Các hạn chế tự do
(67,9%) đối tượng “không bao giờ” hoặc “hiếm khi” được
“đi đến nơi họ muốn hoặc làm những việc họ muốn”, 58,7%
đối tượng “không bao giờ” được tự do. Trong đó người bị
buôn bán làm việc nhà (86,8%) và đánh bắt cá (80,4%) thường
“không bao giờ” được tự do làm những việc mà họ muốn
hoặc đi tới nơi họ muốn.
Hoàn cảnh nghề nghiệp
44,6% “liên tục cúi gập người hoặc khuân đồ”, “nhấc đồ nặng”
(39,8%), “dùng công cụ sắc nhọn” (20,1%). Hơn 90% người
đánh bắt cá phải làm việc trong thời gian dài ngoài trời.
Thiết bị bảo hộ cá nhân
37,8% không nhận được bất kì thiết bị bảo hộ cá nhân nào.
(45,9%) được phát các thiết bị bảo hộ đơn giản ví dụ như
găng tay hoặc mũ chống nắng (50,4%) khi làm công việc nặng
nhọc ngoài trời, ví dụ như làm nông nghiệp hoặc đánh cá.
Các chấn thương liên
quan đến công việc
21,9% đối tượng bị thương nghiêm trọng ít nhất một lần
trong khi làm việc, trong đó nạn nhân làm nghề đánh bắt
cá chiếm 46,6%, 26% làm nghề xây dựng bị thương nghiêm
trọng ít nhất một lần, 3,2% mất một bộ phận cơ thể.
Điều kiện sống và làm việc
99,9% đều chịu một số điều kiện sống và làm việc kém. Các
điều kiện bất cập thường được nhắc tới là: “không có hoặc hiếm
khi được nghỉ” (56,1%); sống/ngủ trong phòng quá chật chội
(44,6%); không có chỗ ngủ hoặc phải ngủ dưới sàn nhà (36,4%),
19,5% bị “ở trong phòng bị khóa”, nhiều nhất là các đối tượng bị
buôn bán để làm mại dâm, làm việc nhà, và đánh cá.
Giấy tờ cá nhân và thông
hành
69% đối tượng không có giấy tờ cá nhân và thông hành, và
trong số đối tượng có giấy tờ thì có tới 39,4% bị người khác
giữ giấy tờ của mình.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình tội phạm mua bán người trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
19Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI...
VÀ TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
NGUYỄN XUÂN HƯỞNG*
Tội phạm mua bán người trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á đang diễn biến
hết sức phức tạp với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi. Vì vậy, bài viết phân tích và cung
cấp một cách khái quát về diễn biến tình hình tội mua bán người trên thế giới và trong khu
vực Đông Nam Á nhằm phục vụ các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, đề xuất các giải
pháp đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này được kịp thời, hiệu quả.
Từ khóa: Mua bán người, tội phạm, Đông Nam Á.
Ngày nhận bài: 13/7/2020; Ngày biên tập xong: 15/7/2020; Ngày duyệt đăng: 15/7/2020
Human trafficking crimes in the world and ASEAN are taking place
complicatedly with many sophisticated modus operandi. Therefore, the article
analyzes and ganeralizes the situation of human trafficking in the world and
ASEAN to support competent authorities in researching and proposing solutions
to prevent and combat this type of crime timely and effectively.
Keywords: Human trafficking, crime, ASEAN.
Báo cáo hàng năm của Cơ quan phòng chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc
(UNODC) được tổng hợp từ báo cáo của
142 quốc gia đã cung cấp bức tranh toàn
cảnh về tình hình tội phạm mua bán người
và các đường dây mua bán người trên toàn
cầu, cũng như trong khu vực Đông Nam Á.
