Trở về với ý tưởng ban đầu: một khuyến
nghị dựa trên kỹ thuật pháp lý cho Việt Nam.
Với sự mâu thuẫn, thiếu rõ ràng và khó áp
dụng của thuật ngữ như vậy. Với thực tiễn ít ỏi,
không thành công của các khuyến nghị, phương
pháp đã được đề xuất để đảm bảo tính ổn định
của pháp luật trên thế giới, liệu có thể phân tích
và đề xuất một cách tiếp cận mới, một phương
pháp để đảm bảo tính ổn định của pháp luật nói
chung hay không? Tác giả cho rằng có thể nếu
chúng ta quay trở lại với các vấn đề nền tảng
của vấn đề và xuất phát từ chính mâu thuẫn nội
tại và nhu cầu chính đáng của pháp luật. Nói
cách khác, thay vì hỏi làm sao để đảm bảo tính
ổn định của pháp luật, chúng ta nên đặt câu hỏi
làm thế nào để pháp luật thay đổi một cách tích
cực và phù hợp. Xuất phát từ cách tiếp cận này
chúng ta lại quay trở lại với chính các nhận
định kinh điển về sự mâu thuẫn giữa giữ và
thay đổi của Jefferson, Fuller, Bingham và các
học giả khác và dựa trên chức năng chung của
luật pháp về tính công khai, có thể tiếp cận
được, có thể áp dụng được, chắc chắn và có thể
dự đoán được. Mục tiêu cuối cùng chính là bảo
đảm các yêu cầu của pháp quyền về sự bình
đẳng, bảo vệ quyền của mỗi chủ thể.
Thứ nhất, chúng ta cần phân loại tác nhân
của sự thay đổi. Nếu tác nhân thay đổi đến từ
bên ngoài, ví dụ như là do thay đổi về kinh tế,
chính trị, văn hóa thì nó nằm ngoài tầm kiểm
soát của các nhà luật học. Luật pháp bắt buộc
phải thay đổi cho phù hợp với bối cảnh mới.
Còn nếu sự thay đổi xuất phát từ các tác nhân
bên trong như triết lý, phương pháp, thuật ngữ,
quy trình làm luật, phương áp áp dụng và giải
thích pháp luật thì chúng ta cần phải chủ động
đánh giá xem có cần phải sửa đổi, bổ sung pháp
luật cho phù hợp không?
Thứ hai, nếu tác nhân thay đổi đến từ bên
trong hệ thống thì chúng ta lại tiếp tục xem xét
và phân loại nó thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất
là các tác nhân không quan trọng. Đó chính là
các sai sót, khiếm khuyết đơn giản mà Jefferson
đã chỉ ra. Các sai sót, khiếm khuyết này không
gây ra các vấn đề quá lớn, không gây ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể. Không khiến cho các chủ thể mất khả
năng dự liệu và các kỳ vọng hợp lý vào pháp
luật trong việc hành xử thì không cần phải sửa.
Nhưng nếu đó là các sai sót, khiếm khuyết lớn,
tức là các yếu tố tác động trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, có thể
khiến các chủ thể mất đi khả năng hành xử theo
đúng kỳ vọng vào pháp luật thì cần phải đặt ra
vấn đề sửa đổi một cách thận trọng và hợp lý. Ở
đây, có lẽ các nhà làm luật nên xây dựng cấu
trúc theo đó với các quy định xác lập, bảo vệ
hoặc hạn chế các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
các chủ thể thì chỉ được quy định trong các văn
bản từ luật do Quốc hội ban hành trở lên. Và do
đó, các quy định hướng dẫn thực thi các quyền
này thì có thể được quy định trong các văn bản
lập quy. Làm như thế này sẽ đảm bảo việc sửa
đổi được diễn ra phù hợp, ít tác động nhất.
Hoặc nếu có phải sửa đổi thì sẽ đảm bảo chất
lượng cao nhất vì phải tuân theo các quy trình
khác nhau với các điều kiện đảm bảo chất
lượng khác nhau.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính ổn định của pháp luật: Lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29
20
Review Article
Legal Stability from International Theories and Experiences:
Lessons Learnt for Vietnam
Tran Kien*
VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 15 November 2019
Revised 01 December 2019; Accepted 20 December 2019
Abstract: Stability has become one of the basic requirements for the law from both theoretical and
practical perspectives, especially for developing countries where laws are often changed and
reformed with large scale and intensity. Despite its importance, the stability of the law has never
had a thorough analysis as well as a consensus on the concepts, functions and roles in comparative
law theories. This led to the application and development of criteria and methods to ensure the
stability of the law in practice, ineffective, even failed. In this context, this article contributes to
the analysis of the theory of legal stability in the world to provide a unified understanding.
Thereby, initially proposing criteria and ways to ensure the stability of law in reality for Vietnam.
Keywords: Law; stability; rule of law; justice; reform.
________
Corresponding author.
E-mail address: trankien@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4246
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29
21
Tính ổn định của Pháp luật: Lý thuyết, kinh nghiệm
quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam
Nguyễn Ngọc Chí*
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 15 tháng 11 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 01 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 12 năm 2019
Tóm tắt: Tính ổn định đã trở thành một trong các yêu cầu căn bản đối với pháp luật từ cả góc độ
lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển nơi pháp
luật được thay đổi, cải cách thường xuyên với quy mô và cường độ lớn. Tuy có tầm quan trọng
như vậy nhưng tính ổn định của pháp luật lại chưa hề có được sự phân tích thấu đáo cũng như
đồng thuận về cả khái niệm, chức năng, vai trò trong lý thuyết pháp luật quốc tế. Điều này dẫn đến
việc áp dụng và xây dựng các tiêu chí, phương pháp đảm bảo tính ổn định của pháp luật trên thực
tế thiếu hiệu quả, thậm chí thất bại. Trong bối cảnh đó, bài viết này góp phần vào việc phân tích
các lý thuyết về tính ổn định của pháp luật trên thế giới để đưa ra một cách hiểu thống nhất. Qua
đó, bước đầu đề xuất các tiêu chí, cách thức để có thể bảo đảm tính ổn định của pháp luật trên thực
tế cho Việt Nam.
