Việc tính toán dòng triều bằng phương
pháp FEM thông thường có kết quả cao hơn
phương pháp FDM, nguyên nhân là do phương
pháp FEM có thể chi tiết hóa hệ thống dòng tại
các khu vực sát bờ (biên cứng lục địa - biển),
tại các vị trí có sự thay đổi mạnh của địa hình
đáy hoặc tại các vị trí có độ sâu phức tạp gây ra
các hiệu ứng cục bộ (địa phương) của hệ thống
dòng chảy
Từ các kết quả tính toán dòng triều tại đầm
Bấy cho thấy các đặc điểm sau:
Dòng triều chiếm ưu thế trong khu vực
nghiên cứu (70 - 80% dòng chảy tổng cộng).
Tại thời điểm triều xuống dòng chảy có
thể đạt cực đại 22,9 cm/s tại độ sâu 19,2 m.
Tại thời điểm triều lên dòng chảy có thể
đạt cực đại 19,4 cm/s tại độ sâu 1,0 m.
Luồng chính của dòng triều lên, xuống
nằm dọc theo khu vực gần bờ phía Đông của
đầm. Sai lệch giữa các kết quả tính toán dự báo
và kết quả đo đạc thực địa là có thể chấp nhận
được (do điều kiện thiết bị, trạm đo ). Kết
quả tính toán mực nước triều dự báo và đo đạc
thực địa có sai số lớn nhất là 19,1 cm, trung
bình là 10 cm và nhỏ nhất là bằng 0 (thể hiện
trên bảng 1).
Dòng triều trên toàn vùng nghiên cứu
tương đối yếu các khu vực dòng triều trung
bình và mạnh chỉ chiếm tối đa 5% diện tích khu
vực nghiên cứu.
Với các định hướng quy hoạch, khai thác
hợp lý và phát triển bền vững thì việc xác định
khả năng trao đổi nước, tính toán sức tải, xem
xét các tác động của tai biến thiên nhiên, các
rủi ro về môi trường sinh thái khi khai thác sử
dụng thủy vực này là rất cần thiết
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính toán dòng chảy triều tại khu vực đầm bấy (vịnh Nha Trang) bằng phương pháp phần tử hữu hạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
332
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 4; 2014: 332-340
DOI: 10.15625/1859-3097/14/4/5819
TÍNH TOÁN DÒNG CHẢY TRIỀU TẠI KHU VỰC ĐẦM BẤY (VỊNH
NHA TRANG) BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHẦN TỬ HỮU HẠN
Bùi Hồng Long*, Trần Văn Chung
Viện Hải dương học-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
*E-mail: buihonglongion@gmail.com
Ngày nhận bài: 24-6-2014
TÓM TẮT: Hiện nay các hoạt động kinh tế xã hội đang phát triển mạnh ở khu vực đầm Bấy và
các khu vực đảo, vùng nước lân cận trong vịnh Nha Trang. Các hoạt động điều tra khảo sát, nghiên
cứu, tính toán các yếu tố môi trường, sinh thái, thủy văn, động lực học cho khu vực này trở nên hết
sức cấp bách và cần thiết phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Chúng ta
biết rằng việc mô phỏng, tính toán trường dòng chảy trong khu vực là không hề đơn giản do sự có
mặt của các đảo, địa hình đáy và đường bờ ở đây khá phức tạp. Để khắc phục các khó khăn trên
trong quá trình mô phỏng trường dòng chảy chúng tôi đã tập trung vào việc xử lý và chi tiết hóa
các điều kiện biên và các tư liệu đầu vào cho bài toán thủy động lực. Việc sử dụng phương pháp
phần tử hữu hạn (FEM) để tính toán dòng triều đã góp phần giải quyết các khó khăn (hạn chế của
phương pháp) mà các phương pháp sai phân hữu hạn (FDM) đang dùng phổ biến hiện nay trong
việc tính toán dòng chảy. Các kết quả nghiên cứu cho thấy có sự phù hợp tương đối tốt giữa các kết
quả tính toán dòng triều bằng phương pháp FEM và các kết quả khảo sát. Từ việc so sánh các kết
quả tính toán và số liệu khảo sát rút ra một số nhận định sau:
Dòng triều đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống dòng chảy của khu vực nghiên cứu.
Trong pha triều xuống dòng triều có thể đạt 22,9 cm/s hướng Đông Nam trên tầng sâu 19,2 m.
