Về đặc điểm dịch tễ học của người nuôi trẻ,
số ca thu thập được các dữ liệu về đặc trưng của
người nuôi trẻ là không nhiều (chỉ 15 ca) là do
phần lớn các ca là hồi cứu, chỉ một số ít ca từ
10/2006 đến 6/2007 là tiền cứu, mới thu thập
được thông tin về người nuôi trẻ. Tuy số ca chưa
nhiều nhưng qua phân tích chúng ta có thể thấy:
đa số người nuôi trẻ ở độ tuổi 30 – 40 tuổi
(53,3%), đây là lứa tuổi mà các bậc phụ huynh đã
rất ” chín chắn ” và cũng phần nào có hiểu biết
về việc nuôi trẻ và bệnh tật của trẻ. Mặt khác
cũng qua nghiên cứu này, thấy rằng số con trong
gia đình có trẻ ngưng tim ngưng thở là không
đông (53,3% có 1 con, 26,7% có 2 con), kinh tế gia
đình cũng tạm đủ sống không phải là quá khó
khăn (66,7% đủ sống), nhưng ngược lại số trẻ
ngưng tim ngưng thở lại cao. Lý giải điều này có
thể là do nghề nghiệp, trình độ học vấn của họ
thấp (chủ yếu làm nghề nội trợ, buôn bán, thợ
hồ), học vấn đa phần là cấp I, II (60%) nên không
nhận biết được trẻ bệnh nặng, thiếu kiến thức
chăm sóc trẻ hay sai lệch này là do số ca thu thập
được còn quá ít, không đại diện cho mẫu, cần
phải có nghiên cứu sâu rộng hơn, số ca lớn hơn
mới rút ra được mối tương quan đặc trưng dịch tễ
học người nuôi trẻ và tỷ lệ ngưng tim ngưng thở.
55% số ca ngưng tim ngưng thở nhập viện từ
nhà, 42,9% nhập viện từ cơ sở y tế, trong đó 50%
tới từ bệnh viện (tỷ lệ này tương đương tỷ lệ tác
giả Bùi Quốc Thắng), 36,4% từ trung tâm y tế
quận huyện (84,2% cuộc chuyển viện có điều
dưỡng đi kèm, 10,5% có bác sĩ đi kèm). Như vậy
là gần ½ số ca ngưng tim ngưng thở vào viện từ
cơ sở y tế là bệnh viện và tất cả đều có nhân viên
y tế đi kèm nhưng tỷ lệ ngưng tim ngưng thở
vẫn cao, điều này cho thấy là hoặc quá trình
chuyển viện không an toàn, hoặc không tiên
lượng được bệnh trẻ nặng trước và trong khi
chuyển viện.
Về phương tiện hồi sức cấp cứu trong các
ca ngưng tim ngưng thở chuyển viện từ cơ sở
y tế, chúng tôi thấy rằng: trong số 19 ca ngưng
tim ngưng thở chuyển viện từ cơ sở y tế, có tới
11 ca được giúp thở qua NKQ, phần lớn (15
ca) được thở oxy nhưng vẫn có 4 ca rất nặng
nhưng lại không được thở oxy, đây là một
điều khó hiểu, 11 ca đặt NKQ đều tử vong tại
BVNĐ2; Có tới 36,8% ca chuyển từ cơ sở y tế
nhưng lại không có truyền dịch, không có
đường truyền cần thiết khi cấp cứu. Vì vậy
vấn đề tiên lượng, theo dõi bệnh trong lúc
chuyển viện cần được quan tâm sâu sắc để
chuyển viện an toàn hơn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình ngưng tim ngưng thở trước nhập viện tại khoa cấp cứu lưu bệnh viện Nhi đồng 2 từ 2004 – 2007, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 74
TÌNH HÌNH NGƢNG TIM NGƢNG THỞ TRƢỚC NHẬP VIỆN
TẠI KHOA CẤP CỨU LƢU BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ 2004 – 2007
Phan Thị Thanh Huyền*, Nguyễn Thành Đạt*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả tình hình ngưng tim ngưng thở trước nhập viện tại khoa cấp cứu lưu BVNĐ2 từ
1/2004 – 6/200.
