Tình hình phẫu thuật lồng ngực tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong 2 năm (2005 – 2006)
Biến chứng phẫu thuật
Tỷ lệ biến chứng phẫu thuật trong 2 năm là
3% (22 bệnh nhân). Có 20 bệnh nhân phải phẫuthuật lại trong đó 18 bệnh nhân do chảy máu sau
mổ (2,5%), có 2 bệnh nhân rò phế quản.
Có 2 bệnh nhân tử vong (0,3%) trong đó 1
bệnh nhân tử vong 24 giờ đầu do nhồi máu cơ
tim, 1 bệnh nhân bị suy hô hấp ở ngày thứ 10.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật điều trị các bệnh lý hô hấp ngày
càng gia tăng, trong đó gặp nhiều nhất là phẫu
thuật điều trị ung thư phổi, kế đến là phẫu thuật
điều trị các bệnh lý liên quan đến lao.
Việc thực hiện các kỹ thuật mới trong phẫu
thuật như phẫu thuật Plombage, cắt nối khí phế
quản đã đem lại những kết quả khả quan trong
điều trị.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 220 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình phẫu thuật lồng ngực tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong 2 năm (2005 – 2006), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÌNH HÌNH PHẪU THUẬT LỒNG NGỰC
TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH TRONG 2 NĂM (2005 – 2006)
Lê Tiến Dũng*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá những kinh nghiệm và khả năng phẫu thuật tại khoa Ngoại
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu. Bao gồm tất cả những bệnh nhân được
điều trị phẫu thuật tại khoa Ngoại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong 2 năm (2005-2006).
Kết quả: Trong thời gian 2 năm từ 01/2005 đến 12/2006, đã có 724 bệnh nhân được phẫu thuật tại
khoa Ngoại Lồng ngực, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Các bệnh lý thường gặp: ung thư phế quản phổi gồm
247 trường hợp, tràn khí màng phổi 128 trường hợp, ổ cặn màng phổi 64 trường hợp, u nấm Aspergillus 73
trường hợp, u trung thất 44 trường hợp, các bệnh lý khác 168 trường hợp. Phẫu thuật chủ yếu là cắt thùy
phổi và cắt phổi gồm 244 trường hợp (33,7%), bóc vỏ màng phổi 53 trường hợp (9.7%), phẫu thuật lấy u
trung thất 27 trường hợp (3,7%), Plombage 18 trường hợp (2,4%), 3 trường hợp phẫu thuật cắt nối phế
quản (0,5%). Phẫu thuật nội soi gồm 176 trường hợp trong đó có: 122 trường hợp điều trị tràn khí màng
phổi, 10 trường hợp nội soi trung thất và 5 trường hợp lấy u trung thất. Kết quả phẫu thuật: 97% bệnh
nhân có kết quả tốt. Biến chứng phải mổ lại là: chảy máu sau mổ 18 trường hợp (2,5%), dò phế quản 2
trường hợp. Có 2 bệnh nhân tử vong chiếm tỷ lệ 0,4%.
Kết luận: Phẫu thuật điều trị các bệnh lý hô hấp ngày càng gia tăng, trong đó gặp nhiều nhất là phẫu
thuật điều trị ung thư phổi, kế đến là phẫu thuật điều trị các bệnh lý liên quan đến lao. Việc thực hiện các kỹ
thuật mới trong phẫu thuật như phẫu thuật Plombage, cắt nối khí phế quản đã đem lại những kết quả khả
quan trong điều trị.
ABSTRACT
THORACIC SURGICAL OPERATION AT PHAM NGOC THACH HOSPITAL
DURING TWO YEARS (2005-2006)
Le Tien Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 46 - 49
Objective: To review our experience of surgical treatment at Pham Ngoc Thach hospital.
Material and Method: retrospective study. The patients were treated by surgery in Thoracic Surgery
Department at Pham Ngoc Thach hospital during 2 years from 01/2005 to 12/2006.