Từ khóa: Pháp luật, tính ổn định, pháp quyền, công lý, cải cách.
I. Khái quát chung về lý thuyết và thực tiễn
ổn định pháp luật trên thế giới *
1.1. Tính ổn định của pháp luật là một trong
những câu hỏi cơ bản của cả lý thuyết lẫn thực
tiễn pháp luật trên thế giới. Từ góc độ lý thuyết,
tính ổn định đã được tiếp cận từ nhiều góc độ
bởi nhiều trường phái triết học khác nhau như
là một yếu tố cấu thành của một hệ thống pháp
luật dựa trên pháp quyền có cơ sở đạo đức bắt
nguồn từ luật tự nhiên và hướng đến mục tiêu
đảm bảo công lý và phát triển bền vững. Từ góc
độ thực tiễn, ổn định đã trở thành một tiêu chí
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: trankien@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4246
quan trọng để xây dựng, thực thi và đánh giá
pháp luật. Tuy có ý nghĩa cả về lý thuyết và
thực tiễn như vậy nhưng học lý và kinh nghiệm
quốc tế cho thấy sự chia rẽ và bất đồng không
nhỏ đối với cách hiểu và áp dụng tiêu chí này.
Jefferson, một trong các tác giả của Hiến pháp
Mỹ nổi tiếng, tổng thống thứ ba của Hợp chúng
quốc Hoa Kỳ cho rằng pháp luật phải ổn định
hoặc bền vững qua thời gian và việc thay đổi
pháp luật quá thường xuyên không phải là một
tính trạng đáng hoan nghênh. Frederic Bastiat,
tại một trong những chuyên khảo nổi tiếng của
mình có tên gọi Pháp Luật đã khẳng định
“Không được tồn tại luật pháp cưỡng đoạt –
nếu có thì phải bãi bỏ nó ngay: đó là nguyên
tắc của công lý, hòa bình, trật tự, ổn định và
hài hòa”. [1] Fuller, một trong các triết gia luật
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29
22
học nổi tiếng nhất thế kỷ 20 trong chuyên khảo
kinh điển của mình “Đạo đức của pháp luật” đã
vay mượn câu chuyện ẩn dụ về vị vua Rex, một
người mong muốn cải cách pháp luật của mình
theo chiều hướng tốt hơn nhưng đã thất bại do
vi phạm tám yêu cầu căn bản của pháp luật.
Trong đó có sai lầm khi đã thay đổi các quy tắc
pháp lý một cách thường xuyên khiến cho các
chủ thể không thể biết để tuân theo. [2, tr 79]
Từ chính tám sai lầm dẫn đến thất bại của
pháp luật này, Fuller đã nâng lên thành các tiêu
chuẩn bên trong của pháp luật bao gồm: (1)
Không chứa đựng quy phạm cụ thể (kiểu chỉ
chứa toàn các khẩu hiệu mà không chứa đầy đủ
mô thức quy phạm theo đúng công thức giả
định, quy định và chế tài); (2) Không công khai
(văn bản đã được ban hành nhưng đối tượng bị
điều chỉnh lại không biết hoặc khó biết được);
(3) Chứa đựng quy phạm khó hiểu, không rõ
ràng hoặc hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
(điều này khiến cho thông điệp của văn bản trở
nên không rõ ràng); (4) Áp dụng hiệu lực hồi
tố; (5) Chứa đựng các quy định mâu thuẫn
nhau; (6) Đưa ra các yêu cầu vượt quá khả năng
chấp hành của người bị điều chỉnh hoặc vượt
quá khả năng thi hành của cơ quan thực thi
pháp luật; (7) Không ổn định (thay đổi quá
nhanh chóng); (8) Không đảm bảo chữ tín trong
thi hành pháp luật (tức là luật pháp yêu cầu một
đằng như cơ quan thực thi pháp luật lại thực thi
một nẻo). [2, 80]
Joseph Raz cho dù không hoàn toàn đồng ý
với Fuller, cũng khẳng định lại yêu cầu này
trong chuyên khảo kinh điển về Thẩm quyền
của pháp luật. [3] Gần đây hơn, trích dẫn
Roscoe Pound, Brunnee và Toope khẳng định
rằng luật phải ổn định để luật pháp có thể thực
hiện chức năng là tiêu chuẩn của hành vi. [4]
Điều này nhận được một sự chia sẻ hạn chế đến
từ các học giả khác. Adam Hill là một ví dụ khi
ông thừa nhận rằng tính ổn định là một trong
tám tiêu chí để dẫn dắt và đánh giá hành vi,
cách cư xử của chủ thể trong xã hội dù đó chỉ
phù hợp với khung khổ lý thuyết pháp luật thực
định. [5]
Có thể do sự vận động của các học giả này
dù có các lý thuyết và quan điểm khác nhau,
yêu cầu về tính ổn định của pháp luật bắt đầu
được nhìn nhận và áp dụng như một tiêu chuẩn
đánh giá trong thực tiễn. Trong các tiêu chí
dùng để đánh giá một nền pháp quyền của dự
án World Justice Project, ổn định là một thuộc
tính bắt buộc của pháp luật công bằng, đến lượt
mình là một trong bốn thành tố phổ quát của
pháp quyền. [6] Một loạt các báo cáo khác
cũng đề cập trực tiếp hay gián tiếp đến tính ổn
định hay sự ổn định như là một thuộc tính quan
trọng, cần có của pháp luật như: Báo cáo cạnh
tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới1;
Báo cáo về môi trường kinh doanh của Ngân
hàng thế giới. Hay chỉ số về sự chắc chắn/ổn
định của pháp luật của các nước châu Âu lục
địa gần đây - Index of Legal Certainty. [7]
Trong thực tiễn cũng có không ít các phê
bình chỉ trích được đưa ra đối với một số quốc
gia hoặc hệ thống pháp luật do thiếu đi sự ổn
định. Jan Cipiur, trong một nghiên cứu ngắn đã
phê bình pháp luật Ba Lan là hệ thống pháp luật
thiếu ổn định nhất ở châu Âu. [8] Điều này bắt
nguồn từ việc thống kê và so sánh cho thấy chỉ
riêng trong năm 2014 Ba Lan đã ban hành 1749
văn bản quy phạm pháp luật với tổng số trang
lên tới hơn hai mươi lăm ngàn trang giấy.