Phương pháp: Hồi và tiền cứu, cắt ngang mô tả.
Kết quả: Hồi và tiền cứu 49 ca ngưng tim ngưng thở trước nhập viện nhập khoa cấp cứu lưu BVNĐ2 từ
1/2004 – 6/2007. Kết quả nghiên cứu cho thấy: 1 tuổi chiếm 57,1% (sơ sinh 36,7%), nam/nữ = 2,3/1. Có
42,9% ca chuyển đến từ cơ sơ y tế trong đó 50% là từ bệnh viện, hầu hết các ca chuyển viện đều có nhân viên
y tế đi kèm nhưng chỉ có 10,5% là bác sĩ. Chỉ có 31,6% được hồi sức trong vòng 15 phút kể từ lúc được phát
hiện. Hầu hết các ca nhập BVNĐ2 đều trong thời gian > 15 phút, thậm chí có vài ca > 60 phút. Nhóm bệnh tim
bẩm sinh và sặc thức ăn là nguyên nhân hàng đầu gây ngưng tim ngưng thở ở trẻ em. Phần lớn các ca đều tử
vong (87,8%), chỉ có 2% bệnh nhân sống khi xuất viện.
Kết luận: Trẻ < 1 tuổi chiếm tỷ lệ cao ngưng tim ngưng thở trước nhập viện trong lô nghiên cứu. Đa
số các bậc cha mẹ là nội trợ, buôn bán và trình độ học vấn là cấp I-II. Nhóm bệnh tim bẩm sinh tím và nhất
là nhóm sặc sữa là những lý do chính gây ngưng tim ngưng thở trước nhập viện trong lô nghiên cứu.
ABSTRACT
THE SITUATION OF CARDIO RESPIRATORY ARREST CASES WERE ADMITTED
TO EMERGENCY DEPARTMENT IN THE CHILDREN, HOSPITAL N02 FROM 2004 TO 2007.
Phan Thi Thanh Huyen, Nguyen Thanh Dat
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 4 - 2007: 74 – 78
Objective: Describing the situation cardio respiratory arrest cases were admitted to emergency
department in the Children, hospital N02 from 1/2004 to 6/2007.
Methods: Cross-sectional studies.
Results: This study included 49 cardio respiratory arrest cases who were admitted to emergency
department in the Children, hospital N02 from 1/2004 to 6/2007. The result showed that children under 1
year-old were getting 57,1% (newborn: 36,7%), male/female = 2,3/1. 42,9% of cases were transferred from
other medical centers, 50% of them were from hospitals. In most of these cases, the patients were transferred
to the hospital by medical staffs, however, only 10,5% of them were doctors. Most of cases were admitted to
the emergency department in the Children,2 hospital N02 (directly from house or medical center) within
more 15 minutes, there were even some cases within 60 minutes. Congenital cardiovascular diseases and
choking of food were the top cause of cardio respiratory arrest. 87,8% of cases were died, there were only 2%
survival.
Conclusion: Chidren < 1 year-old were getting the most. The most of parents were housewife, business
and education level were the first and second grade. Congenital cardiovascular diseases and reek of milk
group were main reasons for causing cardio respiratory arrest in this study.
* Bệnh viện Nhi Đồng II - TPHCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 75
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngưng tim ngưng thở trước nhập viện
chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tử vong chung
của trẻ em. Tại Mỹ 5% cuộc chuyển viện trẻ
em là có nguy hiểm tới tính mạng(1,2,8), tại Anh
90% cuộc chuyển viện là có nhân viên y tế đi
kèm(9), tại BVNĐ1 (1998-2001) sơ sinh là nhóm
trẻ được chuyển nhiều nhất do quá khả năng
điều trị(2,5) 22,75%, 34,8% bệnh nhi không ổn
định về sinh hiệu trước chuyển viện(3,6) và chỉ
có 19% cuộc chuyển viện có nhân viên y tế đi
kèm(4,6,7). Theo tác giả Bùi Quốc Thắng, 74 ca tử
vong trước nhập viện trong năm 2001-2003;
thường gặp nhất là < 12 tháng tuổi, không ổn
định sinh hiệu và có nhân viên y tế đi kèm(3).