Results: 724 patients were treated by surgery in Thoracic Surgery Department at Pham Ngoc Thach
hospital during 2 years from 01/2005 to 12/2006. The common indications: lung cancer 247 cases,
pneumothorax 128 cases, pulmonary aspergilloma 73 cases, chronic pleural empyema 64 cases, mediastinal
tumors 44, other indications 168 cases. The major operative procedures were performed include
pneumonectomy and lobectomy 244 cases (33.7%), decortication 53 cases (9.7%), resection of the
mediastinal tumors 27 cases (3.7%), cavernostomy followed by muscle flap Plombage 18 cases (2.4%),
tracheobronchial resections and reconstruction: 3 cases (0.5%). Thoracoscopic surgery was applied in 176
cases: 122 cases for the treatment of pneumothorax, 10 cases of mediastinoscopy and 5 cases for the resection
of mediastinal tumors. The results of the operative treatment: 97% patients had good results. Complications
* Khoa Ngoại Lồng ngực – Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.
requiring re-operation: 18 cases of postoperative bleeding (2.5%), bronchopleral fistula 2 cases. There were 2
cases death (0.4%).
Conclusions: The surgical treatment of respiratory diseases increase more and more. The common
indications are surgical treatment for lung cancer and surgical treatment for tuberculous diseases. To
perform the new operative procedures such as: Plombage, tracheobronchial resections and reconstruction
proved to have good results.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện
đầu ngành về lao và bệnh phổi tại khu vực phía
Nam. Hàng năm có hàng chục ngàn lượt bệnh
nhân đã được chẩn đoán và điều trị tại bệnh
viện. Trong số đó nhiều bệnh nhân có chỉ định
điều trị phẫu thuật như ung thư phổi, tràn khí
màng phổi, các bệnh lý nhiễm trùng
khácKhoa Ngoại Lồng ngực được thành lập
vào năm 2004 và đi vào hoạt động từ tháng 1-
2005 với nhiệm vụ điều trị và phẫu thuật cho
những bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật, góp
phần nâng cao chất lượng điều trị.
Báo cáo này chỉ nêu lên một vài số liệu
chính về hoạt động phẫu thuật và một số tiến bộ
trong điều trị tại khoa Ngoại Lồng ngực trong 2
năm đầu thành lập (2005 – 2006) nhằm bước đầu
đánh giá những kinh nghiệm và khả năng phẫu
thuật tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu các bệnh nhân phẫu
thuật tại khoa Ngoại Lồng ngực Bệnh viện Phạm
Ngọc Thạch trong thời gian 2 năm từ tháng
1/2005 đến tháng 12/2006.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Trong thời gian 2 năm từ 2005 đến 2006 đã
có 724 bệnh nhân được phẫu thuật tại khoa
Ngoại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong đó các
bệnh lý hay gặp là: ung thư phế quản phổi, các
bệnh lý của lao, tràn khí màng phổi, u trung thất,
bệnh lý nhiễm trùng ngoài lao...
Các bệnh lý phẫu thuật
Bệnh lý phẫu thuật n %
Ung thư phế quản phổi 247 34.1
Tràn khí màng phổi 128 17.7
U nấm phổi 73 10
Ổ cặn màng phổi 64 8.8
Bệnh lý phẫu thuật n %
U trung thất 44 6
U lao 48 6.6
Áp xe, giãn phế quản 30 4.1
Kén khí phế quản 28 3.9
Các bệnh lý khác 62 8.6
Tổng số 724 100
Trong các bệnh lý hô hấp chỉ định phẫu
thuật hàng đầu là ung thư phổi chiếm 34.8%.
Hiện nay ung thư phổi là ung thư đứng hàng
đầu ở nam giới. Tại Việt nam theo Nguyễn Việt
Cồ (1996)(2) ung thư phổi chiếm khoảng 22,3% ở
nam và 8,5% ở nữ so với tổng số các loại ung
thư. Về tỷ lệ ung thư phổi giữa nam và nữ, Văn
Tần (2003)(3) đưa ra tỷ lệ nam gấp 3 lần nữ.
Chúng tôi gặp tỷ lệ nam gấp 2,2 lần nữ.