Brunnee và Toope cũng cho rằng luật quốc tế
gặp phải tình trạng thiếu ổn định do có quá
nhiều nguồn luật áp dụng từ ví dụ điển hình là
việc duy trì tính ổn định cho các điều ước quốc
tế phòng chống ma túy và các thuốc gây
nghiện. [9] Từ góc độ tài phán quốc gia, một số
học giả Mỹ cũng đã đặt ra vấn đề cần phải xây
dựng tính ổn định cho án lệ một trong các
nguồn luật quan trọng nhất của hệ thống Thông
luật trong hoạt động xét xử của thẩm phán. [10]
Thậm chí, đã có cả các nghiên cứu định lượng
sử dụng công cụ toán thống kê để tính xem việc
các tòa cấp cao hủy bỏ các bản án của tòa cấp
________
1Báo cáo này dùng từ “policy instability” (sự thiếu
ổn định trong chính sách) để đề cập tới hiện tượng
pháp luật không ổn định.
<
2017/05FullReport/TheGlobalCompetitivenessRepo
rt2016-2017_FINAL.pdf>.
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 23
dưới có thể dẫn đến sự bất ổn định trong án lệ
tại Mỹ như thế nào. [11]
Tuy được đề cập và khẳng định như một
thuộc tính quan trọng của pháp luật trong một
số nghiên cứu hàn lâm cũng như bắt đầu được
áp dụng như một tiêu chí để đánh giá pháp luật
trong các chỉ số, báo cáo thực tiễn, tính ổn định
- Stability lại chưa bao giờ được diễn giải và
minh họa một cách rõ ràng. Giống như Adam
Hill đã nhận định “chúng ta thiếu đi một kiến
giải mạch lạc tại sao sự ổn định lại là một yếu
tố cần thiết để để pháp luật có khả năng hướng
dẫn hành vi”. [5] Nhận định này có cơ sở cả về
lý thuyết lẫn thực tiễn. Về mặt lý thuyết, có thể
nói khái niệm tính ổn định của pháp luật chưa
bao giờ được định nghĩa rõ ràng cả về nội hàm
lẫn ngoại diên. Chức năng, vai trò của tính ổn
định trong mối liên hệ với pháp luật nói chung
cũng chưa được làm rõ, đặc biệt là trong tương
quan với các thuộc tích gần gũi và có khuynh
hướng chồng lấn khác như tính chắc chắn -
Certainty hay tính có thể dự đoán được -
Predictability. Đặc biệt, vai trò của tính ổn định
cũng không nhận được sự đồng thuận. Đây là
yêu cầu của pháp quyền, hay đó chỉ là một
thuộc tính đạo đức của pháp luật. Và quan trọng
nhất, tính ổn định của pháp luật là một khái
niệm tự mâu thuẫn: giữa giữ nguyên và nhu cầu
thay đổi. Chính việc thiếu kiến giải mạch lạc từ
góc độ lý thuyết này đã dẫn đến việc xây dựng
tiêu chí tính ổn định của pháp luật trên thực tế
và sử dụng nó để đánh giá và xây dựng sự ổn
định cho luật pháp trở nên khó khăn.
1. Nội hàm và chức năng của tính ổn định
của pháp luật
Thực tế, qua nghiên cứu kinh nghiệm và
thực tiễn quốc tế, tác giả của bài viết này chưa
tìm được một định nghĩa cũng như chức năng
chính thức nào về tính ổn định của pháp luật
trong cả các chuyên khảo hàn lâm lẫn nghiên
cứu thực tiễn. Từ các công trình lý thuyết,
Frederic Bastiat không đưa ra bất kỳ một giải
thích nào cho tuyên bố của mình về các nguyên
tắc của công lý liên quan đến tính ổn định của
pháp luật. Trong khi đó, Fuller, triết gia chủ
chốt trong việc biến tính ổn định trở thành một
trong tám thuộc tính căn bản của pháp luật cũng
không đưa ra một định nghĩa thuyết phục.
Thậm chí, trong phần lập luận ngắn ngủi dành
cho tính ổn định của pháp luật, Fuller còn thừa
nhận rằng tính ổn định qua thời gian là nguyên
tắc ít phù hợp nhất và rằng chả có cơ quan lập
hiến nào lại thiếu sáng suốt đến mức đưa ra một
hạn chế mang tính cứng nhắc không cho phép
sửa đổi hiến pháp trong thời gian nhất định. [2]
Điều đáng tiếc hoặc bất ngờ nhất là Fuller sau
đó lại đổi chủ đề khi không bàn về tính ổn định
của pháp luật mà lại bàn về hiệu lực hồi tố của
pháp luật. Cho dù đây đều là hai nguyên nhân
gây ra sự thiếu ổn định thì vẫn phải nói rằng
tính ổn định và hiệu lực hồi tố là hai vấn đề
khác nhau. [2, tr 80 - 81]
Điều này dẫn đến vấn đề thứ hai là vai trò,
vị trí của tiêu chí về tính ổn định của pháp luật,
đặc biệt trong tương quan với pháp quyền. Liệu
tính ổn định của pháp luật là một tiêu chí độc
lập, hay nó cũng chính là một nội hàm của tính
chắc chắn - Certainty hoặc là tính có thể dự
đoán được - Predictability, cũng là một yêu cầu
đối với pháp luật trong một chế độ pháp quyền.