Trong pha triều lên dòng triều có thể đạt 19,4 cm/s hướng Tây Bắc trên tầng mặt.
So sánh các kết quả tính toán mực nước triều dự báo và đo đạc thực địa cho thấy sai số lớn
nhất là 19,1 cm, trung bình là 10 cm và nhỏ nhất là bằng 0.
Từ khóa: Dòng triều, phần tử hữu hạn (FEM), đầm Bấy, vịnh Nha Trang.
MỞ ĐẦU
Phương pháp phần tử hữu hạn được phát
triển từ những năm 1950 - 1960 để giải quyết
các vấn đề về cơ học đàn hồi, kết cấu và sức
bền vật liệu. Sau này phương pháp được phát
triển cho các ứng dụng khác, đặc biệt là các quá
trình vật lý được thể hiện bằng hệ các phương
trình vi phân đạo hàm riêng. Về mặt lý thuyết
phương pháp phần tử hữu hạn được mô tả khá
chi tiết bởi Zienkiewicz (1977) và Johnson
(1990) [1, 2]. Các ứng dụng thành công phương
pháp phần tử hữu hạn trong nghiên cứu hải
dương học bắt đầu từ những năm 1970 để tính
toán dòng triều bởi các tác giả như Connor and
Wang (1973), Walters and Werner (1989), Le
Provost and Vincent (1986) [3-5] Phương
pháp phần tử hữu hạn dùng để tính toán và mô
phỏng các mô hình hoàn lưu đã được phát triển
bởi các tác giả Fix (1975), Haidvogel et al
(1980), Myers and Weaver (1995), Iskandarani
et al (1995), Haidvogel et al (1997), Wunsch et
al (1997), Taylor et al (1997), Levin et al
(1997,2006), Curchitser, E.N et al (1996) [6-
Tính toán dòng chảy triều tại khu vực
333
12]. Sử dụng phương pháp phần tử hữu để giải
quyết các bài toán thủy động lực cho vùng
nước nông được phát triển bởi Behrens (1996,
1998), Le Roux et al. (1998), Giraldo F. X.
(2000), Giraldo, F. X. et al (2008) [13-16].
Ban đầu phương pháp sai phân hữu hạn
(FDM) được sử dụng rộng rãi cho việc tính
toán trường dòng chảy đại dương và biển bởi vì
tính đơn giản và không cần sử dụng các công
cụ tính toán có cấu hình mạnh. Với sự phát
triển nhanh của khoa học, công nghệ các mô
hình sai phân cần sử dụng một số lượng rất lớn
ô lưới (đặc biệt với các biên di động, biên có độ
sâu thay đổi, dịch chuyển theo thời gian).
Trong thực tế sự thay đổi các ô lưới này rất hạn
chế do đặc điểm về mặt hình học (hình chữ
nhật hoặc vuông không đổi). Do tính chất
không mềm dẻo của các ô lưới tính cho nên các
kết qủa tính cho các vùng có địa hình phức tạp
(mặc dù đã được cải tiến như hệ thống lưới
lồng, biên di động) vẫn cho các kết quả không
thực sự mỹ mãn. Phương pháp phần tử hữu hạn
(FEM) ra đời có thể khắc phục được các hạn
chế của phương pháp sai phân hữu hạn (FDM).
Nó có thể giải quyết tốt các bài toán thủy động
cho vùng nước nông với hệ thống ô lưới biến
đổi linh động về mặt hình học và đặc biệt là có
thể tính toán với hệ thống ô lưới phi cấu trúc
đáp ứng cho các khu vực địa hình đáy phức tạp.
Hiện nay các hoạt động kinh tế xã hội
đang phát triển mạnh ở khu vực đầm Bấy và
các khu vực đảo, vùng nước lân cận trong vịnh
Nha Trang. Các hoạt động điều tra khảo sát,
nghiên cứu, tính toán các yếu tố môi trường,
sinh thái, thủy văn, động lực học cho khu vực
này trở nên hết sức cấp bách và cần thiết phục
vụ cho công tác bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Chúng ta biết rằng việc mô
phỏng, tính toán trường dòng chảy trong khu
vực đầm Bấy (vịnh Nha Trang) là không hề
đơn giản do sự có mặt của các đảo, địa hình
đáy, đường bờ khá phức tạp.
