- Xây dựng các quy định về quyền và
nghĩa vụ của cán bộ, công nhân làm việc
trong các doanh nghiệp FDI. Có chế tài cụ
thể ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật
của các chủ doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho người lao động, đặc biệt là
phải phát huy tối đa vai trò của công đoàn
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ
thẩm định dự án FDI, đào tạo một cách cơ
bản và có hệ thống về trình độ chuyên môn,
có kiến thức, có kinh nghiệm thực tế và đủ
tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp về thẩm
định giá.
- Khắc phục tình trạng báo cáo lỗ
(đang xét về mặt lỗ giả) không đúng với thực
chất hoạt động trong các doanh nghiệp FDI
bằng cách xây dựng khung pháp lý cho các
cơ quan thuế có thẩm quyền xử lý các thông
tin liên quan đến các công tư liên kết với các
doanh nghiệp FDI; xây dựng và áp dụng các
biện pháp chống chuyển giá có hiệu quả
- Cải thiện khâu thực thi pháp luật:
tăng cường năng lực bộ máy thực thi của các
địa phương. Cải cách thủ tục và bộ máy hành
chính theo hướng lấy người dân, doanh
nghiệp làm đối tượng phục vụ. Gắn trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan với việc
thực thi không đúng quy định của pháp luật.
Thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra
việc thực thi pháp luật của các cơ quan quản
lý địa phương để có biện pháp nhắc nhở,
chấn chỉnh kịp thời.
Việc thu hút FDI vào Việt Nam đang
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên
điều gì cũng có hai mặt, vốn FDI mang đến
cho chúng ta những lợi ích thiết thực, thì
cũng có những mặt trái tồn tại. Với những
mặt bất lợi của FDI, nếu có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù
hợp, Việt Nam có thể hạn chế, giảm thiểu
những tác động tiêu cực này và xử lý hài
hòa mối quan hệ của nhà đầu tư nước
ngoài với lợi ích quốc gia để tạo nên lợi ích
tổng thể tích cực.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính hai mặt của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43
THỐNG KÊ VÀ CUỘC SỐNG
TÍNH HAI MẶT CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI) Ở VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Thị Mai Hương*
Tóm tắt:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được nhìn nhận như là một trọng những “trụ cột”
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Vai trò của FDI được thể hiện rất rõ qua việc đóng góp vào
các yếu tố quan trọng của tăng trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu,
chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, Ngoài ra, FDI cũng đóng
góp tích cực vào tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và được biết đến là quốc gia phát triển năng
động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, FDI không chỉ có
tác động tích cực, mà nó còn có tác động ngược chiều (hạn chế) đối với nền kinh tế nước ta,
do đó nếu thiếu sự quản lý của nhà nước, hoặc nhà nước quản lý kém hiệu quả thì những hạn
chế sẽ bùng phát. Bài viết làm rõ tác động hai mặt của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội
ở Việt Nam, từ đó tìm ra giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những hạn chế mà FDI mang lại.
1. Diễn biến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam
Hình 1: Số dự án và số vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn (2000 - 2017)
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, 2018
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
80000
Tổng VĐK
toàn ngành (Triệu USD)
Tổng vốn thực
hiện toàn ngành (Triệu USD)
Tổng số
dự án FDI
* Trường Đại học Lâm nghiệp
44
Khu vực FDI tăng trưởng ổn định ở hầu
hết các lĩnh vực. Tổng số dự án FDI lũy kế
đang hoạt động trên phạm vi toàn quốc thời
điểm 20/12/2017 là 24.748 dự án, gấp 9 lần
năm 2000, bình quân giai đoạn 2000 - 2017
mỗi năm tăng xấp xỉ 11,8%. Trong đó dự án
100% vốn nước ngoài là 20.544 (chiếm 83%
toàn bộ dự án FDI) gấp 8,8 lần năm 2000,
bình quân giai đoạn 2000 - 2017 mỗi năm
tăng 6,7%. Số dự án FDI đang hoạt động
thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng hiện
chiếm tỷ lệ cao nhất với 66,4% (riêng ngành
công nghiệp chiếm 58,45%). Tiếp đến là khu
vực dịch vụ với 31,5%. Trong khi số dự án
FDI hoạt động trong khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản chỉ có 518 dự án, chiếm
2,1% tổng số dự án.