[12] Hay tính ổn định và tính chắc chắn là các
yêu cầu khác nhau và rằng chức năng chính của
tính ổn định là gì? [13] Một mặt, như đã chỉ ra
ở trên một số học giả coi tính ổn định là một
tiêu chí độc lập đối với pháp luật và pháp
quyền, tồn tại song song và tách biệt với các
tiêu chí về tính chắc chắn hoặc tính có thể dự
đoán được. Mặt khác, nhiều học giả không coi
tính ổn định là yêu cầu độc lập. Dicey, Tom
Bingham là các ví dụ điển hình. Trong khi tính
chắc chắn và tính có thể dự đoán cũng được
khẳng định là một thuộc tính quan trọng của
pháp quyền. Tom Bingham, một trong các thẩm
phán vĩ đại nhất Vương quốc Anh thế kỷ 20
cũng khẳng định điều này trong chuyên luận
ngắn nhưng quan trọng của ông về Pháp quyền
trong khi ông không hề nhắc gì đến tính ổn định
- Stability. [14] Hơn thế nữa, các báo cáo đánh
giá, các chỉ số, các bảng xếp hạng về pháp luật
có tính đại diện đều không coi tính ổn định là
một tiêu chí, yêu cầu riêng của pháp luật. Thậm
chí, các báo cáo, đánh giá này đều coi tính ổn
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29
24
định là một nội dung của tính chắc chắn. Ổn
định chỉ là một nội dung rất nhỏ thuộc về tiêu
chí pháp luật công bằng trong Chỉ số pháp
quyền của World Justice Project. Ổn định cũng
chỉ là sự thể hiện của tính chắc chắn trong Chỉ
số chắc chắn của pháp luật - Index of Legal
Certainty. Tính ổn định cũng chỉ được xem là
một nội dung của tính chắc chắn trong các tiêu
chí đánh giá pháp quyền của Hội đồng Venice
thuộc Hội đồng châu Âu. [15] Cách tiếp cận
này cũng được tìm thấy trong không ít các báo
cáo, đánh giá hoặc chỉ số về pháp luật khác. Nó
không chỉ phản ánh sự thiếu đồng thuận trong
việc xác định vai trò và vị trí của yêu cầu về
tính ổn định của pháp luật mà còn gián tiếp cho
thấy sự khó khăn trong việc xây dựng các tiêu
chí, phương pháp cụ thể để đánh giá tiêu chí
này.
Một vấn đề quan trọng khác là trong khi
tính chắc chắn và có thể dự đoán được có chức
năng rõ ràng thì không tìm thấy một chức năng
tương tự cho tính ổn định từ góc độ lý thuyết.
Chắc chắn và có thể dự đoán được thực hiện hai
chức năng. Một, nó cho phép các chủ thể của
pháp luật có thể tự tin tham gia và các quan hệ
xã hội, hành xử phù hợp với các quy tắc pháp lý
và thứ hai là nó góp phần chống lại các hành vi
lạm quyền, sai trái của các công chức nhà nước
khi cho phép chủ thể bị áp dụng đánh giá được
hành vi của các công chức đó có đúng luật
không. [16] Báo cáo Chỉ số chắc chắn của pháp
luật – Index of Legal Certainty giải thích thêm
rằng sự chắc chắn thể hiện giá trị định tính của
của một hệ thống pháp luật xuất pháp từ yêu
cầu về chất lượng của quy phạm và chất lượng
của việc giải thích quy phạm. [7] Hội đồng
Venice dành một sự giải thích ngắn gọn cho
tiêu chí ổn định của pháp luật trong Tiêu chí
Pháp quyền của mình. Theo Hội đồng Venice,
tính bất ổn hoặc thiếu nhất quán có thể tác động
(tiêu cực) đến khả năng của chủ thể trong việc
dự liệu cho cách cư xử của mình. [15] Tuy
nhiên, Hội đồng cũng cảnh báo luôn rằng tính
ổn định không phải là một mục tiêu cuối cùng,
mục tiêu tự thân. Luật phải có khả năng thay
đổi khi hoàn cảnh thay đổi.
Qua sự giải thích này, có có nhận ra có
không ít điểm tương đồng giữa tính chắc chắn
và tính ổn định, thậm chí ổn định là một thuộc
tính của tính chắc chắn. Tiêu chí và chức năng
đặt ra đối với tính chắc chắn dường như cũng
có thể áp dụng một cách tương tự cho yêu cầu
đối với tính ổn định, tuy nhiên, dường như nó
cũng là hai. Sự thiếu rõ ràng này cũng gây
không ít khó khăn không chỉ cho việc xây dựng
cách hiểu thống nhất cho khái niệm pháp quyền
giống như Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã chỉ ra
nó còn gây khó khăn cho chính việc giải thích
và phân tách các khái niệm có liên quan đặc
biệt là thuật ngữ tính ổn định của hệ thống pháp
luật. [16] Bất chấp số lượng không nhiều các
luận điểm khoa học và ứng dụng thực tiễn về
tính ổn định của pháp luật, người đọc có quyền
nghi ngờ liệu tính ổn định của pháp luật có thật
sự là một đòi hỏi chính đáng đối với pháp luật
trong nền pháp quyền hay không? Hay đó chỉ là
một biểu hiện của tính chắc chắn và có thể dự
đoán được.
2. Ổn định hay có khả năng thay đổi: mâu
thuẫn của luật pháp.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất trong việc
hiểu và áp dụng tiêu chí tính ổn định của pháp
luật nằm trong chính mâu thuẫn tự thân của yêu
cầu này. Mỗi khi bàn luận về chủ đề tính ổn
định của pháp luật thì ý kiến của Thomas
Jefferson trong bức thư gửi cho Samuel
Kercheval lại được trích dẫn để làm nổi bật lên
nội hàm căn bản cũng như tính tự mâu thuẫn và
khó khăn của khái niệm. Quả thật, trong khi
khái niệm ổn định thường được diễn đạt dưới
một số thuật ngữ như Stability, Constancy hoặc
thậm chí là một khía cạnh của tính chắc chắn -
Certainty hoặc tính có thể dự đoán được -
Predictability thì nội hàm của khái niệm lại
thường được xác định thông qua cái không phải
là nó; tức là sự thay đổi. Nói cách khác, ổn định
là ít thay đổi. [2, 79] Jefferson nhấn mạnh điều
này trong bức thư của ông khi ông nói rằng ông
không phải là người ủng hộ cho việc thay đổi
pháp luật một cách thường xuyên, thiếu kiểm
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 25
nghiệm. Thậm chí, ông còn cho rằng những
khiếm khuyết vừa phải thì không cần phải thay
đổi vì các chủ thể pháp luật sẽ biết cách tự điều
chỉnh và bổ khuyết cho các khiếm khuyết đó
trên thực tế. Tuy nhiên, mặt khác Jefferson
cũng khẳng định rằng luật pháp và thể chế phải
song hành với sự phát triển của nhân loại. Và
mỗi khi các điều kiện xã hội, chính trị, kinh tế
thay đổi, khi các phát minh mới được tạo ra thì
các quy tắc điều chỉnh cũng phải được thay đổi
theo.