Chính vì các nguyên nhân trên chúng tôi đã
sử dụng phương pháp phần tử hữu hạn (FEM)
để tính toán hệ thống dòng triều cho khu vực
nghiên cứu.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của Bùi
Hồng Long và Trần văn Chung (2004, 2005,
2006) [17-20] chúng tôi đã bổ sung và hoàn
chỉnh thêm các phương pháp xử lý biên, các tài
liệu đầu vào cho nghiên cứu này.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Phương pháp FEM giải hệ phương trình
thủy động lực.
Các phương trình nước nông
Các phương trình nước nông được dùng để
mô tả các quá trình thủy động lực ở vùng cửa
sông, các thủy vực ven bờ Hệ các phương
trình chủ đạo bao gồm các phương trình liên
tục và động lượng. Để đơn giản hóa các
phương trình này. Chúng ta chấp nhận các giả
định sau:
Mật độ nước không đổi.
Áp suất thẳng đứng là thủy tĩnh.
Chuyển động ngang (bình lưu) lớn hơn
nhiều so với chuyển động thẳng đứng (đối lưu).
Khi đó chúng ta có:
Phương trình liên tục :
0=⋅∇+
∂
∂
vH
t
H
(1)
Phương trình động lượng ngang :
H
W
vv
H
c
gvvvf
t
v d
=+∇+∇⋅+×+
∂
∂ ζ (2)
Ở đây v
: vận tốc trung bình theo phương thẳng
đứng (m/s), t: thời gian (s), ∇: Toán tử Gradient
ngang, ζ độ cao mực nước trên bề mặt biển so
với mực nước tĩnh (m), g : gia tốc trọng trường
(m/s2), f
: lực Coriolis (s-1), cd: hệ số ma sát
đáy, H: độ sâu tổng cộng của cột nước (m) (Khi
mực nước nâng lên:
)(
0
0
ξ
ζ
+=+= ∫∫
−
HdzdzH
H
;
Khi mực nước hạ xuống: )( ξ
ζ
−== ∫
−
−
HdzH
H
);
và h độ sâu của điểm tính (m).
Tính toán dòng chảy triều
Dao động triều được mô tả bằng các
chuyển động tại các nút trên các biên hở.
Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung
334
Chúng ta chọn hàm lực tạo triều tổng cộng
và sử dụng các điều kiện biên Dirichlet, trong
hệ phương trình sau các chuyển động triều
được thể hiện qua tập hợp các dao động thành
phần [20]:
[ ] ( )∑
−++−⋅⋅+=
k
kkkkk gtutVttAtfZtz 180)()(cos)()( 000
pi
ω (3)
Ở đây z(t): Độ cao triều tức thời được tạo
thành tại điểm tính (m), Z0: Giá trị của mực
nước biển trung bình tại điểm tính so với mực
không độ sâu (Hướng dương theo từ 0 xuống
đáy); k: chỉ số của các thành phần thủy triều, fk
và ( )ktutV )()( 0 + : các thông số thiên văn phụ
thuộc vào thời gian quan trắc, tính toán, trong
đó fk là giá trị biên độ điều hòa , ( )ktutV )()( 0 + :
pha điều hòa, Ak, gk: hằng số điều hòa biên độ
(m) và độ trễ pha thành phần Greenwich (độ),
tất cả các đại lượng trên phụ thuộc vào vị trí và
thời điểm quan trắc, ωk: tần số thủy triều thành
phần (rad/s).
Hệ số ma sát đáy cd
Thông thường có 3 cách để xác định các hệ
số này: Hệ số trở không đổi (CD), gần đúng
Manning (n), và gần đúng Chezy (a). Các hệ số
này được sử dụng để tính ứng suất đáy trong hệ
phương trình động lượng.
Möïc nöôùc tónh
z=0
z= −ζ
z=-h
z=-(h+h0)
Lôùp xoáp
Ñaùy bieån raén
Ñoä cao beà maët
H 0
Hình 1. Sơ đồ biểu diễn các đặc điểm hình học
sử dụng trong mô hình tính
Ma sát đáy CD hoặc hệ số trở không đổi
thường được sử dụng đơn giản như là ứng suất
ma sát đáy do ảnh hưởng của địa hình đáy. Lực
ma sát đáy có giá trị không đổi không phụ
thuộc vào độ sâu nước. Chỉ có hằng số trở tại
một điểm phụ thuộc vào độ ghồ ghề của đáy. Ở
đây chúng tôi chọn CD như là hệ số ứng suất
đáy. Chính vì vậy: cd = CD (4)
Theo các kết quả nghiên cứu của đề tài cấp
nhà nước KT.03.03, chúng tôi chọn cd = 0.0026
[21]. Hệ số này chúng tôi sẽ sử dụng thay cho
CD cho toàn bộ các nút tính.