Đứng trước một trường hợp ngưng tim
ngưng thở trước nhập viện, người bác sĩ cấp cứu
gặp rất nhiều khó khăn, bối rối. Một mặt phải
nhanh chóng hồi sức cấp cứu cho trẻ, mặt khác
phải nhanh chóng tìm ra nguyên nhân ngưng tim
ngưng thở, có như vậy việc xử trí mới nhanh
chóng và đạt hiệu quả cao nhất.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm rút ra một số kinh nghiệm để hạn chế nguy
cơ tử vong trước nhập viện.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát
Mô tả tình hình ngưng tim ngưng thở
trước nhập viện tại khoa cấp cứu lưu BVNĐ2
từ 1/2004 – 6/2007.
Mục tiêu chuyên biệt
Xác định tỷ lệ ngưng tim ngưng thở
trước nhập viện theo đặc trưng dịch tễ học
của bệnh nhi.
Xác định tỷ lệ ngưng tim ngưng thở trước
nhập viện theo đặc trưng dịch tễ học của
người nuôi bệnh.
Xác định nguyên nhân gây ngưng tim
ngưng thở trước nhập viện.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả các ca ngưng tim ngưng thở trước
nhập viện từ 1/2004 - 6/2007 nhập khoa Cấp
cứu-Lưu BVNĐ2.
Phƣơng pháp
Hồi và tiền cứu, cắt ngang mô tả
Xử lý số liệu
Phần mềm SPSS 10.0.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dịch tễ bệnh nhi
Tần số Phần trăm (%)
Tuổi
1 tháng 18 36,7
>1-12 tháng 10 20,4
> 1-5 tuổi 17 34,7
> 5-10 tuổi 2 4,1
> 10 tuổi 2 4,1
Giới
Nam 34 69,4
Nữ 15 30,6
Nơi cư ngụ
TP.HCM 28 57,1
Nơi khác 21 42,9
Tổng cộng 49 100
Đặc điểm dịch tễ ngƣời nuôi trẻ
Tần số Phần trăm (%)
Tuổi
20 - < 30 tuổi 7 46,7
30 - < 40 tuổi 8 53,3
Nghề nghiệp
Buôn bán 2 13,3
CN giày da 1 6,6
Công chức 1 6,6
Làm rẫy 1 6,6
Nội trợ 6 40
Phụ bếp 1 6,6
Phụ hồ 1 6,6
Thợ may 2 13,3
TĐHV
Cấp I-II 9 60
Cấp III 5 33,3
> Cấp III 1 6,7
Kinh tế
Thiếu thốn 5 33,3
Đủ sống 10 66,7
Số con
1 con 8 53,3
2 con 4 26,7
3 con 1 6,7
4 con 2 13,3
Tổng cộng 15 100
Vào viện từ
Tần số Phần trăm (%)
Vào viện từ
Nhà 27 55,1
CSYT 21 42,9
Trường học 1 2
Tổng cộng 49 100
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 76
Thời gian di chuyển từ nhà đến BVNĐ2
Tần số Phần trăm (%)
Thời gian
được hồi sức
kể từ lúc
được phát
hiện
< 15 phút 1 3,7
15 - <20 phút 4 14,8
20 - <30 phút 2 7,4
30 - <60 phút 1 3,7
> 60 phút 2 7,4
Không rõ 17 62,9
Tổng cộng 27 100
Cơ sở y tế chuyển bệnh
Tần số Phần trăm (%)
CSYT chuyển
bệnh