Theo đó, hiện nay trên thế giới có khoảng
244 triệu người di cư và tiếp tục tăng lên do
ảnh hưởng của tình trạng khủng bố, xung
đột, bạo lực Nhiều người trong số đó trở
thành nạn nhân của khoảng 510 đường dây
mua bán người trên thế giới. Thống kê mỗi
năm ước tính có từ 800.000 đến 1 triệu nạn
nhân bị buôn bán trên toàn thế giới với mục
đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động
và các hình thức bóc lột khác. Lợi nhuận từ
hoạt động buôn bán người của các tổ chức
phạm tội được ước tính lên tới 150 tỷ đô la
Mỹ mỗi năm1. Trong đó, số liệu của Tổ chức
Di cư Quốc tế (IOM) thuộc Liên hợp quốc
cho thấy, kể từ khi cuộc khủng hoảng di cư
1 Nguồn:
newsroom/news/wcms_243201/lang-en/index-htm.
tại châu Âu bùng nổ vào năm 2014, đã có
trên 25.000 người đã thiệt mạng trên đường
tha hương, phần lớn nằm lại dưới đáy biển
hoặc bị chết khi tìm cách vượt biên trong
các thùng xe trên đường vận chuyển.2
Trên toàn thế giới hiện nay ghi nhận có
khoảng 30 tuyến buôn bán người di cư lớn
nhất3. Tình hình di cư ngày càng gia tăng
nhanh chóng là do hoàn cảnh kinh tế của
những người muốn di cư ngày càng gặp
nhiều khó khăn, cuộc sống khổ cực hoặc
bị mắc lừa, lầm tưởng sẽ có một cuộc sống
tốt hơn ở các nước phát triển. Trong những
năm qua, số vụ việc và số nạn nhân của các
vụ buôn bán người ngày càng tăng nhanh.
Theo đó, số nạn nhân của các vụ việc đã
được phát hiện, xử lý trên toàn thế giới từ
năm 2008 đến năm 2017 đã tăng gấp ba lần,
từ 30.961 người lên đến 100.409 người. Cụ
thể được phân bố ở các khu vực như sau:
* Tiến sĩ, Trưởng khoa Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
kiểm sát, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
2 Nguồn: Số liệu của Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM)
thuộc Liên hợp quốc tại địa chỉ
3 Nguồn: UNODC tại địa chỉ
20 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI...
Bảng 1.1. Số liệu nạn nhân của tội phạm mua bán người trên thế giới
Năm Châu Phi Châu Á - TBD Châu Âu Trung Đông
Trung và
Nam Á
Châu Mỹ
2012 10043 8521 11905 4047 4415 7639
2013 10096 7886 10374 1460 7124 7818
2014 9523 6349 11910 3338 4878 8414
2015 12125 13990 11112 6068 24867 9661
2016 18296 9989 13349 3292 14706 8821
2017 26517 4915 12750 1834 40875 10011
2018 24407 5466 16838 2675 24544 11683
(Nguồn: Số liệu của báo cáo tháng 6/2019 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ)
Trong số các nạn nhân của tội phạm
buôn bán người, có 18% nạn nhân bị buôn
bán quốc tế là công dân của các nước Đông
Á và Thái Bình Dương, Nam Á và Trung Á,
phần lớn việc bóc lột được các tổ chức buôn
người khai thác trong lục địa.431
Về cơ cấu giới tính của nạn nhân tội
phạm mua bán người trên thế giới cho
thấy, có 49% là phụ nữ, 21% là nam giới
(chủ yếu bị sử dụng vào mục đích cưỡng
bức lao động), 23% là trẻ em gái và 7% là
trẻ em nam.542 Đặc biệt, có những khu vực
tỷ lệ nạn nhân chủ yếu là trẻ em, được tội
phạm sử dụng cho cả mục đích bóc lột tình
dục, cưỡng bức lao động như Trung Mỹ và
Caribbean với 66%.
Về thủ đoạn: Hiện nay, Chính phủ
nhiều quốc gia đã áp dụng các chính sách
nhập cư cứng rắn. Bên cạnh việc tuyển
mộ, vận chuyển bằng các hình thức truyền
thống, các băng nhóm buôn người phải tìm
nhiều biện pháp tinh vi hơn để qua mặt nhà
chức trách. Ví dụ, sau khi Pháp đóng cửa
các trại tị nạn trong các năm 2016-2017, số
người vượt biên vào Anh theo cách riêng
lẻ giảm đi nhiều, thay vào đó là những vụ
vượt biên quy mô do các băng đảng tội
phạm tổ chức lại tăng vọt.63 Trong đó, nhiều
đường dây buôn người ngày càng sử dụng
4 Phòng nghiên cứu (Công ty cung cấp dữ liệu)
Statista tại địa chỉ https://www.statista.com.