Hình 2. Cách bố trí các tham số theo lưới tam
giác phần tử trong mô hình
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tài liệu đầu vào
109.288 109.290 109.292 109.294 109.296 109.298 109.300 109.302 109.304 109.306
109.288 109.290 109.292 109.294 109.296 109.298 109.300 109.302 109.304 109.306
12.188
12.190
12.192
12.194
12.196
12.198
12.200
12.202
12.204
12.206
12.188
12.190
12.192
12.194
12.196
12.198
12.200
12.202
12.204
12.206
Hình 3. Trường độ sâu (m) ứng với mức thủy
triều thấp nhất tại đầm Bấy
ζ ζ
ζ
V
Tính toán dòng chảy triều tại khu vực
335
109.288 109.290 109.292 109.294 109.296 109.298 109.300 109.302 109.304 109.306
109.288 109.290 109.292 109.294 109.296 109.298 109.300 109.302 109.304 109.306
12.188
12.190
12.192
12.194
12.196
12.198
12.200
12.202
12.204
12.206
12.188
12.190
12.192
12.194
12.196
12.198
12.200
12.202
12.204
12.206
Hình 4. Mạng lưới tam giác dùng để tính chế
độ dòng triều tại đầm Bấy
Để tính toán dòng triều tại đầm Bấy, chúng
tôi đã số hóa khu vực trong phạm vi tọa độ từ
109,289060E đến 109,303050E (longitude) và
từ 12,1871940N đến 12,2042650N (latitude)
(hình 3). Mạng lưới tam giác được xây dựng
với góc cực tiểu 300, diện tích tam giác cực tiểu
xấp xỉ 947,96 m2; cực đại 2.495,58 m2 trung
bình 1.584,14 m2 (hình 4). Số điểm tính 428 với
tổng số 747 tam giác với 13 điểm nút dao động
triều tại biên hở (hình 4). Độ sâu cực tiểu tính
toán là 0,2 m, bước thời gian tính 100 s, vòng
lặp cho mỗi bước thời gian là 100, hàm trọng
lượng θ =1 (sai phân ẩn, đảm bảo sự ổn định vô
điều kiện). Hệ số ma sát đáy cd = 0,0026. Địa
hình đáy được thể hiện ở hình 3.
55 60 65 70 75 80
-100
-80
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
100
Time (h)
W
a
te
r
le
v
e
l (c
m
)
Hình 5. Dao động mực nước triều tại biên mở
Các điều kiện biên: Tại biên mở (hình 4)
các dao động mực nước triều được thể hiện tại
hình 5 và công thức (3).
Các kết quả tính toán
Dòng triều được tính cho các thành phần
M2, S2, N2, K2, M4, K1, O1, Q1 và P1.
Chúng tôi xác định các chỉ tiêu sau để phân
vùng dòng triều theo cường độ dòng.
Tốc độ dòng )/(10 scmv < : Dòng triều yếu.
Tốc độ dòng )/(20)/(10 scmvscm <≤ :
Dòng triều trung bình
Tốc độ dòng )/(30)/(20 scmvscm <≤ :
Dòng triều mạnh
Các kết qủa tính toán dòng triều
Dòng triều trong pha triều xuống
55 60 65 70 75 80
-100
-80
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
100
Time (h)
W
at
e
r l
ev
e
l (c
m
)
Hình 6. Phân bố dòng triều tại đầm Bấy khi
triều xuống (pha I)
Trong pha triều bắt đầu xuống (ký hiệu I)
(hình 6), tại thời điểm 66 giờ tính toán, dòng
triều cực đại trên toàn vùng tính có tốc độ
9,938 cm/s, hướng chính nam (176,10 - góc
phương vị) tại độ sâu 1,0 m. Trên cơ sở các kết
quả tính toán còn cho thấy rằng dòng triều
mạnh nhất theo hướng Tây - Đông cực đại là
Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung
336
7,231 cm/s tại độ sâu 1,2 m; Căn cứ vào phân
loại dòng đã trình bày ở phần trên thì toàn bộ
100% khu vực nghiên cứu thuộc loại dòng triều
yếu (tại 747 điểm tính). Nhìn chung giai đoạn
triều bắt đầu xuống có dòng yếu và hướng dòng
khá phân tán. Luồng dòng chảy chính hướng ra
ngoài vịnh tập trung ở phần luồng phía Đông
của cửa đầm.
