Tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp

Lý do chọn đề tài Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá ngày càng cao, các lĩnh vực của đời sống xã hội đều rất phát triển như kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học- kỹ thuật Sự phát triển đó đều xuất phát từ việc thoả mãn nhu cầu của con người, hay nói cách khác con người là trung tâm của sự phát triển xã hội. Trên thế giới hiện nay, phụ nữ chiếm gần nửa dân số, là một lực lượng lao động to lớn, góp phần rất quan trọng vào việc xây dựng gia đình và đất nước, thúc đẩy sự tiến bộ và phồn vinh trên trái đất. Tuy nhiên, chưa ở nước nào phụ nữ thực sự được hoàn toàn bình đẳng, chị em vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới và ở nhiều nơi phụ nữ vẫn còn bị áp bức, bóc lột nặng nề. Chính vì vậy, bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, triệt để là lý tưởng mà nhân loại đã theo đuổi hàng nhiều thế kỷ. Đầu thế kỷ XIX, nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp S.Phuriê đã cho rằng: Trình độ giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ phát triển của xã hội. Luận điểm này tiếp tục được khẳng định trong học thuyết Mác ngay từ khi nó ra đời và phát triển ở trình độ mới cao hơn trong các giai đoạn tiếp theo. Những quan điểm trên đã cổ vũ cho nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng giữa nam và nữ, trở thành một trong những mục tiêu phấn đấu của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Phải nói rằng đây là một thực trạng đã và đang diễn ra mang tính toàn cầu, trong đó Việt Nam không phải là ngoại lệ. Bộ văn hoá, thể thao và du lịch Việt Nam đã chỉ ra một trong năm tồn tại yếu kém của ngành năm 2008, đó là: tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực đối với người già, phụ nữ và trẻ em gây nhức nhối công luận (theo báo thể thao hàng ngày số ra ngày 25/12/2008). Sơn La là một tỉnh miền núi phía Bắc với 12 dân tộc anh em cùng chung sống. Hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở đây ngày càng được nâng cao nhưng mặt bằng dân trí vẫn còn thấp và phát triển không đều. Nhiều quan niệm, tư tưởng phong kiến, nhất là tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn chưa được xoá bỏ. Họ vẫn phải chịu thiệt thòi cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, vẫn phải chịu sự bất bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong gia đình. Đặc biệt là tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ đang gây nhiều bức xúc trong tỉnh Sơn La. Với những lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là trên cơ sở những quan điểm lý luận về vấn đề giải phóng phụ nữ để làm rõ thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La và đề ra phương hướng cũng như giải pháp nhằm ngăn chặn tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình nhằm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở tỉnh Sơn La. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là trình bày hệ thống cơ sở lý luận về vấn đề bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ; làm rõ thực trạng vấn đề bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình trên địa bàn tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, đề xuất những phương hướng và phân tích những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ tiến tới bình đẳng nam nữ, xoá bỏ tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở tỉnh Sơn La, góp phần vào công cuộc phòng chống bạo lực gia đình trong cả nước. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu Đề tài nghiên cứu ở tỉnh Sơn La giai đoạn 2005 - 2010, thực trạng và giải pháp. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng đồng thời đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm ngăn chặn tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ. 