Đứng hàng thứ hai về bệnh lý phẫu thuật
là các bệnh lý liên quan đến lao như: u lao, u
nấm phổi và ổ cặn màng phổi chiếm 24,9%. Tỷ
lệ này cao hơn so với báo cáo của Nguyễn Việt
Cồ (1999)(2) tại bệnh viện Lao và Bệnh phổi
trung ương là 14,6%. Sự khác biệt này có thể
do Việt nam hiện đứng thứ 3 tại khu vực châu
Á- Thái Bình Dương về tỷ lệ mắc lao, mặt khác
chỉ định phẫu thuật trong điều trị lao ngày
càng rộng rãi hơn.
Trong 2 năm 2005-2006 chúng tôi đã phẫu
thuật cho 128 bệnh nhân tràn khí màng phổi
(17,7%) trong đó phẫu thuật nội soi 122 bệnh
nhân chiếm tỷ lệ 95,3%. Các chỉ định phẫu thuật
chủ yếu trong điều trị tràn khí màng phổi là tràn
khí màng phổi tự phát và tràn khí màng phổi có
rò khí kéo dài.
Về bệnh lý trung thất chúng tôi gặp 44
trường hợp u trung thất (6%) và 10 trường hợp
hạch trung thất. Bệnh lý trung thất gặp nhiều
nhất là u thần kinh gồm 19 trường hợp (43,2%),
sau đó là u tuyến ức 8 trường hợp (18,2%). Tỷ lệ
giữa nam và nữ là 33 nam và 11 nữ. Văn Tần
(2003)(3) cũng đưa ra tỷ lệ tương tự.
Đối với bệnh lý nhiễm trùng ngoài lao như
áp xe phổi, giãn phế quản chỉ định phẫu thuật
được đặt ra khi điều trị nội khoa thất bại hay giải
quyết hậu quả của bệnh như ho ra máu. Trong 2
năm chúng tôi chỉ gặp 30 trường hợp (4,1%). Tại
bệnh viện Lao và Bệnh phổi trung ương trong 5
năm 1994-1998 tỷ lệ này là 9,76% (Nguyễn Việt
Cồ 1999)(2). Sự khác biệt này có thể do những tiến
bộ của chẩn đoán và điều trị, của việc sử dụng
kháng sinh hợp lý.
Phương pháp phẫu thuật
Bảng 1: Phẫu thuật mở ngực trong điều trị bệnh lý
phổi - màng phổi
Phương pháp phẫu thuật n %
Cắt phổi không điển hình 45 10,5
Cắt phân thùy phổi 4 0,9
Cắt thùy phổi 226 52,8
Cắt phổi 18 4,2
Bóc vỏ màng phổi 53 12,4
Mở cửa sổ màng phổi 13 3
Cắt kén khí phế quản 6 1,4
Mở ngực chẩn đoán 45 10,5
Phẫu thuật Plombage 18 4,2
Tổng số 428 100
Phẫu thuật chủ yếu trong điều trị bệnh lý
phổi là cắt thùy gồm 226 trường hợp (52,8%).
Đối với bệnh nhân ung thư phổi, tỷ lệ cắt thùy
phổi là 65,2%. Nguyễn Việt Cồ(1999)(2), Đồng
Lưu Ba (2003)(1) đưa ra tỷ lệ cắt thùy ở bệnh nhân
ung thư phổi là 78%.
Trong những năm gần đây, việc áp dụng
nhiều kỹ thuật mới trong chẩn đoán ung thư
phổi như nội soi phế quản, CT scanner đã cho
phép chẩn đoán nhanh, chính xác các bệnh lý
phổi. Điều này đã làm giảm tỷ lệ mổ thăm dò.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc chẩn
đoán chính xác giai đoạn phẫu thuật, loại tế bào
ung thư vẫn gặp khó khăn. Trong 2 năm 2005-
2006, tỷ lệ mở ngực chẩn đoán của chúng tôi
chiếm 10,5%.
Từ tháng 11-2005 đến 12-2006, chúng tôi đã
áp dụng phẫu thuật đánh xẹp thành ngực theo
phương pháp Plombage trong điều trị u nấm
phổi, ổ cặn màng phổi cho 18 bệnh nhân có thể
trạng quá yếu hay tổn thương quá phức tạp.