Trong giai đoạn II của pha triều xuống
mạnh (hình 7), tại thời điểm 69 giờ tính, dòng
triều cực đại trên toàn vùng tính là 22,923 cm/s,
hướng Đông - Nam tại vị trí có độ sâu 19,18 m.
Tốc độ dòng triều theo hướng Tây - Đông đạt
cực đại 17,633 cm/s tại vị trí có độ sâu 1,2 m.
Vận tốc dòng cực đại theo hướng Bắc - Nam là
18,726 cm/s, tại vị trí có độ sâu 4,89 m. Tại
thời điểm tính toán dòng triều yếu phân bổ trên
khu vực xấp xỉ 94,4 % (tại 705 điểm tính) dòng
triều trung bình phân bố trên khoảng 4,3 %
diện tích (tại 32 điểm tính) dòng triều mạnh chỉ
chiếm 1,3% diện tích (tại 10 điểm tính).
55 60 65 70 75 80
-100
-80
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
100
Time (h)
W
at
e
r l
ev
e
l (c
m
)
Hình 7. Phân bố dòng triều tại đầm Bấy khi
triều xuống (pha II)
Dòng triều trong pha triều lên
Pha triều bắt đầu lên (pha I, hình 8), tại thời
điểm 60 giờ trên mực nước, dòng triều cực đại
trên toàn vùng là 11,954 cm/s hướng Tây Bắc
tại vị trí có độ sâu tương ứng 19,18 m. Tốc độ
dòng cực đại theo hướng Đông Tây là
10,082 cm/s tại vị trí có độ sâu là 1,2 m; tốc độ
dòng cực đại theo hướng Nam Bắc là
9,231 cm/s tại vị trí có độ sâu 4,89 m. Trong
giai đoạn này dòng triều yếu chiếm 99,5% diện
tích khu vực (tại 743 điểm tính) dòng triều
trung bình chỉ chiếm 0,5% (tại 4 điểm tính) và
hoàn toàn không có khu vực nào tồn tại dòng
triều mạnh.
109.288 109.290 109.292 109.294 109.296 109.298 109.300 109.302 109.304 109.306
109.288 109.290 109.292 109.294 109.296 109.298 109.300 109.302 109.304 109.306
12.188
12.190
12.192
12.194
12.196
12.198
12.200
12.202
12.204
12.206
12.188
12.190
12.192
12.194
12.196
12.198
12.200
12.202
12.204
12.206
55 60 65 70 75 80
-100
-80
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
100
Time (h)
W
at
er
le
v
el
(cm
)
Hình 8. Phân bố dòng triều tại đầm Bấy khi
triều lên (pha I)
55 60 65 70 75 80-100
-80
-60
-40
-20
0
20
40
60
80
100
Time (h)
W
a
te
r
le
v
e
l (c
m
)
Hình 9. Phân bố dòng triều tại đầm Bấy khi
triều lên (76 h, pha II)
Tính toán dòng chảy triều tại khu vực
337
Pha triều lên mạnh (Pha II, hình 9), tại thời
điểm 76 giờ tính toán, dòng triều cực đại trên
toàn vùng là 19,413 cm/s hướng Bắc (353,80,
tại vị trí có có độ sâu 1,0 m. Tốc độ dòng cực
đại theo hướng Đông Tây là 19,213 cm/s tại vị
trí có độ sâu 1,2 m; Tốc độ dòng cực đại theo
hướng Nam 10,229 cm/s tại vị trí có độ sâu
4,89 m. Trong giai đoạn này dòng triều yếu
chiếm 98,7% diện tích khu vực (tại 737 điểm
tính), dòng triều trung bình chỉ chiếm 1,1%
diện tích khu vực (tại 8 điểm tính), dòng triều
mạnh chỉ chiếm 0,3% diện tích khu vực (tại 2
điểm tính).
So sánh các kết quả tính toán bằng phương
pháp FEM với mực nước đo đạc tại thực địa
Các kết quả khảo sát dòng chảy tại khu vực
nghiên cứu cho thấy dòng triều chiếm 90%
dòng chảy tổng cộng.