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 3 chương. CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN CƠ BẢN VỀ BẠO LỰC ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH 1.1. Một số khái niệm 1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới 1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẠO LỰC TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY( 2005 - 2010) 2.1. Khái quát về địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La 2.2. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La 2.3. Hậu quả và nguyên nhân của tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BẠO LỰC TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1. Phương hướng nhằm ngăn chặn bạo lực gia đình đối với phụ nữ 3.2. Những giải pháp và kiến nghị nhằm ngăn chặn bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay KẾT LUẬN Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân loại đã và đang phấn đấu. Ngày nay, thế giới đã có nhiều thay đổi vượt bậc, nhưng vấn đề giới - vấn đề bình đẳng nam nữ ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả các nước có trình độ phát triển cao về kinh tế - xã hội vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Sự bất bình đẳng về giới, xét về mặt lý thuyết có thể nghiêng về phía nam hoặc nữ, nhưng trên thực tế những thiệt thòi vẫn thuộc về người phụ nữ. Phụ nữ thường đối mặt với sự phân biệt đối xử và hàng loạt rào cản về kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị Vì vậy, đấu tranh vì bình đẳng giới đã và đang trở thành một phong trào rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới cả về phương diện lý thuyết lẫn phương diện thực tiễn. Ở Việt Nam, chủ trương bình đẳng giới được đề ra ngay từ khi Đảng cộng sản ra đời; chính sách bình đẳng giới thực sự là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của chính sách phụ vận qua các thời kỳ phát triển của Nhà nước ta. Quyền bình đẳng giới đã được quy định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước (1946). Vị trí, vai trò của nữ giới được xã hội tôn trọng và pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi để nữ giới phát triển tài năng. Tuy vậy, tình trạng bất bình đẳng giới vẫn là một thực tế đáng quan tâm, đặc biệt là tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ngày càng phổ biến và tăng nhanh. Trong đó Việt Nam nói chung và Sơn La nói riêng cũng không phải là một ngoại lệ. Sơn La là một tỉnh miền núi phía Bắc với 12 dân tộc anh em cùng chung sống, trình độ văn hoá còn thấp. Tỷ lệ mù chữ cao đặc biệt đối với phụ nữ, cộng đồng các dân tộc thiểu số thường khép kín, ít được giao lưu, tiếp xúc, và tham gia các hoạt động xã hội . Do vậy, nhận thức của người dân về vấn đề bạo lực giới còn thấp, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Đây là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng bạo lực trong gia đình. Trước thực tế này đòi hỏi các cấp lãnh đạo phải luôn quan tâm, đầu tư thích đáng cho vấn đề này để giải thích đúng đắn và sâu sắc các vấn đề của cuộc đấu tranh chống bạo lực gia đình - nam nữ bình đẳng, coi đây là mục tiêu lâu dài. Cần giải phóng cho phụ nữ Sơn La thoát khỏi những áp bức, bất công, những trói buộc của hủ tục lạc hậu và quan niệm phong kiến nặng nề để bước lên làm chủ cuộc đời, làm chủ bản thân.

doc70 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2335 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o lực gia đình cũng chỉ mới được ban hành. Những biến động của nền kinh tế thị trường với nhiều mặt trái của nó, đã tác động mạnh mẽ đến gia đình, có thể nói, đây là vấn đề khó khăn nhất. Đó là: Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ chưa thường xuyên liên tục, nội dung và hình thức còn hạn chế. Một số cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở chưa thực sự coi công tác hoà giải là nhiệm vụ của hệ thống chính trị nên đã khoán trắng công tác này cho các tổ hoà giải. Công tác nắm bắt tình hình phụ nữ bị bạo lực gia đình ở một số cơ sở còn chưa sâu sát. Nhận thức bình đẳng giới ở gia đình và xã hội còn