Và dường như tất cả các học giả đều tiếp
bước Jefferson trong việc tiếp cận nước đôi
này. Fuller cũng thừa nhận chuyện đó khi ông
khẳng định sẽ là thiếu khôn ngoan khi đặt ra
các quy định cứng nhắc ngăn cản việc thay đổi
luật pháp. Roscoe Pound chia sẻ và nói rằng
trong khi luật phải ổn định thì nó cũng không
thể đứng yên một chỗ mãi được. Do đó, mọi
thảo luận về luật đều sẽ chỉ tìm cách hài hòa hai
yêu cầu xung đột nhau về việc giữ ổn định pháp
luật và nhu cầu phải thay đổi. [17] Các báo cáo
đánh giá, các nghiên cứu thực tiễn, các chỉ số
có đề cập đến tính ổn định của pháp luật đều
cho rằng một mặt phải đảm bảo tính ổn định
của pháp luật để bảo vệ cho các chủ thể, các đối
tượng bị pháp luật điều chỉnh nhưng mặt khác
tính ổn định không phải là mục tiêu cuối cùng,
tự thân. Phải đảm bảo cho sự thay đổi diễn ra
phù hợp với sự thay đổi của các điều kiện bên
ngoài như kinh tế, xã hội, chính trị, công nghệ.
Emilios Christodoulidis cố gắng đưa ra một
luận giải từ góc độ triết học pháp luật cho sự
song hành giữa ổn định và thay đổi này. Bắt
nguồn từ góc nhìn rằng không thể hiểu được
chức năng của luật trong việc ổn định các mong
đợi (Expectations) của xã hội nếu chúng ta
không bắt đầu từ góc độ cái gì đã trao cho luật
cơ hội để thực hiện chức năng đó? Ông đã đi
đến giới thiệu lý thuyết của Luhmann về vai trò
của xung đột và thay đổi. Chính xung đột và
thay đổi đã cho phép luật pháp xác định ranh
giới và chức năng của mình trong xã hội. [18, tr
129 - 135] Và do đó, bất ổn định là yếu tố tự
thân tồn tại trong mọi hệ thống. Bởi vì hệ thống
nào cũng có tính năng động, nhất thời và tồn tại
trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy,
khả năng và năng lực của một hệ thống trong
việc phản ứng, thích ứng và phát triển trong
một môi trường thay đổi phụ thuộc rất nhiều
vào việc bất ổn định. Chính từ đây, ông đề xuất
việc tách bạch các khái niệm ổn định/bất ổn
định và bất biến/thay đổi. Quan trọng nhất bất
ổn định không phải là thay đổi. Tuy nhiên, giải
thích này của giáo sư Emilos quá trừu tượng và
phức tạp để có thể diễn giải và áp dụng trên
thực tế dưới các điều kiện thông thường. Cùng
lắm, nó sẽ giúp cho việc định hướng tư duy và
phân tích mà thôi.
3. Một số nỗ lực và phương pháp bảo đảm
tính ổn định của pháp luật trên thế giới
Không khó để đọc và tìm kiếm các ví dụ
đơn lẻ phê bình sự thiếu ổn định của pháp luật
tại một số nước trên thế giới. Ví dụ như ở Ba
Lan, hoạt động lập pháp bị chỉ trích là đã mất
kiểm soát giống như là bị bệnh tả vậy. [8] Có
quá nhiều văn bản đã được ban hành với độ dài
quá lớn. Cách hành văn thì tối tăm, khó hiểu
đến mức mà người soạn thảo không xứng đáng
để tốt nghiệp trung học phổ thông (chứ đừng
nói gì đến việc viết luật). Ở Mỹ, chỉ trích hướng
tới việc thiếu ổn định trong nguồn án lệ nơi các
tòa án cấp cao thường xuyên hủy bỏ bản án của
tòa án cấp dưới làm cho luật pháp trở nên bất
ổn với các chủ thể. [10] Từ góc độ luật so sánh,
tính ổn định, chắc chắn cũng đang bị thách thức
ở nhiều lĩnh vực nhất là các lĩnh vực quan trọng
như dân sự và hình sự. [19] Hiến pháp hay môi
trường cũng không phải là ngoại lệ. [20] Luật
quốc tế, một lĩnh vực cũng tương đối lâu đời và
có tính hợp tác cao cũng không thoát khỏi tác
động của sự bất ổn định. Luật giáo dục cũng có
phê bình tương tự. [21]
Tuy nhiên, điều đáng tiếc là các chỉ trích và
phân tích về sự bất ổn, thay đổi thất thường,
tiêu cực của pháp luật thì nhiều, nhưng giải
pháp, cách thức để xử lý sự bất ổn đó lại ít. Đa
số các nghiên cứu chỉ mới chỉ dừng lại ở việc
chỉ ra và xác định là có tồn tại sự bất ổn định.
Có lẽ chính do sự phức tạp, mâu thuẫn, chưa rõ
ràng của tiêu chí, yêu cầu về tính ổn định của
pháp luật nên đã dẫn đến sự thiếu thốn trong
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29
26
các nghiên cứu và thực tiễn xây dựng giải pháp
và áp dụng triển khai các giải pháp này trong
các hoạt động xây dựng, thực thi và giải thích
pháp luật. Có một số cố gắng nỗ lực ít ỏi trong
việc đề xuất một số giải pháp, phương pháp để
ổn định pháp luật hay thực ra là thay đổi một
cách tiêu cực có thể được liệt kê và phân tích ở
dưới đây.