So sánh, đánh giá các kết quả tính toán mực
nước với số liệu đo đạc mực nước tại khu vực
nghiên cứu (hình 10, đường nét gián đoạn) và
đường dự báo (đường liền nét) chúng ta thấy
hai đường này hoàn toàn trùng pha và có sự
tương quan cao đến 98,9%. Mực nước thực tế
đo được có thể có khá nhiều yếu tố tác động vì
vậy chúng tôi đã phân tích một cách thận trọng
để lọc các dao động phi triều (không tuần hoàn)
để có thể so sánh với các kết qủa tính toán.
Thủy triều trong khu vực đầm Bấy là nhật triều
(hình 10): chân triều vào lúc 20 g ngày 7 tháng
05 còn đỉnh triều lúc 11 h, ngày 08 tháng 05
năm 2011.
Hình 10. So sánh mực nước tính toán (dự báo)
và mực nước đo đạc
Bảng 1. So sánh mực nước tính toán (dự báo) bằng phương pháp phần tử hữu hạn FEM và mực
nước đo đạc thực địa tại vị trí (109,29160E; 12,19500N) (Trên trạm thực nghiệm: ACIAR
LOBSTER PROJECT (hình 11))
Ngày, tháng, năm Thời gian đo (h) Số liệu đo đạc (cm) Kết quả tính toán (cm) Sai số tuyệt đối (cm)
5/7/2011 14:30 120,0 131,7 11,7
5/7/2011 15:00 110,0 107,9 2,1
5/7/2011 16:00 90,0 82,9 7,1
5/7/2011 17:00 70,0 60,2 9,8
5/7/2011 18:00 50,0 42,7 7,3
5/7/2011 19:00 30,0 32,4 2,4
5/7/2011 20:00 30,0 30 0,0
5/7/2011 21:00 30,0 34,8 4,8
5/7/2011 22:00 50,0 45,0 5,0
5/7/2011 23:00 70,0 58,2 11,8
5/8/2011 0:00 80,0 72,0 8,0
5/8/2011 1:00 100,0 84,3 15,7
5/8/2011 2:00 100,0 94,3 5,7
5/8/2011 3:00 110,0 101,9 8,1
5/8/2011 4:00 120,0 108,0 12,0
5/8/2011 5:00 130,0 114,2 15,8
5/8/2011 6:00 140,0 121,7 18,3
5/8/2011 7:00 150,0 130,9 19,1
5/8/2011 8:00 160,0 141,6 18,4
5/8/2011 9:00 170,0 152,5 17,5
5/8/2011 10:00 180,0 161,8 18,2
5/8/2011 11:00 180,0 167,2 12,8
5/8/2011 12:00 180,0 166,9 13,1
5/8/2011 13:00 160,0 159,5 0,5
5/8/2011 14:00 150,0 145,1 4,9
Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung
338
Hình 11. Trạm đo mực nước biển
NHẬN XÉT VÀ THẢO LUẬN
Việc tính toán dòng triều bằng phương
pháp FEM thông thường có kết quả cao hơn
phương pháp FDM, nguyên nhân là do phương
pháp FEM có thể chi tiết hóa hệ thống dòng tại
các khu vực sát bờ (biên cứng lục địa - biển),
tại các vị trí có sự thay đổi mạnh của địa hình
đáy hoặc tại các vị trí có độ sâu phức tạp gây ra
các hiệu ứng cục bộ (địa phương) của hệ thống
dòng chảy
Từ các kết quả tính toán dòng triều tại đầm
Bấy cho thấy các đặc điểm sau:
Dòng triều chiếm ưu thế trong khu vực
nghiên cứu (70 - 80% dòng chảy tổng cộng).
Tại thời điểm triều xuống dòng chảy có
thể đạt cực đại 22,9 cm/s tại độ sâu 19,2 m.
Tại thời điểm triều lên dòng chảy có thể
đạt cực đại 19,4 cm/s tại độ sâu 1,0 m.
Luồng chính của dòng triều lên, xuống
nằm dọc theo khu vực gần bờ phía Đông của
đầm. Sai lệch giữa các kết quả tính toán dự báo
và kết quả đo đạc thực địa là có thể chấp nhận
được (do điều kiện thiết bị, trạm đo ). Kết
quả tính toán mực nước triều dự báo và đo đạc
thực địa có sai số lớn nhất là 19,1 cm, trung
bình là 10 cm và nhỏ nhất là bằng 0 (thể hiện
trên bảng 1).