Bệnh viện 11 50
TTYT 8 36,4
Trạm y tế 1 4,5
PM tư 1 4,5
Y tế trường học 1 4,5
Tổng cộng 22 100
Đặc điểm cuộc chuyển viện từ CSYT đến
BVNĐ2
Tần số Phần trăm (%)
Thời gian
được hồi
sức kể từ
lúc được
phát hiện
< 15 phút 6 31,6
15 - <20 phút 4 21,1
20 - <30 phút 7 36,8
30 - <60 phút 1 5,2
> 60 phút 1 5,2
Thời gian
chuyển từ
CSYT đến
BVNĐ2
< 15 phút 2 9
15 - <20 phút 2 9
20 - <30 phút 4 18,1
30 - <60 phút 7 31,8
> 60 phút 2 9
Không rõ 5 22,7
Nhân viên y
tế đi kèm
Bác sĩ 2 10,5
Điều dưỡng 16 84,2
Y sĩ 1 5,3
Thở oxy khi
chuyển viện
Bóp bóng NKQ 11 57,9
Bóp bóng qua mask 1 5,3
Thở oxy qua canula 3 15,8
Không thở oxy 4 21,1
Truyền dịch
khi chuyển
viện
Có 11 63,2
Không 7 36,8
Tổng cộng 19 100
Lý do nhập viện
Tần số Phần trăm (%)
Ho, thở mệt 13 26,5
Tiêu chảy 3 6,1
Co giật 1 2
Tai nạn 3 6,1
Tím (TBS) 4 8,2
Sặc thức ăn 9 18,4
Tần số Phần trăm (%)
Ngộ độc 1 2
Ngất 2 4,1
Khác 13 26,5
Tổng cộng 49 100
Chẩn đoán
Tần số Phần trăm (%)
Bệnh phổi 5 10,2
Bệnh tiêu hóa 3 6,1
Bệnh thần kinh 2 4,1
Bệnh tai nạn 3 6,1
Bệnh TBS 8 16,3
Sặc sữa cháo 9 18,4
Khác 13 26,5
CRNN 6 12,2
Tổng cộng 49 100
Tình trạng lúc xuất viện
2
87.8
10.2
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Phần trăm (%)
Sống Chết Bệnh nặng
xin về
BÀN LUẬN
Hồi cứu và tiền cứu 49 ca, ghi nhận lứa
tuổi thường gặp nhất là trẻ < 5 tuổi (sơ sinh
36,7%); điều này phù hợp với y văn(7,8), Nhóm
trẻ < 5 tuổi và nhất là sơ sinh là nhóm tuổi hay
bị bệnh và tần suất tử vong cũng cao hơn các
nhóm tuổi khác. Tuổi nhỏ nhất trong lô nghiên
cứu là 4 giờ tuổi, lớn nhất là 13 tuổi. Tần suất
mắc bệnh nam/nữ là 2,3/1, tỷ lệ này cao vượt
trội so với tác giả Bùi Quốc Thắng(2), có thể do
số ca còn ít nên có sự phân bố ngẫu nhiên
vượt trội của bệnh nhi nam. Tỷ lệ ngưng tim
ngưng thở ở thành phố là 57,1% so với tỉnh là
42,9%, sự khác biệt này có thể là do sự phân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 77
tuyến từ trước kia tới nay, BVNĐ2 nhận bệnh
nhi đến từ các quận huyện trong thành phố là
chính; Các quận 2, 9, Thủ Đức, Bình Thạnh, có
tỷ lệ ngưng tim ngưng thở cao hơn hẳn (>10%)
so với các quận huyện trong nội và ngoại
thành. Trong khi hai tỉnh Bình Dương và
Đồng Nai chiếm tỷ lệ cao về ngưng tim ngưng
thở so với các tỉnh khác.