2. Đóng góp chính của FDI đối với
sự phát triển kinh tế xã hội của Việt
Nam
- Bổ sung nguồn vốn đầu tư xã hội
Xem xét vốn đầu tư toàn xã hội theo
thành phần kinh tế cho thấy có sự dịch
chuyển vốn từ khu vực kinh tế nhà nước
sang các khu vực khác. Cụ thể, tỷ trọng vốn
đầu tư từ khu vực kinh tế nhà nước đã giảm
dần từ 59,1% năm 2000 xuống còn 32,1%
năm 2017. Tỷ trọng đầu tư từ khu vực ngoài
nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài tương đối ổn định và có xu hướng tăng
lên. Năm 2000 khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (FDI) chiếm 18% tổng vốn đầu tư toàn
xã hội thì năm 2017 là 25,6%. Do đó, khu
vực này là khu vực có tiềm lực về vốn, kéo
theo đó là năng lực về công nghệ.
Hình 2: Cơ cấu vốn đầu tư xã hội của Việt Nam giai đoạn (2000 - 2017)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
- Nâng cao năng lực xuất khẩu
Xuất khẩu của khu vực FDI luôn chiếm tỷ
trọng trên 50% tổng giá trị xuất khẩu cả
nước, đó là một bằng chứng cho thấy năng
lực cạnh tranh cao hơn của khu vực này so
với khu vực trong nước. Nhiều mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam được biết đến nhờ khu
vực FDI như linh kiện điện tử, điện dân dụng,
59,1 59,8 57,3
52,9
48,1 47,1 45,7
37,2 33,9
40,5 38,1 37 40,3 40,4 39,9 38 37,6
32,1
22,9 22,6 25,3 31,1 37,7 38 38,1
38,5
35,2
33,9 36,1 38,5
38,1 37,7 38,4 38,7 39
42,3
18 17,6 17,4 16 14,2 14,9 16,2
24,3
30,9
25,6 25,8 24,5
21,6 21,9 21,7 23,3 23,4 25,6
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
45
điện thoại di động, máy tính văn phòng,
Kết quả xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp
FDI khá ấn tượng trong giai đoạn (2000 -
2017), đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập
WTO và phần lớn sản phẩm tạo ra được
dành cho xuất khẩu.
Hình 3: Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn (2000 - 2017)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
- Tạo việc làm cho người lao động
Trong thời gian qua, FDI đã tạo ra nhiều
cơ hội việc làm cho lao động Việt Nam. Cụ thể
số lao động làm việc trong các doanh nghiệp
FDI tăng lên qua các năm. Tính đến năm
2017, khu vực FDI đã tạo ra hơn 2 triệu việc
làm trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp
trong khu vực dịch vụ và các ngành phụ trợ.
Hình 4: Số lượng và tỷ lệ lao động khu vực FDI so với tổng số lao động cả nước
Nguồn: Tổng cục Thống kê
47 45,2 47,1 50,4
54,7 57,2 57,9 57,2 55,1 53,2 54,2 56,9
64 66,9 67,4
70,6 71,5 73,8
53 54,8 52,9 49,6
45,3 42,8 42,1 42,8 44,9 46,8 45,8 43,1
36 33,1 32,6
29,4 28,5 26,2
Khu vực FDI Khu vực trong nước
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
0
0,5
1
1,5
2
2,5
3
3,5
4
4,5
5
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Số lao động (nghìn người) Tỷ lệ %/ tổng lao động cả nước
46
- Góp phần đổi mới công nghệ và nâng
cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế
FDI đã góp phần thúc đẩy chuyển giao
công nghệ, từng bước nâng cao trình độ công
nghệ sản xuất trong nước, một số ngành đã
tiếp thu được công nghệ tiên tiến của thế giới
như: bưu chính - viễn thông, dầu khí, xây
dựng, cầu đường, khách sạn, văn phòng cho
thuê... Nhiều doanh nghiệp trong nước đã
đổi mới hoặc nâng cấp trang thiết bị đáp ứng
yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao của nền
kinh tế. Do đó, Việt Nam đã sản xuất được
nhiều sản phẩm mới mà trước đây chưa có;
hạn chế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa thuộc
các lĩnh vực như dầu khí, vật liệu xây dựng,
điện tử gia dụng, phương tiện giao thông...