Dòng triều trên toàn vùng nghiên cứu
tương đối yếu các khu vực dòng triều trung
bình và mạnh chỉ chiếm tối đa 5% diện tích khu
vực nghiên cứu.
Với các định hướng quy hoạch, khai thác
hợp lý và phát triển bền vững thì việc xác định
khả năng trao đổi nước, tính toán sức tải, xem
xét các tác động của tai biến thiên nhiên, các
rủi ro về môi trường sinh thái khi khai thác sử
dụng thủy vực này là rất cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Zienkiewicz, O. C., 1977. The finite
element method. Rayleigh Damping, Field
And Dynamic Problems.
2. Johnson, C., 1990. Adaptive finite element
methods for diffusion and convection
problems. Computer Methods in Applied
Mechanics and Engineering, 82(1): 301-322.
3. Connor, J. J., and Wang, J. D., 1973. Finite
element modeling of two-dimensional
hydrodynamic circulation. Massachusetts
Institute of Technology, School of
Engineering.
4. Walters, R. A., and Werner, F. E., 1989. A
comparison of two finite element models of
tidal hydrodynamics using a North Sea data
set. Advances in water resources, 12(4):
184-193.
5. Le Provost, C., and Vincent, P., 1986.
Some tests of precision for a finite element
model of ocean tides. Journal of
computational physics, 65(2): 273-291.
6. Haidvogel, D. B., Robinson, A. R., and
Schulman, E. E., 1980. The accuracy,
efficiency, and stability of three numerical
models with application to open ocean
problems. Journal of computational
Physics, 34(1): 1-53.
7. Myers, P. G., and Weaver, A. J., 1995. A
diagnostic barotropic finite-element ocean
circulation model. Journal of Atmospheric
and Oceanic Technology, 12(3): 511-526.
8. Iskandarani, M., Haidvogel, D. B., and
Boyd, J. P., 1995. A staggered spectral
element model with application to the
oceanic shallow water equations.
International Journal for Numerical
Methods in Fluids, 20(5): 393-414.
9. Wunsch, C., and Stammer, D., 1997.
Atmospheric loading and the oceanic
“inverted barometer” effect. Reviews of
Geophysics, 35(1): 79-107.
10. Levin, J. G., Iskandarani, M., and
Haidvogel, D. B., 1997. A spectral filtering
Tính toán dòng chảy triều tại khu vực
339
procedure for eddy-resolving simulations
with a spectral element ocean model.
Journal of Computational Physics, 137(1):
130-154.
11. Levin, J. C., Iskandarani, M., & Haidvogel,
D. B., 2006. To continue or discontinue:
Comparisons of continuous and
discontinuous Galerkin formulations in a
spectral element ocean model. Ocean
Modelling, 15(1): 56-70.
12. Curchitser, E. N., Iskandarani, M., and
Haidvogel, D. B., 1998. A spectral element
solution of the shallow-water equations on
multiprocessor computers. Journal of
Atmospheric and Oceanic Technology,
15(2): 510-521.
13. Behrens, J., 1996. An adaptive semi-
Lagrangian advection scheme and its
parallelization. Monthly weather review,
124(10): 2386-2395.
14. Le Roux, D. Y., Staniforth, A., and Lin, C.
A., 1998. Finite elements for shallow-water
equation ocean models. Monthly Weather
Review, 126(7): 1931-1951.
15. Giraldo, F. X., 2006. High-order triangle-
based discontinuous Galerkin methods for
hyperbolic equations on a rotating sphere.
Journal of Computational Physics, 214(2):
447-465.
16. Giraldo, F. X., and Warburton, T., 2008. A
high‐order triangular discontinuous
Galerkin oceanic shallow water model.
International journal for numerical methods
in fluids, 56(7): 899-925.
17. Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung, 2004.
Tính toán dòng chảy 3 chiều cho vùng cửa
sông. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển,
4(3): 43-53.
18. Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung, 2005.
Tính toán các hằng số điều hòa thủy triều
và ảnh hưởng của nước dâng do bão bằng
phương pháp phân tích điều hòa thủy triều
tại vịnh Nha Trang. Tạp chí Khoa học và
Công nghệ biển, 5(1): 14-24.
19. Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung, 2005.