Ở góc độ luật so sánh và toàn cầu, Hội đồng
Venice đưa ra hai điều kiện và hai câu hỏi để
tiến hành thay đổi pháp luật. Về điều kiện, sự
thay đổi phải (i) nhận được sự góp ý và tham
vấn của công chúng và (ii) không được tác động
tiêu cực, hồi tố đến các trông đợi (Expectations)
hợp pháp của chủ thể. Hai câu hỏi có thể sử
dụng để đánh giá tính ổn định là: (i) luật pháp là
ổn định cho đến mức độ mà việc thay đổi phải
được đi kèm với những thông báo và hướng dẫn
cụ thể (Fair warning); và (2) liệu các quy định
của pháp luật đã được áp dụng một cách thống
nhất? [15] Điều thú vị là các phương pháp đánh
giá này được kết nối trực tiếp tới tiêu chí về bảo
đảm sự kỳ vọng, trông đợi hợp pháp của các đối
tượng bị pháp luật điều chỉnh. Theo nguyên tắc
này, những người đã hành xử một cách thiện
chí và ngay tình đúng với các quy định của
pháp luật thì không nên phải gánh chịu các hậu
quả do sự thay đổi pháp luật gây ra. Nó cũng
hàm ý đòi hỏi các công chức thực thi pháp luật
không chỉ phải tuân thủ pháp luật trong quá
trình thực hiện quyền hạn của mình mà còn
phải giữ đúng lời hứa, cam kết phù hợp với
trông đợi hợp pháp của các đối tượng bị điều
chỉnh. Hội đồng Venice cũng đã thử áp dụng
tiêu chí này để giải thích một quy định trong Bộ
tiêu chuẩn thực hành tốt về bầu cử - The Code
of good practice in electoral matters. Bộ tiêu
chuẩn có đề ra một quy định rằng các yếu tố cơ
bản, nền tảng của luật bầu cử ví dụ các ủy viên
ủy ban bầu cử hoặc phương pháp xác định khu
vực bầu cử không nên được thay đổi trong thời
hạn một năm trước khi cuộc bầu cử diễn ra.
[15] Trong lĩnh vực pháp luật quốc tế, các học
giả luật quốc tế đã cố gắng ổn định pháp luật
thông qua việc pháp điển hóa nguồn luật quốc
tế và các điều ước quốc tế, làm cho chúng trở
nên dễ tiếp cận và giải thích hơn. [4]
Một thực tiễn khác cũng mới xuất hiện gần
đây liên quan đến việc sử dụng các điều khoản
ổn định pháp luật - Legal Stability Agreement
trong các hiệp định bảo hộ đầu tư - Investment
Protection Agreement hoặc trong các thảo thuận
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giữa chính
phủ một quốc gia và một công ty nước ngoài
đầu tư vào quốc gia đó. Trong một trong những
khảo cứu chi tiết nhất mới được xuất bản gần
đây, Jola Gjuzi đã nêu và phân tích hàng chục
thỏa thuận đầu tư đi kèm với các điều khoản
yêu cầu phải ổn định pháp luật. [22] Điều
khoản này đã phát triển một cách mạnh mẽ từ
một điều khoản “đóng băng” với nghĩa là các
điều khoản được quy định trong các hợp đồng
chính phủ ký kết giữa các nhà đầu tư nước
ngoài với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư với
mục tiêu “đóng băng” hệ thống pháp luật của
quốc gia tiếp nhận đầu tư tại một thời điểm nhất
định, làm cho bất kỳ sự thay đổi pháp luật nào
liên quan đến dự án đầu tư có liên quan đều trở
thành bất hợp pháp (kể cả khi các sửa đổi đó áp
dụng chung và không có bất kỳ sự phân biệt đối
xử nào)” [23] trở thành điều khoản tổng quát
xác lập “tất cả các cơ chế, theo hợp đồng hoặc
các quy định khác, có mục tiêu duy trì trong
suốt thời hạn của hợp đồng (đầu tư) các lợi ích
kinh tế và pháp luật cụ thể mà các bên cho là
phù hợp tại thời điểm giao kết hợp đồng. [24, tr
73] Các điều khoản này được biện hộ là một
công cụ quan trọng giúp cho các nhà đầu tư
nước ngoài quản trị rủi ro khi đầu tư vào một
quốc gia, đặc biệt trong các dự án dài hạn, quy
mô lớn và thời gian thu hồi vốn dài. Tuy nhiên,
các điều khoản này cũng gây ra không ít quan
ngại xuất phát từ góc độ quyền con người và
phát triển bền vững của các quốc gia tiếp nhận
đầu tư: không ít nghiên cứu, báo cáo đã chỉ ra
sự xung đột và khả năng tác động tiêu cực của
các điều khoản ổn định pháp luật này lên các
nghĩa vụ bảo vệ quyền người và nỗ lực đạt
được các mục tiêu phát triển bền vững. [25]
Ở góc độ quốc gia và các lĩnh vực pháp luật
trong nước, các học giả của mỗi quốc gia tùy
thuộc vào đặc điểm, cấu trúc, kỹ thuật pháp lý
của nước mình lại đề xuất các giải pháp cụ thể
khác nhau cho từng lĩnh vực. Ví dụ như ổn định
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 27
cách tiếp cận và xét xử để bảo đảm tính ổn định
của án lệ ở Mỹ. Xây dựng và áp dụng thống
nhất các nguyên tắc khái niệm chung ví dụ như
trong lĩnh vực luật giáo dục. [26] Hay là tăng
cường năng lực cho cơ quan và các chuyên gia
lập pháp như ở Ba Lan.
Một số học giả thì đề xuất một số biện pháp
có tính cấp tiến hơn, đòi hỏi việc thay đổi hoàn
toàn cách tiếp cận, cách hiểu về pháp luật trước
khi có thể xây dựng được các tiêu chí và
phương pháp bảo đảm sự ổn định của luật. Một
số khác lại gợi ý từ góc độ thể chế và quản trị
để thông qua đó đảm bảo tính ổn định của
luật. [5]
Tuy nhiên, có vẻ như các khuyến nghị,
phương pháp này chưa nhận được sự đồng
thuận và áp dụng rộng rãi của cộng động quốc
tế. Điều này cũng là dễ hiểu bởi các lý do đã
phân tích ở trên.
4. Trở về với ý tưởng ban đầu: một khuyến
nghị dựa trên kỹ thuật pháp lý cho Việt Nam.