5 Số liệu của UNODC được công bố tại Hội thảo mạng
lưới Kiểm sát viên chia sẻ kinh nghiệm về phòng,
chống tội phạm mua bán người, Thanh Hóa, 2020
6 Nguồn: Cơ quan Tội phạm quốc gia Anh (NCA)
nhiều biện pháp mạo hiểm hơn, bất chấp
tính mạng của người di cư, trong đó có việc
nhồi nhét hàng chục người trong thùng xe
đông lạnh để vô hiệu hóa các thiết bị quét
tầm nhiệt của an ninh biên giới. Bên cạnh
đó, các băng nhóm phạm tội còn thực hiện
các thủ đoạn hoàn toàn mới khác, đặt ra
rất nhiều thách thức cho công cuộc phòng
chống loại tội phạm này ở các quốc gia
như xin thị thực và nhập cảnh hợp pháp
vào nước khác, sau đó tìm cách trốn ở lại.
Trong thời gian đó, các nạn nhân phải tìm
kiếm công việc để có thu nhập trang trải
chi phí sinh hoạt, trả nợ mặc dù thu nhập
rất thấp và bấp bênh do không có giấy tờ
hợp pháp. Vì vậy, các nạn nhân phải chấp
nhận làm các công việc nặng nhọc, bất hợp
pháp và bị chủ sử dụng lao động bóc lột,
trả công một cách rẻ mạt, không ít người
còn bị đưa đẩy đến những khu vực trồng
“cỏ” (cần sa) trái phép, hay tham gia vào
những băng đảng tội phạm và đối mặt với
nhiều nguy hiểm đến thân thể, tính mạng
cũng như rủi ro pháp lý nếu bị bắt. Thậm
chí, ngay cả số ít người may mắn hơn khi
tìm được việc làm và thu nhập ổn định thì
vẫn phải thường trực đối mặt nguy cơ bị
bắt giữ và trục xuất. Mặt khác, số người
nhập cư không có giấy tờ hợp lệ sẽ không
thể tiếp cận với các dịch vụ cơ bản trong
đời sống, từ chăm sóc sức khỏe, an sinh xã
hội cho tới nhà ở
Về hình thức và mục đích khai thác:
Trên thế giới hiện nay, phổ biến hơn cả vẫn
là hai hình thức khai thác chính: buôn bán
người để cưỡng bức lao động và bóc lột
21Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN XUÂN HƯỞNG
Biểu đồ 1.1. Xu hướng nạn nhân buôn bán người được phát hiện và xét xử tại các khu vực
(Nguồn: UNODC)
tình dục. Tuy có sự khác biệt trong khu
vực theo tỷ lệ của mỗi loại, trong đó mặc
dù bóc lột tình dục vẫn là chủ yếu nhưng
tỷ lệ nạn nhân bị cưỡng bức lao động ngày
càng tăng. Theo số liệu của UNODC, tính
đến năm 2019, tỷ trọng cụ thể trong mục
đích bóc lột đối với các nạn nhân của nạn
buôn bán người là bóc lột tình dục chiếm
59%, cưỡng bức lao động chiếm 34% và các
hình thức bóc lột khác là 7%.
Trong đó, tại những quốc gia mà nạn
buôn bán người diễn ra phổ biến, các hình
thức bóc lột nạn nhân rất đa dạng như: Tại
Brazil, nhiều đối tượng buôn người núp dưới
vỏ bọc của các tổ chức tôn giáo để tuyển mộ,
sau đó đưa vào trong các trang trại, nhà máy
để bóc lột. Tại Campuchia, lợi dụng tình trạng
thiếu việc làm của phụ nữ, đa số các tổ chức
tội phạm đã mua chuộc, lừa phỉnh khiến một
số phụ nữ và trẻ em gái rời nơi ở tại nông thôn
với lời hứa hẹn tìm việc làm ở các thành phố
du lịch rồi sau đó đưa họ vào và thực hiện
việc bóc lột tình dục trong các tiệm massage,
quán karaoke và quán bia. Tại Ethiopia, thủ
đoạn phổ biến của những kẻ buôn người là
thường lừa dối cha mẹ của những đứa trẻ
sống ở nông thôn bằng cách lừa phỉnh cho
đi học hành, đồng thời làm công nhân để
có tiền gửi về nhà. Tại Ấn Độ, các đối tượng
chuyển giao người cho các chủ mỏ thông qua
việc tạm ứng hoặc cho vay với lãi suất cắt cổ
nhằm bẫy người lao động nghèo. Tại Vương
quốc Anh, nhiều băng đảng buộc trẻ em phải
tham gia vào các mạng lưới buôn bán ma túy.
Tại Yemen, tồn tại tình trạng bắt cóc, sử dụng
trẻ em vào các cuộc xung đột (theo báo cáo
của Liên hợp quốc, hiện đã phát hiện có 842
trường hợp tuyển dụng và sử dụng trẻ em
nam làm lính). Tại Nigeria, những kẻ buôn
người gian lận để tuyển mộ phụ nữ và trẻ
em gái làm việc, đưa đến châu Âu và ép họ
bán dâm. Để ràng buộc nạn nhân, khi đến
nơi, chúng bắt nạn nhân phải thực hiện lời
thề juju để đảm bảo tuân thủ và đe dọa sẽ
giết các nạn nhân nếu vi phạm lời nguyền.
Tại Pakistan, tội phạm mua bán người thực
hiện thủ đoạn lừa phỉnh người lao động
bằng cách cho chính nạn nhân hoặc người
nhà vay tiền để tạo sự ràng buộc trong quá
trình bóc lột. Ở Ghana, đa số lao động trẻ em
bị ép buộc lao động khổ sai trong ngành đánh
bắt cá trên hồ Volta
Về xu hướng phát triển của tội phạm:
Trong khoảng 10 năm gần đây, đa số tại các
khu vực, nạn buôn bán người đều gia tăng,
trong đó tăng mạnh nhất là khu vực Nam Á,
Đông Á - Thái Bình Dương, khu vực Châu
Âu và Trung Á. Trong hoạt động xét xử tội
phạm, tăng nhanh nhất là khu vực Châu Âu
và Châu Mỹ, điều này cũng thể hiện phần
nào hiệu quả ngăn chặn tội phạm ở các quốc
gia thuộc vùng này.
22 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI...
Tại khu vực Đông Nam Á, theo tài
liệu công bố tại Hội thảo “Chiến lược
phòng, chống mua bán người, đặc biệt là phụ
nữ và trẻ em: Tăng cường tiếp cận thông tin
và hệ thống bảo vệ cộng đồng” trong khuôn
khổ Chương trình ưu tiên năm 2018 của
Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân
quyền (AICHR), thực trạng phát triển kinh
tế không đồng đều và nhu cầu về lao động
kỹ năng thấp, giá rẻ ở Đông Nam Á là yếu
tố chính để thúc đẩy nạn buôn bán người
trong khu vực và từ khu vực này đến
vùng khác trên thế giới. Nhiều nạn nhân
của tội phạm buôn người ở Đông Nam Á
ban đầu di cư qua biên giới để tìm kiếm cơ
hội việc làm với thu nhập tốt hơn nhưng
đã bị lừa dối hoặc bị buộc phải làm việc
trong các thuyền đánh cá, các cơ sở nông
nghiệp, xây dựng hoặc dịch vụ. Họ phải
chịu nhiều hình thức bóc lột quản thúc,
không cho liên lạc với bên ngoài. Ngoài
ra, thực trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em
gái để khai thác tình dục vẫn còn là một
vấn đề nghiêm trọng ở hầu hết các nước
trong khu vực. Đặc biệt, trong khu vực còn
tồn tại nhiều nạn nhân bị sử dụng để hành
nghề ăn xin, thực hiện hôn nhân ép buộc
hoặc giả mạo, đi lừa đảo, đóng phim khiêu
dâm, hoặc bị lấy nội tạng hay phục vụ cho
thị trường lao động giá rẻ. Đông Nam Á
hiện nay đã trở thành một trung tâm của
nạn buôn bán người. Khu vực này vừa
là một quốc gia nguồn và là đích đến cho
nam giới, phụ nữ và trẻ em bị cưỡng bức
lao động và buôn bán tình dục, đồng thời
vừa là điểm trung chuyển cho những kẻ
buôn người từ các nơi khác trên thế giới.