Một vài kết quả tính toán dòng triều theo
mô hình ba chiều tại đầm Thị Nại. Tạp chí
Khoa học và Công nghệ biển, 5(Phụ trương
4): 10-22.
20. Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung, 2006.
Tính toán thử nghiệm dòng chảy ba chiều
(3D) cho vùng vịnh Vân Phong. Tạp chí
Khoa học và Công nghệ biển, 6(1): 12-27.
21. Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung, 2006.
Tính toán dòng chảy cho vịnh Nha Trang.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, 6(4):
1-18.
22. Cushman-Roisin, B., and Naimie, C. E.,
2002. A 3D finite-element model of the
Adriatic tides. Journal of Marine Systems,
37(4): 279-297.
23. Greenberg, D. A., Shore, J. A., Page, F. H.,
and Dowd, M., 2005. A finite element
circulation model for embayments with
drying intertidal areas and its application to
the Quoddy region of the Bay of Fundy.
Ocean Modelling, 10(1): 211-231.
24. Haidvogel, D. B., Curchitser, E.,
Iskandarani, M., Hughes, R., and Taylor,
M., 1997. Global modelling of the ocean
and atmosphere using the spectral element
method. Atmosphere-Ocean, 35(sup1):
505-531.
25. Hanert, E., Legat, V., and Deleersnijder,
É., 2003. A comparison of three finite
elements to solve the linear shallow water
equations. Ocean Modelling, 5(1): 17-35.
26. Kashiyama, K., Saitoh, K., Behr, M., and
Tezduyar, T. E., 1997. Parallel finite
element methods for large-scale
computation of storm surges and tidal
flows. International journal for numerical
methods in fluids, 24(12): 1371-1389.
27. Kowalik, Z., and Murty, T. S., 1993.
Numerical modeling of ocean dynamics
(Vol. 481). Singapore: World Scientific.
28. Legrand, S., Legat, V., & Deleersnijder, E.,
2000. Delaunay mesh generation for an
unstructured-grid ocean general circulation
model. Ocean Modelling, 2(1): 17-28.
29. Chương trình biển cấp Nhà nước KHCN -
06. Phạm Văn Ninh - Chủ biên (1996-
2000), Biển Đông - Khí tượng thủy văn và
Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung
340
động lực biển, Tập 2, Nxb. Đại Học Quốc
Gia Hà Nội, 2003, 565 tr .
30. Nechaev, D., Schröter, J., and Yaremchuk,
M., 2003. A diagnostic stabilized finite-
element ocean circulation model. Ocean
Modelling, 5(1): 37-63.
31. Taylor, M., Tribbia, J., and Iskandarani,
M., 1997. The spectral element method for
the shallow water equations on the sphere.
Journal of Computational Physics, 130(1):
92-108.
32. Dobrindt, U., and Schröter, J., 2003). An
adjoint ocean model using finite elements:
An application to the South Atlantic.
Journal of Atmospheric and Oceanic
Technology, 20(3): 392-407.
CALCULATIONS OF TIDAL CURRENTS IN BAY LAGOON
(NHA TRANG BAY) USING FINITE ELEMENT METHOD
Bui Hong Long, Tran Van Chung
Institute of Oceanography -VAST
ABSTRACT: At present, development activities are vigorously going on in Bay lagoon (Nha
Trang bay). Therefore, investigation into the natural and environmental conditions in this area,
including the study and calculations of current regime is very necessary and pressing. However,
modeling the current regime in this lagoon is not simple task because of many islands located in the
study area Their existence makes the long wave transmission into the bay more complex and
local-specific. Therefore, as we study the current regime here, great attention is paid to the
detailization of the coastal boundaries. Using the finite element method (FEM) for calculating the
tidal currents has solved difficulties which have been faced by the finite difference method (FDM)
used previously. Initial research results show that the outcomes by FEM agreed well with the field
data measured at random times. From the results computed by FEM, we have following remarks on
the tidal current regime in this bay:
At ebb tide, tidal current velocity can reach 22.9 cm/s with direction of 137.30, usually at
19.2 m in depth.
At flood tide, tidal current velocity can reach 19.4 cm/s with direction of 353.80, at 1.0 m in
depth.
The comparison between the modeling sea levels and field measurements at the same position
shows the largest deviation being 19.1 cm, the average being 10 cm, and the smallest one being 0.
Keyworlds: Tidal current, finite element method (FEM), Bay lagoon, Nha Trang bay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5819_20928_1_pb_6235_2079657.pdf