khu vực kinh tế khác một cách hợp lí hơn. Trên cơ sở đó giáo dục có những điều kiện thuận lợi để phát triển. chính điều đó giảm đi sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng. Phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt trong chính sách phát triển của mỗi quốc gia và đang có sự đua tranh giữa nước này và nước khác. Để tiến hành công nghiệp hoá thành công phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức quan trọng ở Việt Nam. Giáo dục và đào tạo không chỉ cung cấp cho đất nước một đội ngũ lành nghề có chuyên môn cao mà còn là cơ chế để chọn lọc người tài quản lí đất nước. Muốn phát triển nhanh nguồn nhân lực giáo dục đào tạo phải trở thành sự nghiệp của toàn dân đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Hoàn thiện chính sách thương mại và thuế quan. - Tiếp tục chính sách thương mại theo hướng phi tập trung, tự do hoá từng bước hoạt động buôn bán quốc tế. Từng bước xoá bỏ chế độ cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, cho phép tất cả các đơn vị có đăng kí kinh doanh được quyền tham gia hoạt động ngoại thương mà không cần phải xin xét duyệt và cấp phép xoá bỏ điều kiện tối thiểu về vốn và doanh số đối với các công ty thương mại muốn kinh doanh xuất nhập khẩu và không hạn chế mặt hàng kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Xoá bỏ chế độ cấp phép cho hàng xuất nhập khẩu, thu hẹp diện mặt hàng xuất nhập khẩu theo hạn nghạch. - Sử dụng hệ thống thuế quan như là công cụ điều tiết quan trọng đối với hoạt đọng thương mại. Chính sách thuế cần được đổi mới theo hướng giảm đều thuế suất thuế nhập khẩu bảo hộ có mức độ các mặt hàng trong nước. Đối với thuế nhập khẩu theo thông lệ quốc tế giảm thuế suất thuế nhập khẩu xuống duới mức 60% thu hẹp diện chịu thuế suất 0% chỉ áp dụng cho thiết bị toàn bộ, nguyên vật liệu chủ yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. - Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất nhập khẩu, khuyến khích nhập khẩu theo hướng đổi mới hiện đại hoá thiết bị và công nghệ phục vụ công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước bằng cách chuyển nhanh sang nhập khẩu thiết bị kĩ thuật hiện đại từ các nước phát triển. Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỉ trọng sản phẩm thô và sơ chế tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu và tinh. Gắn sản xuất với xuất khẩu theo phương châm ‘xuất khẩu những gì thị trường cần chứ không phải xuất khẩu những cái ta sẵn có ‘. Để khuyến khích xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu tiếp tục hoàn thiện chính sách tỉ giá hối đoái theo hướng vừa khuyến khích xuất khẩu vừa điều khiển được nhập khẩu. - Đa phương hoá thương mại, mở rộng thị trường đặc biệt thị trường các nước phát triển như Tây Âu, Mĩ, Nhật, đồng thời củng cố các thị trường truyền thống. Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao hiệu quả làm việc của công chức. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ. Hệ thống pháp luật cần bổ sung và hoàn thiện trên các lĩnh vực sau : - Trong việc sử dụng cho thuê đất, thị trường bất động sản vốn chứng khoán chế độ kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính công khai bắt buộc. - Bổ sung điều chỉnh luật thuế tránh chồng chéo mở rộng diện thu thuế nhưng giảm mức thu nhằm khuyến khích tính tự giác của những người sản xuất kinh doanh. -  Khuyến khích đầu tư trong nước nhất là khu vực sản xuất nhỏ rộng lớn sửa đổi bổ sung luật công ty và luật doanh nghiệp. - Xây dựng bộ luật thương mại, luật hành chính, các hiệp định song phương đa phương bảo vệ lợi ích của đất nước và doanh nhân Việt Nam trong quan hệ hợp tác quốc tế. - Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân nhất là với những người giữ vị trí chủ chốt trong mỗi tổ chức cơ quan đối với việc thực hiện pháp luật trong cơ quan tổ chức của mình. KẾT LUẬN Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn gặp nhiều khó khăn yếu kém, nước ta vẫn còn chưa thoát khỏi là một nước nghèo. Để vượt qua chúng ta còn gặp không ít khó khăn thử thách lớn trong đó nguy cơ tụt hậu là thử thách to lớn gay gắt. Đồng thời chúng ta cũng đang đứng trước những cơ hội mới để phát triển. Vấn đề đặt ra là phải chủ động nắm được thời cơ nhằm vươn lên phát triển nhanh vững chắc và đúng hướng. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa vai trò quản lí của Nhà nước trong quản lí vĩ mô như cải cách chính sách tài chính, chuyển giao công nghệ, thương mại thuế quan để phát huy các tiềm năng trong nước cũng như thu hút được vốn và công nghệ tiên tiến của nước ngoài đồng thời phát triển nguồn nhân lực phát huy nhân tố con người tiếp nhận được tri thức, thành tựu khoa học hiện đại của thế giới để có thể cải tiến công nghệ và từng bước tiến tới sáng tạo công nghệ mới trong nhằm đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đạt được yêu cầu tăng trưởng nhanh, ổn định, vững chắc.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận triết học.doc
Tài liệu liên quan