Bước đầu kỹ thuật này đã đem lại những kết quả
khả quan trong điều trị ho ra máu ở bệnh nhân u
nấm phổi.
Bảng 2: Phẫu thuật u trung thất
Phương pháp phẫu thuật n %
Mở ngực lấy trọn u 24 72,7
Mở xương ức lấy u 3 9,1
Mở ngực thám sát 6 18,2
Tổng số 33 100
Trong số 33 trường hợp u trung thất, chúng
tôi đã phẫu thuật lấy trọn u cho 27 bệnh nhân
(81,8%). Đối với 6 trường hợp phải mở ngực
thám sát do khối u ác tính xâm lấn xung quanh
nên không thể cắt bỏ u được.
Bảng 3: Phẫu thuật nội soi lồng ngực
Phẫu thuật nội soi n %
Soi trung thất 10 5,7
Cắt khâu bóng khí, kén khí 127 72,2
Cắt u trung thất 5 2,8
Cắt phổi không điển hình 6 3,4
Chẩn đoán 28 15,9
Tổng số 176 100
Trong 2 năm 2005-2006 chúng tôi đã thực
hiện 176 ca phẫu thuật nội soi chiếm 24,3% số ca
phẫu thuật. Trong đó phẫu thuật nội soi điều trị
tràn khí màng phổi là 122 trường hợp (69,3%).
Có 10 trường hợp nội soi trung thất để chẩn
đoán hạch trung thất chưa rõ bản chất, 5 trường
hợp nội soi lấy u trung thất.
Bảng 4: Các phẫu thuật khác
Phương pháp phẫu thuật n
Cắt nối khí quản 3
Lấy hạch ngoại vi 23
Khâu phục hồi cơ hoành 1
Mở màng tim 2
Chúng tôi đã phẫu thuật cắt nối khí quản
cho 3 bệnh nhân bị di chứng hẹp khí quản sau
lao. Qua các phẫu thuật này chúng tôi cũng đã
rút ra được những kinh nghiệm nhất định trong
điều trị hẹp khí phế quản.
Biến chứng phẫu thuật
Tỷ lệ biến chứng phẫu thuật trong 2 năm là
3% (22 bệnh nhân). Có 20 bệnh nhân phải phẫu
thuật lại trong đó 18 bệnh nhân do chảy máu sau
mổ (2,5%), có 2 bệnh nhân rò phế quản.
Có 2 bệnh nhân tử vong (0,3%) trong đó 1
bệnh nhân tử vong 24 giờ đầu do nhồi máu cơ
tim, 1 bệnh nhân bị suy hô hấp ở ngày thứ 10.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật điều trị các bệnh lý hô hấp ngày
càng gia tăng, trong đó gặp nhiều nhất là phẫu
thuật điều trị ung thư phổi, kế đến là phẫu thuật
điều trị các bệnh lý liên quan đến lao.
Việc thực hiện các kỹ thuật mới trong phẫu
thuật như phẫu thuật Plombage, cắt nối khí phế
quản đã đem lại những kết quả khả quan trong
điều trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đồng Lưu Ba, Nguyễn Hoàng Bình, Khoa Ngoại LN-TM
Bệnh viện Chợ Rẫy 2003: Kỹ yếu Hội thảo Pháp – Việt lần
3 về bệnh phổi & phẫu thuật lồng ngực; tr 122-126
2. Nguyễn Việt Cồ, Tô Kiều Dung, Tạ Chi Phương, Nguyễn
Đình Minh, Nguyễn Thế Vũ, Vũ Đỗ, Phạm Huy Minh:
Tình hình phẫu thuật phổi tại khoa Ngoại Viện Lao và
Bệnh phổi trong 5 năm (1994-1998). Toàn văn báo cáo
khoa học Đại hội Ngoại khoa toàn quốc 1999; tr 183-186.
3. Văn Tần, Hồ Nam 2003: Kỹ yếu Hội thảo Pháp – Việt lần 3
về bệnh phổi & phẫu thuật lồng ngực; tr 116-120
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_hinh_phau_thuat_long_nguc_tai_benh_vien_pham_ngoc_thach.pdf