Các doanh nghiệp FDI đã tạo ra được
nhiều sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã
đẹp, kiểu dáng hợp thời trang, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của thị trường trong nước và gia
tăng nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu như
máy tính, điện thoại thông minh, điện tử gia
dụng, cơ khí chế tạo.
Trong Bảng xếp hạng về năng lực cạnh
tranh công nghiệp của UNIDO năm 2017,
Việt Nam đứng thứ 50 trên tổng số 141 nước
được xếp hạng, tăng 44 bậc so năm 1990.
Tuy vậy, trong ASEAN, Việt Nam chỉ đứng
trên Philippines (hạng 53) và Campuchia
(hạng 90).
- Nâng cao trình độ quản lý và điều
hành doanh nghiệp
Khu vực FDI đã góp phần tích cực vào
việc nâng cao trình độ cho người lao động
Việt Nam, kể cả đội ngũ lao động quản lý.
Tác động này được phát huy thông qua
nhiều kênh khác nhau: đào tạo, bồi dưỡng,
truyền bá kinh nghiệm.
Trong các doanh nghiệp FDI, các giám
đốc thường là những nhà quản lý của các
công ty nổi tiếng, làm ăn phát đạt từ nhiều
nước khác nhau trên thế giới, do đó họ có rất
nhiều kinh nghiệm về việc quản lý, điều hành
doanh nghiệp. Nhờ có vậy, những cán bộ lao
động của Việt Nam hoạt động trong các
doanh nghiệp FDI, chủ yếu là doanh nghiệp
liên doanh, có điều kiện học hỏi phương
pháp quản lý, phong cách điều hành của các
nhà quản lý nước ngoài để từng bước tích lũy
kinh nghiệm, kiến thức, nâng cao trình độ
cho mình. Nhiều người trong số họ đã tích
lũy kinh nghiệm, phát huy được năng lực
vươn lên đảm đương công việc khá tốt, dành
được sự tin tưởng và kính trọng của các đối
tác nước ngoài như những doanh nghiệp
Vinadaesung, Toyota Việt Nam, khiến các
đối tác nước ngoài đã tin tưởng giao phó mọi
công việc điều hành sản xuất, kinh doanh
cho các nhân viên Việt Nam.
3. Một số hạn chế của FDI ở Việt
Nam hiện nay
- Cơ cấu đầu tư bất hợp lý
Mục đích cơ bản trong kêu gọi nguồn
vốn FDI của Việt Nam là vốn, công nghệ
nhằm tạo cho nền kinh tế phát triển được
cân đối và hiện đại. Còn đối với nhà đầu tư
nước ngoài là lợi nhuận, nên việc họ đưa vốn
vào những nơi mà ta cần là rất ít, vì đó là
những lĩnh vực ít mang lại khả năng sinh lợi
nhưng lại chứa đựng nhiều rủi ro. Kết quả là
dòng vốn FDI đã gây mất cân đối cho nền
kinh tế. Sự mất cân đối này được thể hiện
trên 3 góc độ: Sự mất cân đối trong FDI vào
ba ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp
và dịch vụ; sự mất cân đối trong việc đầu tư
vào nội bộ mỗi ngành; sự mất hợp lý trong
cơ cấu đầu tư vùng.
47
- Việc góp vốn bằng công nghệ của các
nhà đầu tư nước ngoài đã gây nên tình trạng
thừa công nghệ lạc hậu, nhưng lại thiếu công
nghệ hiện đại
Đối với nước chủ nhà, một trong
những mục tiêu quan trọng nhất của thu hút
FDI là tiếp thu công nghệ hiện đại, nhằm sản
xuất ra hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao,
đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và
quốc tế. Nhưng trong thực tế, một số nhà
đầu tư đã lợi dụng chính sách này của các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam
để xuất khẩu công nghệ lạc hậu, hiện không
thể sử dụng được ở nước họ bằng cách bán
dây chuyền sản xuất hoặc góp vốn bằng
công nghệ để thu lợi nhuận.