hạn chế, tư tưởng phong kiến, lạc hậu còn nặng nề, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, huyện nghèo. Chế độ thông tin báo cáo hai chiều còn chậm, số liệu chưa đầy đủ, nên gây khó khăn cho công tác chỉ đạo. Một số cấp Hội thiếu quan tâm, đôn đốc thực hiện công tác phòng chống bạo lực gia đình nên hiệu quả công tác tuyên truyền còn hạn chế. Đặc biệt bản thân chị em phụ nữ, do trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế và chưa nhận thức rõ hành vi thuộc bạo lực gia đình. 2.3. Hậu quả và nguyên nhân của tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La 2.3.1. Hậu quả Bạo lực gia đình đối với phụ nữ đang có xu hướng gia tăng trên địa bàn tỉnh Sơn La và hậu quả mà nó để lại là rất lớn. Qua nghiên cứu cho thấy hậu quả của bạo lực gia đình không chỉ tác động đến phụ nữ mà còn tác động đến cả gia đình và xã hội. Thứ nhất: ảnh hưởng đến cơ hội phát triển của phụ nữ Bạo lực gia đình là nguyên nhân hạn chế sự tiến bộ và phát triển của người phụ nữ. Vị trí thấp kém trong gia đình đã cản trở người phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội. Lao động kiếm sống và gánh nặng gia đình luôn đè nặng lên vai người phụ nữ. Họ không có thời gian học tập, nghỉ ngơi, giải trí để nâng cao trình độ hay học tập để kiếm được công việc tốt hơn. Trong giai đoạn khi cán cân quyền lực luôn nghiêng về phía nam giới còn phụ nữ thì mặc cảm, tự ti, chấp nhận vị trí thấp kém thì họ dễ trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình. Như chị Đào Thị M ở xã Chiềng Khoang huyện Quỳnh Nhai tâm sự: trước thì cũng có tham gia hội phụ nữ, nhiều khi tôi cũng muốn qua lại với hàng xóm nhưng chồng tôi chê tôi nghèo lại còn lắm chuyện hội này hội nọ, thế nên tôi mắc cỡ lắm, không tham gia nữa. Do vậy, bạo lực gia đình đã gây nên tình trạng bất an trong cuộc sống của người phụ nữ và cản trở sự phát triển của họ, vì họ luôn sống chung một nhà với kẻ gây ra bạo lực. Kết quả các nghiên cứu cho thấy, bạo lực gia đình là nguyên nhân chính phá vỡ cuộc sống gia đình, ly hôn có thể không ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, nhưng có thể gián tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của phụ nữ thông qua việc gây ra nguy cơ nghèo khổ của phụ nữ. Trong nhiều trường hợp ly hôn được xem là lối thoát cuối cùng khi người vợ không thể chịu đựng thêm nữa sự ngược đãi. Khảo sát của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh năm 2010 cho thấy có 25% gia đình có hành vi bạo lực tinh thần; khoảng 15% vợ bị chồng đánh, gần 80% bị chồng chửi, 70% bị chồng bỏ mặc; 30% cặp vợ chồng có hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục [13; 9]. Hậu quả của bạo lực gia đình gây thương tích thân thể chiếm 12,8%; tổn thương về tinh thần 28,3%; vợ chồng ly thân 5,1%; ly hôn 14,8%; con cái không được chăm lo 13,3%; tử vong 2,8%; tự tử 1,2%; (số này ở vùng sâu và dân tộc chiếm cao hơn), 2,7% bạo lực về kinh tế [13; 10]. Hậu quả của bạo lực gia đình là rất lớn, ảnh hưởng của nó cũng rất lâu dài, đặc biệt là ảnh hưởng tới đời sống tinh thần, đạo đức của con người khiến người phụ nữ luôn phải sống trong lo âu, đau đớn và sợ hãi. Do vậy, họ không thể hoàn thành tốt vai trò của mình đối với gia đình, đặc biệt là việc chăm sóc, nuôi dạy con cái. Khi đó, khả năng tan vỡ của gia đình là rất lớn. Phụ nữ là những đối tượng nhạy cảm, vì vậy, các triệu chứng trầm cảm, stress mạnh, nguy hại hơn là sự suy giảm thần kinh đã trở thành bệnh là những di chứng của nạn bạo hành gia đình. Không chỉ thế, người phụ nữ còn là đối tượng hứng chịu những tổn hại về sinh lý dưới tác động của hành vi bạo lực về tình dục. Thứ hai: ảnh hưởng đến nhân cách trẻ em Bạo lực gia đình không chỉ gây tổn hại đến tâm lí và sức khỏe của người phụ nữ mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lí và sức khỏe của những đứa trẻ phải chứng kiến bạo lực gia đình. Đây cũng là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình. Số