Với sự mâu thuẫn, thiếu rõ ràng và khó áp
dụng của thuật ngữ như vậy. Với thực tiễn ít ỏi,
không thành công của các khuyến nghị, phương
pháp đã được đề xuất để đảm bảo tính ổn định
của pháp luật trên thế giới, liệu có thể phân tích
và đề xuất một cách tiếp cận mới, một phương
pháp để đảm bảo tính ổn định của pháp luật nói
chung hay không? Tác giả cho rằng có thể nếu
chúng ta quay trở lại với các vấn đề nền tảng
của vấn đề và xuất phát từ chính mâu thuẫn nội
tại và nhu cầu chính đáng của pháp luật. Nói
cách khác, thay vì hỏi làm sao để đảm bảo tính
ổn định của pháp luật, chúng ta nên đặt câu hỏi
làm thế nào để pháp luật thay đổi một cách tích
cực và phù hợp. Xuất phát từ cách tiếp cận này
chúng ta lại quay trở lại với chính các nhận
định kinh điển về sự mâu thuẫn giữa giữ và
thay đổi của Jefferson, Fuller, Bingham và các
học giả khác và dựa trên chức năng chung của
luật pháp về tính công khai, có thể tiếp cận
được, có thể áp dụng được, chắc chắn và có thể
dự đoán được. Mục tiêu cuối cùng chính là bảo
đảm các yêu cầu của pháp quyền về sự bình
đẳng, bảo vệ quyền của mỗi chủ thể.
Thứ nhất, chúng ta cần phân loại tác nhân
của sự thay đổi. Nếu tác nhân thay đổi đến từ
bên ngoài, ví dụ như là do thay đổi về kinh tế,
chính trị, văn hóa thì nó nằm ngoài tầm kiểm
soát của các nhà luật học. Luật pháp bắt buộc
phải thay đổi cho phù hợp với bối cảnh mới.
Còn nếu sự thay đổi xuất phát từ các tác nhân
bên trong như triết lý, phương pháp, thuật ngữ,
quy trình làm luật, phương áp áp dụng và giải
thích pháp luật thì chúng ta cần phải chủ động
đánh giá xem có cần phải sửa đổi, bổ sung pháp
luật cho phù hợp không?
Thứ hai, nếu tác nhân thay đổi đến từ bên
trong hệ thống thì chúng ta lại tiếp tục xem xét
và phân loại nó thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất
là các tác nhân không quan trọng. Đó chính là
các sai sót, khiếm khuyết đơn giản mà Jefferson
đã chỉ ra. Các sai sót, khiếm khuyết này không
gây ra các vấn đề quá lớn, không gây ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể. Không khiến cho các chủ thể mất khả
năng dự liệu và các kỳ vọng hợp lý vào pháp
luật trong việc hành xử thì không cần phải sửa.
Nhưng nếu đó là các sai sót, khiếm khuyết lớn,
tức là các yếu tố tác động trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, có thể
khiến các chủ thể mất đi khả năng hành xử theo
đúng kỳ vọng vào pháp luật thì cần phải đặt ra
vấn đề sửa đổi một cách thận trọng và hợp lý. Ở
đây, có lẽ các nhà làm luật nên xây dựng cấu
trúc theo đó với các quy định xác lập, bảo vệ
hoặc hạn chế các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
các chủ thể thì chỉ được quy định trong các văn
bản từ luật do Quốc hội ban hành trở lên. Và do
đó, các quy định hướng dẫn thực thi các quyền
này thì có thể được quy định trong các văn bản
lập quy. Làm như thế này sẽ đảm bảo việc sửa
đổi được diễn ra phù hợp, ít tác động nhất.
Hoặc nếu có phải sửa đổi thì sẽ đảm bảo chất
lượng cao nhất vì phải tuân theo các quy trình
khác nhau với các điều kiện đảm bảo chất
lượng khác nhau.
Thứ ba, xây dựng các quy trình lập pháp
phù hợp cho từng yêu cầu sửa đổi theo từng
mức độ như đã nêu ở trên. Tức là với các sửa
đổi, bổ sung đơn giản, không liên quan đến
quyền và lợi ích của các chủ thể có thể áp dụng
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29
28
quy trình đơn giản, rút gọn hay còn gọi là sửa
đổi - Revision. Còn đối với các yếu tố quan
trọng tác động đến quyền và lợi ích của các chủ
thể thì cần phải tiến hành theo quy trình đầy đủ,
phức tạp hay còn gọi là cải cách - Reform. Với
quy trình cải cách pháp luật một khuyến nghị là
quy trình lập pháp có thể tham khảo quy trình
chặt chẽ, khoa học về cải cách pháp luật do
Hiệp hội các cơ quan cải cách pháp luật của
Khối thịnh vượng Chung ban hành. [27] Quy
trình này đã giới thiệu các vấn đề mà cơ quan
cải cách pháp luật cần phải chú ý, thực hiện từ
khâu nghiên cứu, tham vấn, soạn thảo, thảo
luận và ban hành để đảm bảo điều luật mới có
chất lượng cao nhất và do đó phù hợp nhất với
xã hội. Đảm bảo cho tính ổn định của điều luật
trong thời gian dài nhất có thể. Hướng dẫn cũng
nêu ra các vấn đề cần phải chú ý liên quan tới
năng lực, chuyên môn, và các nguồn lực khác
cần thiết để đảm bảo cho việc cải cách diễn ra
được thành công.
Thứ tư, chú ý đến sự đặc thù về cấu trúc
pháp luật, tư duy pháp lý và kỹ thuật pháp lý
mà mỗi quốc gia chịu ảnh hưởng cũng như đạo
luật đang dự định sửa đổi bổ sung. Mỗi nền tài
phán quốc gia thường sẽ được đặc trưng hoặc
chịu ảnh hưởng bởi một hệ thống pháp luật, tư
duy và kỹ thuật pháp lý nhất định. Ví dụ như hệ
thống dân luật vốn dựa chịu ảnh hưởng của tư
duy pháp luật thực định và sử dụng kỹ thuật
diễn dịch hay hệ thống thông luật vốn cởi mở
hơn và chấp nhận cả tư duy pháp luật tự nhiên
với kỹ thuật quy nạp. Chú ý đến các yếu tố này
sẽ giúp cho việc lựa chọn giải pháp pháp lý mới
phù hợp với hệ thống chung và do đó đảm bảo
khả năng thành công.