Trên thực tế cho thấy, mức độ hiện đại
và cập nhật các công nghệ được chuyển giao
vào Việt Nam rất thấp. Nhiều máy móc, công
nghệ được nhập vào Việt Nam không phải là
công nghệ mới, mà đều đã cũ, thậm chí hết
khấu hao và lao động Việt Nam chỉ phụ trách
công đoạn đơn giản. Hiện tại, chỉ có 5% FDI
chuyển giao công nghệ cao, 15% là loại công
nghệ kém, lạc hậu, yêu cầu lao động phổ
thông. Điều này cũng đồng nghĩa, giá trị gia
tăng thu được từ chuyển giao công nghệ của
FDI chỉ tạo ra được khoảng 20%. Giá trị nội
địa cũng rất khiêm tốn ở mức 10%.
Hình 5: Tỷ lệ chuyển giao công nghệ của dự án FDI
Nguồn:
Mặt khác, đối tác đầu tư chính của Việt
Nam là các nước Châu Á. Do vậy, việc
chuyển giao công nghệ nguồn, công nghệ
tiên tiến và hiện đại ở Việt Nam hầu như rất
ít. Một số nước như Đài Loan, Hàn Quốc chủ
yếu đầu tư vào công nghiệp nhẹ hoặc lĩnh
vực khách sạn, văn phòng cho thuê nên việc
chuyển giao công nghệ sản xuất vào Việt
Nam còn hạn chế. Ngay cả Nhật Bản, một
nước có trình độ khoa học công nghệ cao
nhưng các dự án FDI của các nước này chỉ
chuyển giao những công nghệ còn thấp
10%
5%
15%
70%
Giá trị nội địa
Công nghệ cao
Công nghệ trung bình
Công nghệ kém, lạc hậu
48
hoặc thấp hơn so với các nước Đông Nam Á
(Singapore, Malaysia, Thái Lan). Các đối tác
Hoa Kỳ, EU có trình độ công nghệ tiên tiến,
hiện đại và công nghệ nguồn nhưng tỷ trọng
các dự án đầu tư vào Việt Nam rất ít, do vậy
đã hạn chế việc chuyển giao công nghệ cho
đối tác Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông
qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý
nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y.
Tuy vậy, đây là một hoạt động cực kỳ khó
khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói
chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh
giá chính xác giá trị thực của từng loại công
nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt
trong những ngành công nghệ cao. Do vậy,
thường phải thông qua thương lượng theo
hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp
nhận được thì mới ký kết hợp đồng chuyển
giao công nghệ.
- Tác động xấu đến môi trường
Cùng với những lợi ích do FDI mang
lại, Việt Nam đang đối mặt với những thách
thức, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là nạn
ô nhiễm môi trường. Các nước phát triển
thường đánh thuế cao đối với các ngành gây
ô nhiễm, trong khi đó các nước đang phát
triển lại có mức thuế thấp hơn nhiều, thậm
chí chưa đánh thuế do khát vốn. Các nước
này trở thành những nước “nhập khẩu” ô
nhiễm và Việt Nam cũng là một trong số đó.