Tại Đông Nam Á, hiện tồn tại tình trạng
“nô lệ hiện đại” với khoảng gần 40 triệu
đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị mắc kẹt trong
một mạng lưới rộng khắp và bị cưỡng bức
lao động, bóc lột tình dục và thực hiện hôn
nhân ép buộc761. Đa số các nạn nhân của nạn
buôn người ở đây ban đầu đã đồng thuận
đi di cư để tìm kiếm việc làm nhưng chỉ
sau khi được đưa tới tận nơi, họ mới nhận
7 ILO và Walk Free Foundation 2017
ra mình đã bị lừa và trở thành đối tượng
bị bóc lột.
Về quốc tịch của các nạn nhân: Đa
số nạn nhân bị buôn bán đến từ các nước
kém phát triển hơn trong khu vực như
Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam.
Nạn nhân bị đưa đến các nước có trình độ
phát triển cao hơn như Thái Lan, Malaysia
và Singapore cũng như các điểm đến bên
ngoài khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Châu Âu, Bắc Mỹ, Trung
Đông và Châu Úc. Trong đó, Thái Lan là
điểm đến hàng đầu cho nạn nhân buôn
người từ Campuchia, Lào và Myanmar,
còn Malaysia là điểm đến chủ yếu của các
nạn nhân từ Indonesia, Philippines và Việt
Nam.872 Dữ liệu của Chính phủ Nhật Bản
cung cấp cho thấy, tổng cộng đã có công
dân của 12 nước bị kết án tội phạm buôn
bán người ở Nhật Bản từ năm 2014 đến
năm 2016, trong đó có khoảng 16% tổng
số người bị kết án (74 người) là công dân
Đông Nam Á, chủ yếu là người Thái Lan
và Philippines (những người khác đến từ
Trung Quốc, Brazil và Đài Loan). Những
năm gần đây, Nhật Bản xác định tổng cộng
có 129 nạn nhân bị buôn bán, trong đó có
50 người từ Nhật Bản (39%), 48 người từ
Philippines (37%), 20 người từ Thái Lan
(15,5%) và 07 người từ Campuchia (5%)983.
Về tỷ lệ giới tính: Theo báo cáo của
UNODC, 51% nạn nhân ở Đông Nam Á là
phụ nữ và trẻ em chiếm gần một phần ba,1094
trong đó tại Malaysia có 86% nạn nhân là
nữ, 14% là nam giới; Thái Lan: nữ giới chiếm
60%, nam giới chiếm 40%; tại Myanmar: nữ
giới chiếm 43%, nam giới chiếm 57%.115
Riêng khu vực tiểu vùng sông Mê Kông,
trung bình mỗi năm ghi nhận khoảng 7.800
8 Chỉ số nô lệ toàn cầu Walk Free Foundation 2016
9 UNODC, Questionnaire for the Global Report
on Trafficking in Persons 2018, Japan Ministry of
Foreign Affairs, 2017
10 Nguồn: UNODC
11 Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), Sức khỏe và nạn
Buôn bán người tại Tiểu vùng sông Mê-Kông mở
rộng, trang 68
23Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN XUÂN HƯỞNG
Bảng 1.2. Nghiên cứu các đặc điểm của nạn nhân tội phạm mua bán người tại các nước
vùng sông Mê Kông1
Nơi bị bóc lột
Thái Lan (40,3%, 444 người), sau đó là Việt Nam (35,3%, 389
người), và Campuchia (24,4%, 269 người).