Thứ năm, cần phải chú ý đến cả lĩnh vực
pháp luật đang muốn sửa đổi như luật công hay
luật tư, dân sự hay hình sự hay hỗn hợp. Các
lĩnh vực này có các chức năng và đôi khi vận
hành theo các nguyên tắc, điều kiện khác nhau.
Luật dân sự là luật của tự do ý chí trong khi
hình sự là luật của mệnh lệnh. Do đó, sửa luật
dân sự nên làm sao đảm bảo chức năng hỗ trợ
của điều luật trong khi sửa luật hình sự thì phải
tôn trọng các nguyên tắc nền tảng.
Thứ sáu, nên chú ý đến cả vấn đề về ngôn
ngữ và cách hành văn khi sửa luật. Ít nhất, phải
đảm bảo rằng ngôn ngữ sử dụng chuẩn mực, dễ
hiểu đối với những người thực hành và giải
thích luật.
Thứ bảy, có thể vận dụng các kỹ thuật hỗ
trợ khác để làm cho luật dễ tiếp cận, dễ hiểu và
do đó giảm thiểu khả năng xung đột mâu thuẫn.
Ví dụ như pháp điển hóa (nội dung và hình
thức), hợp nhất văn bản.
Thứ tám, cuối cùng có thể cở mởi học hỏi
kinh nghiệm nước ngoài khi cải cách, sửa đổi
một điều khoản cụ thể. Đặc biệt chú ý học cả sự
thất bại của họ vì đôi khi chính sự thất bại lại
dạy cho chúng ta nhiều kiến thức hơn sự thành
công.
Tài liệu tham khảo
[1] Frédéric Bastiat, The Law (Cosimo, Inc 2010).
[2] Lon Luvois Fuller, The Morality of Law, Vol 152
(Yale University Press 1969).
[3] Joseph Raz, The Authority of Law: Essays on
Law and Morality (Oxford University Press on
Demand 2009).
[4] Jutta Brunnée and Stephen J Toope, International
Law and the Practice of Legality: Stability and
Change (2018) 49 Victoria U. Wellington L. Rev.
429.
[5] Adam Hill, Stability, Assurance, and the Concept
of Legal Guidance’ (2015) 34 Law and
Philosophy 141
[6] World Justice Project, WJP Rule of Law Index
2019 <https://worldjusticeproject.org/our-
work/research-and-data/wjp-rule-law-index-
2019> accessed 2 June 2019.
[7] Fondation pour le droit continental, Index of
Legal Certainty 2015 <https://www.fondation-
droitcontinental.org/en/index-legal-certainty/>
accessed 2 June 2019.
[8] Jan Cipiur, Polish Law Is the Most Unstable in the
European Union, Central European Financial
Observer
<https://financialobserver.eu/poland/polish-law-
is-the-most-unstable-in-the-european-union/>
accessed 2 June 2019.
[9] Martin Jelsma and others, Balancing Treaty
Stability and Change: Inter Se Modification of the
UN Drug Control Conventions to Facilitate
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 29
Cannabis Regulation, Swansea: Global Drug
Policy Observatory (2018) <https://www. tni.
org/files/publication/downloads/balancing_treaty_
stability_and_change. pdf>
[10] Martin Shapiro, Stability and Change in Judicial
Decision-Making: Incrementalism or Stare
Decisis (1965) 2 Law Transition Q. 134.
[11] Nicola Gennaioli & Andrei Shleifer, Overruling
and the Instability of Law (2007) 35 Journal of
Comparative Economics 309.
[12] Danilo Zolo, ‘The Rule of Law: A Critical
Reappraisal’, The Rule of Law History, Theory
and Criticism (Springer 2007).
[13] Jeremy Waldron, ‘The Rule of Law’ in Edward N
Zalta (ed), The Stanford Encyclopedia of
Philosophy (Fall 2016, Metaphysics Research
Lab, Stanford University 2016)
<https://plato.stanford.edu/archives/fall2016/entri
es/rule-of-law/> accessed 3 June 2019.
[14] Tom Bingham, The Rule of Law (Penguin UK
2011)
[15] Council of Europe, Venice Commission,
<https://www.venice.coe.int/webforms/documents
/?pdf=CDL-AD(2016)007-e> accessed 3 June
2019.
[16] James R Maxeiner, Some Realism about Legal
Certainty in the Globalization of the Rule of Law,
(2008) 31 Hous. J. Int’l L. 27.
[17] Roscoe Pound, Interpretations of Legal History
(Cambridge University Press 1967).
[18] Emilios A Christodoulidis, Law and Reflexive
Politics, vol 35 (Springer Science & Business
Media 2001).
[19] Mark Fenwick and Stefan Wrbka, Legal Certainty
in a Contemporary Context: Private and Criminal
Law Perspectives (Springer 2016).
[20] Robin Kundis Craig and others, Balancing
Stability and Flexibility in Adaptive Governance:
An Analysis of Tools Available in US
Environmental Law, (2017) 22 Ecology and
society Journal.
[21] Newton Edwards, Stability and Change in Basic
Concepts of Law Governing American Education,
(1957) 65 The School Review 161.
[22] Jola Gjuzi, Stabilization Clauses in International
Investment Law : A Sustainable Development
Approach, (2018).
[23] Total S.A. v. The Argentine Republic, ICSID
Case No. ARB/04/01, Decision on Liability, 27
Dec 2010 [“Total v. Argentina, Liability, 2010”],
para. 101
[24] Cameron, Peter D., and Graham Kellas, Contract
Stability and Fiscal Stability: Rhetoric and
Reality, (2008) Wood Mackenzie/CEPMLP at the
Association of International Petroleum
Negotiators (AIPN) International Conference in
Edinburgh.
[25] Amnesty International UK, Human Rights on the
Line: The Baku-Tbilisi-Ceyhan Pipeline
Project, (2018).
[26] Jill E Fisch, Retroactivity and Legal Change: An
Equilibrium Approach, (1996) 110 Harv. L. Rev
1055.
[27] Commonwealth Secretariat, Changing the Law: A
Practical Guide to Law Reform (Commonwealth
Secretariat 2017).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_on_dinh_cua_phap_luat_ly_thuyet_kinh_nghiem_quoc_te_va.pdf