Một trong những nguyên nhân nữa gây
ô nhiễm môi trường tại Việt Nam là do
chuyển giao công nghệ lạc hậu, trong đó
nhiều máy móc, thiết bị quá cũ hoặc đã hết
khấu hao. Việc chuyển giao những công nghệ
lạc hậu đã biến Việt Nam trở thành một “bãi
thải công nghệ, máy móc thiết bị cũ và lạc
hậu” do các nhà đầu tư nước ngoài mang
vào. Những thiết bị lạc hậu khi được sử dụng
đã không tạo được năng suất lao động cao,
lại còn gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường
nước, không khí, tiếng ồn và đất. Có đến
86% các doanh nghiệp được hỏi đều cho
rằng bảo vệ môi trường là nghĩa vụ bắt buộc
và phải tuân thủ. Tuy nhiên, trên thực tế, rất
nhiều doanh nghiệp lại không tự giác tuân
thủ quy định về bảo vệ môi trường, chỉ vận
hành hệ thống xử lý chất thải khi cơ quan
chức năng quản lý môi trường phát hiện và
xử lý. Số doanh nghiệp có hệ thống sơ bộ xử
lý nước thải trong nhà máy chiếm 70%, số
còn lại không có hệ thống xử lý và hệ thống
đầu nối chung của khu công nghiệp. Có 80%
khu công nghiệp vi phạm các quy định về
môi trường, 70% Doanh nghiệp FDI xả thải
vượt quy chuẩn, 23% trong số đó xả thải
vượt quy chuẩn cho phép 5 -12 lần.
Ngoài ra, chính sách về kiểm soát môi
trường trong giai đoạn đầu của hoạt động
FDI ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, thiếu cơ
chế phối hợp giữa các ngành, các cấp đã tạo
cơ hội cho các nhà đầu tư giảm được rất
nhiều chi phí xây dựng các nhà máy sản xuất
tại Việt Nam không cần xây dựng bộ phận xử
lý chất thải hoặc có chỉ là biện pháp đối phó.
Thời gian qua, hàng loạt các doanh nghiệp
FDI hủy hoại môi trường bị phát hiện với quy
mô lớn và thiệt hại về kinh tế xã hội khó
lường như Công ty Vedan xả nước thải chưa
qua xử lý ra sông Thị Vải (2008); Liên doanh
Huyndai – Vinashin sử dụng hạt nix- công
nghệ lạc hậu đã bị cấm ở nhiều nước – trong
công nghệ đóng tàu trong nhiều năm (2007).
Gần đây nhất là vụ Formosa xả chất độc gây
cá chết hàng loạt ở khu vực ven biển miền
49
Trung (2016). Những minh chứng này phần
nào minh họa cho một thực tế là Việt Nam
đang tồn tại những dự án FDI hủy hoại môi
trường một cách có chủ ý. Bên cạnh đó, nó
phản ánh sự yếu kém trong quản lý cũng
như cơ sở pháp lý lỏng lẻo, chưa khuyến
khích được các doanh nghiệp tham gia sản
xuất sạch. Mặc dù các doanh nghiệp vi phạm
đều bị xử phạt theo Luật bảo vệ môi trường
của Việt Nam, tuy nhiên mức tiền phạt chưa
tương xứng với mức độ thiệt hại mà các
doanh nghiệp này gây ra.
Bảng 1: Danh sách một số doanh nghiệp điển hình bị phát hiện hoặc đang bị nghi ngờ
thực hiện hành vi chuyển giá
TT Doanh nghiệp Hành vi chuyển giá
1 FDI Keangnam Vina -
chủ đầu tư tòa nhà
Keangnam
Doanh nghiệp này bị vạch trần hành vi dàn xếp giá nội bộ,
nâng khống đầu vào để liên tục khai lỗ trong 5 năm và bị
buộc phải nộp truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp cho
mảng kinh doanh bán căn hộ với tổng thuế là 95,2 tỷ đồng.
2 Công ty Hualon
Corporation (Khu Công
Nghiệp Nhơn Trạch 2,
Đồng Nai)
Doanh nghiệp này gần 20 năm liên tục báo lỗ, nâng khống
giá dây chuyền máy lên đến 40 lần (từ 400.000 USD thành
16 triệu USD).
3 Metro Cash & Carry Metro Cash & Carry bị "vạch" mặt chuyển giá sau 12 năm
hoạt động tại Việt Nam, truy thu hơn 507 tỷ đồng
4 Công ty Giày Changshin
Hàn Quốc
Công ty Giày Changshin Hàn Quốc mở rộng sản xuất kinh
doanh nhưng không thông qua việc tăng vốn mà sử dụng
khoản vốn vay ngắn hạn, trung hạn của công ty mẹ ở nước
ngoài và đã xử lý giảm lỗ trên 120 tỉ đồng.