Về đặc điểm dịch tễ học của người nuôi trẻ,
số ca thu thập được các dữ liệu về đặc trưng của
người nuôi trẻ là không nhiều (chỉ 15 ca) là do
phần lớn các ca là hồi cứu, chỉ một số ít ca từ
10/2006 đến 6/2007 là tiền cứu, mới thu thập
được thông tin về người nuôi trẻ. Tuy số ca chưa
nhiều nhưng qua phân tích chúng ta có thể thấy:
đa số người nuôi trẻ ở độ tuổi 30 – 40 tuổi
(53,3%), đây là lứa tuổi mà các bậc phụ huynh đã
rất ” chín chắn ” và cũng phần nào có hiểu biết
về việc nuôi trẻ và bệnh tật của trẻ. Mặt khác
cũng qua nghiên cứu này, thấy rằng số con trong
gia đình có trẻ ngưng tim ngưng thở là không
đông (53,3% có 1 con, 26,7% có 2 con), kinh tế gia
đình cũng tạm đủ sống không phải là quá khó
khăn (66,7% đủ sống), nhưng ngược lại số trẻ
ngưng tim ngưng thở lại cao. Lý giải điều này có
thể là do nghề nghiệp, trình độ học vấn của họ
thấp (chủ yếu làm nghề nội trợ, buôn bán, thợ
hồ), học vấn đa phần là cấp I, II (60%) nên không
nhận biết được trẻ bệnh nặng, thiếu kiến thức
chăm sóc trẻ hay sai lệch này là do số ca thu thập
được còn quá ít, không đại diện cho mẫu, cần
phải có nghiên cứu sâu rộng hơn, số ca lớn hơn
mới rút ra được mối tương quan đặc trưng dịch tễ
học người nuôi trẻ và tỷ lệ ngưng tim ngưng thở.
55% số ca ngưng tim ngưng thở nhập viện từ
nhà, 42,9% nhập viện từ cơ sở y tế, trong đó 50%
tới từ bệnh viện (tỷ lệ này tương đương tỷ lệ tác
giả Bùi Quốc Thắng), 36,4% từ trung tâm y tế
quận huyện (84,2% cuộc chuyển viện có điều
dưỡng đi kèm, 10,5% có bác sĩ đi kèm). Như vậy
là gần ½ số ca ngưng tim ngưng thở vào viện từ
cơ sở y tế là bệnh viện và tất cả đều có nhân viên
y tế đi kèm nhưng tỷ lệ ngưng tim ngưng thở
vẫn cao, điều này cho thấy là hoặc quá trình
chuyển viện không an toàn, hoặc không tiên
lượng được bệnh trẻ nặng trước và trong khi
chuyển viện.
Về phương tiện hồi sức cấp cứu trong các
ca ngưng tim ngưng thở chuyển viện từ cơ sở
y tế, chúng tôi thấy rằng: trong số 19 ca ngưng
tim ngưng thở chuyển viện từ cơ sở y tế, có tới
11 ca được giúp thở qua NKQ, phần lớn (15
ca) được thở oxy nhưng vẫn có 4 ca rất nặng
nhưng lại không được thở oxy, đây là một
điều khó hiểu, 11 ca đặt NKQ đều tử vong tại
BVNĐ2; Có tới 36,8% ca chuyển từ cơ sở y tế
nhưng lại không có truyền dịch, không có
đường truyền cần thiết khi cấp cứu. Vì vậy
vấn đề tiên lượng, theo dõi bệnh trong lúc
chuyển viện cần được quan tâm sâu sắc để
chuyển viện an toàn hơn.
Thời gian chuyển viện từ nhà hoặc từ cơ sở
y tế tới BVNĐ2 phần lớn đều > 15 phút, thậm
chí có 2 ca chuyển tới BVNĐ2 trên một giờ
đồng hồ. Đây là thời gian vàng trong hồi sức
cấp cứu, thời gian ngưng tim ngưng thở càng
kéo dài, tiên lượng tử vong càng cao.