Quốc tịch nạn nhân
Việt Nam (388 người, 35,2%), Campuchia (312 người, 28,3%),
Thái Lan (156 người, 14,2%), Myanma (128 người, 11,6%),
Lào (116 người, 11,6%), và Trung Quốc (1 người, 0,1%).
Trình độ học vấn nạn
nhân
30,8% người lớn và 43,7% trẻ em đã hoàn thành trung học cơ
sở (lớp 6-8). Một số lượng nhỏ người lớn (59 người, 8,2%) đã
học xong lớp 10-11. Gần một phần năm số người lớn (19%) và
8,8% chưa qua trường lớp đào tạo chính quy nào.
Nghề nghiệp trước khi đi
9,7% chưa từng đi làm trước khi đi, 42,7% làm nông nghiệp,
20,4% đối tượng dưới 18 tuổi là học sinh trước khi đi.
Tình trạng hôn nhân
21,6% đối tượng (trên 15 tuổi) đã kết hôn và đang sống cùng
vợ/chồng trước khi đi, 80,8% đã có con.
Nhận thức về buôn bán
người của nạn nhân
44,1% đã từng nghe nói đến nạn “buôn bán người”. Người Thái
Lan có tỷ lệ số người đã từng nghe nói về “buôn bán người” cao
nhất (65,4%), sau đó là người Campuchia (46,2%), người Lào
(39,7%), người Việt Nam (38,9%) và người Myanmar (32,8%).
Hoàn cảnh bị lừa bán
34,2% nạn nhân cho rằng thủ đoạn hoàn toàn thuộc về người
môi giới, 26,5% cho rằng bị buôn bán do tin tưởng người nhà.
Bạo hành trước di cư
15,1% đã từng chịu bạo hành về thể chất hoặc tình dục ít nhất
một lần trước khi đi khỏi nhà. 22,0% số trẻ em đã từng chịu
bạo hành về thể chất hoặc tình dục. Số lượng phụ nữ (20.6%)
chịu bạo hành về thể chất hoặc tình dục trước khi đi ở mức
độ cao hơn so với nam giới (14,6%).
Các thông tin đối tượng
buôn người đưa ra về
nghề nghiệp của nạn nhân
khi đến nước đích
44,8% nhận được thông tin trước khi đi “hoàn toàn không
đúng sự thực”.
Thông tin về nước đến 7,9% người không tới được nước định đến.
12 Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), Sức khỏe và nạn Buôn bán người tại Tiểu vùng sông Mê-Kông mở
rộng
nạn nhân được xác định đã bị buôn bán để
bóc lột tình dục và ngày càng phổ biến với
những cuộc hôn nhân cưỡng bức của phụ
nữ và trẻ em gái Campuchia, Trung Quốc,
Myanmar và Việt Nam.
Tại Đông Nam Á, những năm gần đây
còn có sự gia tăng nạn buôn bán trẻ em
để thực hiện các nội dung khiêu dâm trẻ
em trực tuyến, bao gồm cả phát trực tiếp
qua mạng internet. Đây là một hoạt động
kinh doanh siêu lợi nhuận, ước tính sinh
lợi khoảng từ 3 tỷ đến 20 tỷ đô la mỗi năm,
trong đó điển hình là các quốc gia như
Campuchia và Thái Lan.
Để hiểu rõ hơn về quá trình của các nạn
nhân từ khi bị buôn bán đến giai đoạn bị
bóc lột12, có thể tham khảo kết quả nghiên
cứu của Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) với
1.102 nam giới, phụ nữ, và trẻ em từ 10
tuổi trở lên, đang sử dụng dịch vụ hỗ trợ
sau khi bị buôn bán tại Campuchia, Thái
Lan, và Việt Nam như sau:
24 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI...