5 Công ty Dệt ChoongNam
(Đài Loan)
Thanh tra Công ty Dệt ChoongNam (Đài Loan), Cục Thuế đã
xử lý giảm lỗ 18.000 USD.
6 Coca Cola Chỉ riêng năm 2010, hãng này đã báo cáo lỗ 188 tỷ đồng ở
thị trường Việt Nam. Luỹ kế, con số thua lỗ mà Coca Cola
Việt Nam báo cáo lên tới 180 triệu đô trong thập kỷ vừa qua.
7 Nike Tờ Independent tiết lộ trong 5 năm qua, lượng tiêu thụ của
Nike gắn với thương hiệu Manchester United đã đạt tới con
số 100 triệu bảng. Nhưng số tiền mà Nike nộp vào cơ quan
thuế chỉ là con số nhỏ nhoi 1 triệu bảng
Nguồn:
318.html
50
- Sự xung đột lợi ích giữa nhà đầu tư
và người lao động
Bên cạnh những mặt tích cực do khu
vực FDI tạo ra như: giải quyết việc làm, nâng
cao trình độ lao động, cải thiện môi trường
làm việc, thì mối quan hệ giữa người sử
dụng lao động và người lao động hiện đang
trở thành một vấn đề xã hội được nhiều
người quan tâm. Trong một số trường hợp,
nhà đầu tư nước ngoài vì mục tiêu thu lợi
nhuận cao đã không thực hiện đúng và đầy
đủ các quy định của luật lao động. Những
việc làm này đã gây phản ứng trong dư luận
xã hội, gây nên những cuộc đình công không
cần thiết và làm mất trật tự an toàn xã hội.
Trong năm 2017, cả nước xảy ra 314 cuộc
đình công và ngừng việc tập thể trên địa bàn
36 tỉnh, thành phố trong đó xảy ra chủ yếu ở
các doanh nghiệp có vốn FDI (chiếm 82,1%).
Theo báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, số cuộc có nguyên nhân liên quan
đến tiền lương, thu nhập và điều chỉnh lương
tối thiểu chiếm tỉ lệ khá cao (chiếm 54,1%).
Một số ngành có tiền lương, thu nhập thấp
xảy ra nhiều đình công như: Dệt may (162
cuộc, chiếm gần 51,8%); giày da có 71 cuộc
(chiếm gần 22,5%).
- Hiện tượng chuyển giá ở các doanh
nghiệp FDI khá phổ biến
Hiện tượng chuyển giá hầu như xảy ra
đối với các công ty đa quốc gia. Tại Việt
Nam, hiện tượng chuyển giá được thể hiện
thông qua việc: khai tăng giá trị tài sản vốn
góp; mua nguyên vật liệu và các yếu tố đầu
vào với giá cao; trốn thuế.
Một số doanh nghiệp FDI thuộc chi
nhánh các công ty đa quốc gia đã lợi dụng sơ
hở trong công tác quản lý nhà nước thực
hiện việc chuyển giá bằng cách “lỗ công ty
con, lãi công ty mẹ” thông qua việc nâng giá
đầu vào, hạ giá đầu ra để ăn chênh lệch
ngay từ bên ngoài, gian lận thương mại, trốn
thuế, lợi dụng độc quyền để đưa giá sản
phẩm lên cao hơn giá hàng cùng loại nhập
khẩu.
Hiện tượng các doanh nghiệp FDI thua
lỗ, chuyển giá, trốn thuế là rất phố biến ở
Việt Nam, trong đó nhiều doanh nghiệp kê
khai lỗ liên tục 3 năm. Ngoài ra chính sách
thuế khó tiên đoán, hay thay đổi và nhiều
mức cũng là nguyên nhân của hành vi
chuyển giá của doanh nghiệp FDI.
4. Một số giải pháp
Để thu hút được các dự án có chất
lượng, tranh thủ cơ hội thuận lợi nhằm tạo
một làn sóng đầu tư mới, đòi hỏi phải có
những giải pháp thích hợp nhằm khắc phục
khó khăn, trở ngại, tiếp tục cải thiện mạnh
mẽ môi trường đầu tư.
- Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính
sách liên quan đến đầu tư theo hướng nhất
quán, công khai, minh bạch, có tính dự báo,
tạo thuận lợi cho nhà đầu tư và có tính cạnh
tranh so với các nước trong khu vực. Đồng
thời, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm
khuyến khích thu hút các dự án công nghệ
cao; ban hành các tiêu chuẩn để hạn chế,
ngăn chặn các dự án kém chất lượng.
- Cơ cấu lại nguồn vốn FDI phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế đất nước cũng
như chiến lược, quy hoạch phát triển các
ngành, các vùng quan trọng. Vì vậy, cần cơ
cấu lại các dự án FDI cho đúng trọng tâm,
đúng yêu cầu dài hạn của nước nhà.
51
- Không nên cấp phép cho các dự án
có công nghệ lạc hậu hoặc gây ô nhiễm môi
trường. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong các doanh nghiệp FDI đối với quy trình
xử lý chất thải; yêu cầu các doanh nghiệp
FDI trước khi thành lập phải nêu các phương
án, biện pháp khắc phục chất thải ra môi
trường bên ngoài và phải được cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt. Bên cạnh đó, cần
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của
các cơ quan có thẩm quyền đối với việc nhập
khẩu các thiết bị, dây chuyền công nghệ
nhằm tránh việc phải nhập khẩu các thiết bị,
dây chuyền công nghệ lạc hậu, để tránh trở
thành “bãi thải công nghiệp” gây ảnh hưởng
xấu đến môi trường sống và sản xuất.
- Xây dựng các quy định về quyền và
nghĩa vụ của cán bộ, công nhân làm việc
trong các doanh nghiệp FDI. Có chế tài cụ
thể ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật
của các chủ doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho người lao động, đặc biệt là
phải phát huy tối đa vai trò của công đoàn
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ
thẩm định dự án FDI, đào tạo một cách cơ
bản và có hệ thống về trình độ chuyên môn,
có kiến thức, có kinh nghiệm thực tế và đủ
tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp về thẩm
định giá.
- Khắc phục tình trạng báo cáo lỗ
(đang xét về mặt lỗ giả) không đúng với thực
chất hoạt động trong các doanh nghiệp FDI
bằng cách xây dựng khung pháp lý cho các
cơ quan thuế có thẩm quyền xử lý các thông
tin liên quan đến các công tư liên kết với các
doanh nghiệp FDI; xây dựng và áp dụng các
biện pháp chống chuyển giá có hiệu quả
- Cải thiện khâu thực thi pháp luật:
tăng cường năng lực bộ máy thực thi của các
địa phương. Cải cách thủ tục và bộ máy hành
chính theo hướng lấy người dân, doanh
nghiệp làm đối tượng phục vụ. Gắn trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan với việc
thực thi không đúng quy định của pháp luật.
Thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra
việc thực thi pháp luật của các cơ quan quản
lý địa phương để có biện pháp nhắc nhở,
chấn chỉnh kịp thời.
Việc thu hút FDI vào Việt Nam đang
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên
điều gì cũng có hai mặt, vốn FDI mang đến
cho chúng ta những lợi ích thiết thực, thì
cũng có những mặt trái tồn tại. Với những
mặt bất lợi của FDI, nếu có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù
hợp, Việt Nam có thể hạn chế, giảm thiểu
những tác động tiêu cực này và xử lý hài
hòa mối quan hệ của nhà đầu tư nước
ngoài với lợi ích quốc gia để tạo nên lợi ích
tổng thể tích cực.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2015), Đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Thực trạng,
hiệu quả và hướng điều chỉnh chính sách,
NXB Lao động, Hà Nội
2. Nguyễn Quỳnh Thơ (2017), Thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sỹ
kinh tế, Học viện Ngân hàng
3. Đinh Đức Trường (2015), Quản lý
môi trường tại các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, Tạp chí khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, tập 31, Số 5, trang 46 – 55
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_hai_mat_cua_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_fdi_o_viet_nam.pdf