Lý do ngưng tim ngưng thở nhiều nhất ở
đây là nguyên nhân sặc thức ăn (9 ca, 18,4%), tỷ
lệ này cao hơn hẳn tác giả Bùi Quốc Thắng (1 ca,
2,7%), đây là điều đáng báo động cần hướng dẫn
kiến thức và kỹ năng chăm sóc trẻ, nhất là trẻ nhỏ
khi cho ăn uống và cách xử trí khi trẻ sặc để hạn
chế tối đa những ca tử vong không đáng xảy ra.
Nhóm ngưng tim ngưng thở do nguyên nhân tim
bẩm sinh cũng chiếm tỷ lệ cao (16,3%) điều này là
phù hợp vì các ca tim bâm sinh nhất là tim bẩm
sinh tím phức tạp thường là ngưng tim ngưng thở
đột ngột, cấp cứu thường không kịp thời.
KẾT LUẬN
Trẻ < 1 tuổi nhất là sơ sinh, chiếm tỷ lệ cao
ngưng tim ngưng thở trước nhập viện trong lô
nghiên cứu.
Đa số các bậc cha mẹ là nội trợ, buôn bán
và trình độ học vấn là cấp I-II.
Nhóm bệnh tim bẩm sinh tím và nhất là
nhóm sặc sữa là những lý do chính gây ngưng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 78
tim ngưng thở trước nhập viện trong lô
nghiên cứu.
ĐỀ XUẤT
Phương tiện, trang thiết bị và kiến thức
của người chuyển viện là những yếu tố cần
thiết của việc chuyển viện an toàn.
Nâng cao hiểu biết của các bậc phụ huynh
về chăm sóc trẻ và biết xử trí những tình
huống cấp cứu xảy ra tại nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Barkin RM (1999), A guide to combulatory care,
Emergency pediatrics, 5th edition, Mosby, Baltimore, pp 18-
19.
2 Britto J, Nardel S, Maconochil I, Levin M, Habibi P (1995),
Morbidity and reverity of illness during interhospital
transfer: Impact of a specialised pediatric retieval team –
BMJ, 311 (7009), pp 836-839.
3 Bùi Quang Vinh (2000), Xác định điều trị trước chuyển
viện gấp, Sổ tay xử trí lồng ghép bệnh trẻ em, Tài liệu dành
cho nhân viên y khoa, Bộ môn nhi ĐH Y Dược TPHCM,
trang 140-143.
4 Forjan JO (1998), Dermography, vital statistics and the pattern of
disease in childhood, Textbook of pediatrics, Edited by AGM
Campell, Neil MC Intorh, 5th edition, pp 1-5.
5 Huỳnh Thị Duy Hương (2000), Đánh giá và phân loại trẻ
nhỏ bị bệnh, Sổ tay xử trí lồng ghép bệnh trẻ em, Tài liệu
dành cho sinh viên y khoa, Bộ môn nhi ĐH Y Dược
TPHCM, trang 110-119.
6 Nguyễn Phú Lộc (2004), Đặc điểm dịch tễ học và tính an
toàn của những trường hợp chuyển viện đến khoa cấp
cứu BVNĐ1 năm 2003, Luận văn chuyên khoa 2, ĐH Y
Dược TP HCM 2004.
7 Orr RA, Venkataraman SJ, Mc Clokey KA (2001), Measurement
of pediatric illness reverity using simple pretransport variables,
Prehosp Emerg Care 5 (2), pp 127-133.
8 Phạm Lê An (2006), Chuyển viện an toàn cho bệnh nhi,
Nhi khoa, Bộ môn nhi ĐH Y Dược TPHCM, trang 477-482.
9 Phan Hữu Nguyệt Diễm (2000), Dấu hiệu nguy hiểm toàn
thân, Sổ tay xử trí lồng ghép bệnh trẻ em, Tài liệu dành cho
sinh viên y khoa, Bộ môn nhi ĐH Y Dược TPHCM, trang
31-35.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_hinh_ngung_tim_ngung_tho_truoc_nhap_vien_tai_khoa_cap_c.pdf