Giai đoạn bị bóc lột khi
đến
67,2% bị bán vào 3 lĩnh vực: mại dâm (29,9%), đánh bắt cá
(25%) và làm việc trong nhà máy (12,3%). Hơn một nửa các
đối tượng dưới 18 tuổi bị bán để làm mại dâm (51,9%).
Hình thức bạo hành tại
nước đến
36,2% trẻ em từ 10-14 tuổi và 35,3% thiếu niên từ 15-17 tuổi
phải chịu bạo hành. Bạo hành theo ngành nghề. Những ngành
nghề chịu nhiều bạo hành về thể chất hoặc tình dục theo khảo
sát là làm cô dâu/làm vợ (88,5%), đánh bắt cá (68,4%,), mại
dâm (50,8%), hầu hạ trong nhà (60,5%) và ăn xin (36%). Bạo
hành tình dục: 20,2% bị cưỡng bức quan hệ tình dục trong khi
bị buôn bán. Trong đó 97,1% là nữ và 2,9% là nam.
6.1% đối tượng bị ép dùng ma túy hoặc thuốc điều trị trong
thời gian bị buôn bán. Tỉ lệ bị ép sử dụng ở đối tượng trẻ
em (8,4%) là cao hơn ở người lớn (4,9%), một số lượng nhỏ
(3,2%) bị ép uống rượu bia hàng ngày.
Ngày/giờ làm việc
67,5% phải làm việc 7 ngày một tuần và thời gian làm việc
trung bình một ngày là 13,8 giờ. Người làm nghề đánh bắt cá
phải làm việc nhiều giờ nhất (18,8 giờ/ngày), sau đó là làm
việc nhà (15,2 giờ).
Các hạn chế tự do
(67,9%) đối tượng “không bao giờ” hoặc “hiếm khi” được
“đi đến nơi họ muốn hoặc làm những việc họ muốn”, 58,7%
đối tượng “không bao giờ” được tự do. Trong đó người bị
buôn bán làm việc nhà (86,8%) và đánh bắt cá (80,4%) thường
“không bao giờ” được tự do làm những việc mà họ muốn
hoặc đi tới nơi họ muốn.
Hoàn cảnh nghề nghiệp
44,6% “liên tục cúi gập người hoặc khuân đồ”, “nhấc đồ nặng”
(39,8%), “dùng công cụ sắc nhọn” (20,1%). Hơn 90% người
đánh bắt cá phải làm việc trong thời gian dài ngoài trời.
Thiết bị bảo hộ cá nhân
37,8% không nhận được bất kì thiết bị bảo hộ cá nhân nào.
(45,9%) được phát các thiết bị bảo hộ đơn giản ví dụ như
găng tay hoặc mũ chống nắng (50,4%) khi làm công việc nặng
nhọc ngoài trời, ví dụ như làm nông nghiệp hoặc đánh cá.
Các chấn thương liên
quan đến công việc
21,9% đối tượng bị thương nghiêm trọng ít nhất một lần
trong khi làm việc, trong đó nạn nhân làm nghề đánh bắt
cá chiếm 46,6%, 26% làm nghề xây dựng bị thương nghiêm
trọng ít nhất một lần, 3,2% mất một bộ phận cơ thể.
Điều kiện sống và làm việc
99,9% đều chịu một số điều kiện sống và làm việc kém. Các
điều kiện bất cập thường được nhắc tới là: “không có hoặc hiếm
khi được nghỉ” (56,1%); sống/ngủ trong phòng quá chật chội
(44,6%); không có chỗ ngủ hoặc phải ngủ dưới sàn nhà (36,4%),
19,5% bị “ở trong phòng bị khóa”, nhiều nhất là các đối tượng bị
buôn bán để làm mại dâm, làm việc nhà, và đánh cá.
Giấy tờ cá nhân và thông
hành
69% đối tượng không có giấy tờ cá nhân và thông hành, và
trong số đối tượng có giấy tờ thì có tới 39,4% bị người khác
giữ giấy tờ của mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_hinh_toi_pham_mua_ban_nguoi_tren_the_gioi_va_trong_khu.pdf