liệu khảo sát điều tra xã hội học năm 2010 của Tỉnh cho biết: bạo lực gia đình ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ chiếm 91,0%; gây tổn hại về sức khỏe, thể chất: 87,5%; gây tổn thương về tâm lý, tinh thần: 89,4%; gây tan vỡ gia đình: 89,7% và làm rối loạn trật tự, an toàn xã hội: 89% [13; 27]. Với tuổi thơ hậu quả là hết sức nguy hại vì nó làm cho các em mất niềm tin vào các thành viên gia đình, từ đó chán học, sa ngã vào các tệ nạn xã hội hoặc có hành vi phạm pháp. Bạo lực gia đình từng bước biến đứa trẻ hiền lành trở nên lì lợm, đồng thời có thể làm xuất hiện ở trẻ những biểu hiện tâm lý tiêu cực, như trầm cảm, nhu nhược, thiếu tự tin,… hậu quả là đứa trẻ sẽ xa rời gia đình, dễ dàng tiếp thu những ảnh hưởng tiêu cực của xã hội, hoặc trở thành nạn nhân của các tệ nạn xã hội. Thứ ba: ảnh hưởng đến mối quan hệ vợ chồng và sự bền vững gia đình Bạo lực gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ vợ chồng. Khi người vợ bị chồng đánh nhiều lần dẫn đến sợ sệt, hoặc có thái độ chống đối sẵn sàng tự vệ đối với chồng. Bên cạnh đó là sự mất niềm tin của người phụ nữ đối với chồng. Có không ít người phụ nữ vì một số lý do nào đó mà họ phải âm thầm chịu đựng, nỗi đau đó sẽ lặng lẽ đi theo họ, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ cũng tác động không nhỏ đến đời sống gia đình. Mặc dù gia đình khó khăn là một trong những nguyên nhân dẫn đến bạo lực, thực trạng này cũng là yếu tố tác động rất lớn tới kinh tế gia đình. Trong gia đình việc lao động sản xuất phát triển kinh tế là công việc của cả vợ và chồng. Do đó khi người chồng có những hành vi bạo lực đối với vợ, nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến hệ quả kinh tế - xã hội: năng suất lao động thấp, số ngày nghỉ làm việc tăng, thu nhập giảm đi, dẫn đến sự đói nghèo là khó tránh khỏi. Đó là còn chưa kể đến những tổn thất kinh tế khi người vợ nằm viện điều trị… Theo kết quả hoạt động phòng chống bạo lực của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Sơn La từ năm 2005 - 2010 cho thấy bạo lực trong gia đình là nguyên nhân chính phá vỡ cuộc sống gia đình. Chỉ tính riêng năm 2010, toàn tỉnh có 645 vụ ly hôn liên quan đến mâu thuẫn gia đình, bị đánh đập ngược đãi, chính vì thế phải ngăn chặn tình trạng trên để bảo vệ ngọn lửa yêu thương trong từng gia đình [31; 2]. Thứ tư: ảnh hưởng tới sự phát triển tiến bộ của xã hội Bạo lực gia đình đối với phụ nữ cũng để lại hậu quả rất lớn đối với xã hội, bởi lẽ gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, trong khi đó đỉnh cao của bạo lực gia đình là chấm dứt hôn nhân, phá vỡ tế bào xã hội. Thực trạng trên đã làm cho nhiều gia đình có cuộc sống hết sức nghèo khổ. Đây là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển tiến bộ của xã hội nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng trong những năm qua. Phụ nữ đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội, cùng một công việc nhưng nhiều người phụ nữ có thể đảm đương tốt hơn nam giới. Tuy nhiên, bạo lực trong gia đình đã làm cho phụ nữ mất đi cơ hội và hạn chế khả năng phát triển của họ. Đây là một tổn thất rất lớn cho xã hội, do đó ngăn chặn tình trạng này là trách nhiệm không chỉ của cá nhân hay cơ quan đoàn thể nào mà là của toàn xã hội. Tóm lại, bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ đã để lại hậu quả rất lớn, không chỉ đối với phụ nữ mà còn đối với cả thế hệ trẻ, với gia đình và xã hội. Bởi thế, chúng ta cần phải nhanh chóng ngăn chặn tình trạng này để những người phụ nữ thực sự được giải phóng và tự do phát triển một cách toàn diện, góp phần quan trọng vào sự phát triển của xã hội. 2.3.2. Nguyên nhân Có thể nói, khó khăn lớn nhất đối với việc tìm hiểu những nguyên nhân của bạo lực gia đình là ở chỗ, bạo lực gia đình là hệ quả của sự tổng hợp một loạt các yếu tố, các chiều tác động khác nhau, từ điều kiện kinh tế - xã hội khách quan đến nhận thức chủ quan của con người, từ những nhân tố về văn hoá, gia đình đến những nhân tố về đạo đức và định hướng giá trị. Bởi vậy, qua nghiên cứu tài liệu và tổng kết thực tiễn, thì việc phân định các nguyên nhân dưới đây chỉ mang tính chất tương đối. Thứ nhất: nguyên nhân kinh tế - xã hội Đấu tranh cho bình đẳng nói chung, trong đó đấu tranh chống bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ là một mục tiêu lớn không chỉ riêng Sơn La mà còn là mục tiêu chung của Việt Nam, bình đẳng trên nhiều mặt, trong đó có bình đẳng về kinh tế xã hội. Mục tiêu này phù hợp với quan điểm về nền văn minh và phát triển bền vững hiện nay trên thế giới. Từ nhận thức này thì đã có nhiều quốc gia đã có những nỗ lực lớn để lồng ghép vấn đề giới vào các chính sách và chương trình kinh tế - xã hội. Nhờ vậy sự tham gia của phụ nữ vào thị trường lao động và mức độ tự chủ trong hoạt động kinh tế của phụ nữ ngày càng tăng. Mặc dù có nhiều thuận lợi như vậy song không vì thế mà con đường tiến tới bình đẳng, không còn bạo lực gia đình đối với phụ nữ tỉnh Sơn La lại ngắn và đơn giản. Như vậy, chính sức mạnh kinh tế làm yếu tố nền tảng của đời sống xã hội, lực lượng nào chiếm lĩnh và chi phối nhiều hơn trong lĩnh vực kinh tế thì làm chủ, và do vậy để duy trì chế độ nam quyền, phụ quyền thì bất bình đẳng cũng bắt đầu xuất hiện giữa nam và nữ trong gia đình và cả ngoài xã hội. Nhưng cũng không thể coi đói nghèo là yếu tố lớn nhất đẻ ra nạn bạo lực gia đình, bởi lẽ có rất nhiều cặp vợ chồng quanh năm nghèo đói nhưng vẫn sống với nhau hoà thuận và đầm ấm. Cũng có những trường hợp khi nghèo đói thì vợ chồng thương yêu nhau, nhưng khi kinh tế khá lên thì hoặc là một người, hoặc cả hai người sa vào tệ nạn xã hội. Điều này phản ánh sự đa dạng và phức tạp của cuộc sống gia đình. Tuy nhiên theo như nghiên cứu gần đây của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Sơn La cho thấy đói nghèo có liên quan chặt chẽ tới tình trạng bạo lực trong gia đình, cụ thể: phụ nữ ở gia đình có kinh tế khá, tỷ lệ phụ nữ bị chửi là 17 % so với 30,7% ở gia đình nghèo, thấp hơn 2 lần. Tỷ lệ phụ nữ bị đánh ở gia đình kinh tế khá là 3,3% so với 13,1% ở gia đình nghèo, thấp hơn 4 lần. Sở dĩ như vậy là do ở Sơn La, đa số chị em phụ nữ thường có thu nhập thấp hơn chồng, phụ thuộc kinh tế vào người chồng. Chính vì vậy tiếng nói của chị em ít có trọng lượng, và thường không có vai trò quyết định. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến bất bình đẳng nói chung. Các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa tệ nạn xã hội và bạo lực giới trong gia đình. Những mặt trái của quan hệ thị trường đã tác động xấu đến quan hệ giới trong gia đình, như đề cao một cách thái quá những giá trị vật chất mà coi nhẹ giá trị tình cảm, đạo đức. Những mối quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân cũng là lý do của bạo lực gia đình; với nam giới thì còn những tác động của các tệ nạn xã hội (cờ bạc, nghiện hút, rượu…). Một nghiên cứu cho thấy, khoảng một nửa phụ nữ được phỏng vấn nói chồng họ có thói quen uống rượu, ở nông thôn, con số này chiếm 53,7% và đô thị là 45,2%. Say rượu, bia, đàn ông rất dễ có hành động bạo lực đối với vợ và không ít trường hợp gây nên thương tích, thậm chí dẫn đến tử vong. Bên cạnh đó, hiện nay nền kinh tế thị trường ngoài những mặt tích cực, nó còn gây ra những bất lợi lớn cho phụ nữ khi bước vào nền kinh tế thị trường là do vấn đề việc làm, do trình độ học thức thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu mới dẫn đến thất nghiệp, tỷ lệ chung là 8,4% trong đó phụ nữ chiếm hơn một nửa. Phụ nữ Sơn La đa phần là buôn bán nhỏ, nội trợ và làm nông nghiệp là chính, do vậy thời gian lao động quá cao chiếm 14-15 tiếng/ngày, trong khi người chồng chỉ khoảng 8-10 tiếng/ngày. Điều này khiến cho phụ nữ có rất ít thời gian nghỉ ngơi, học tập và hưởng thụ văn hoá, hạn chế sự nhận thức về các hình thức bạo lực gia đình. Thứ hai: nguyên nhân trình độ nhận thức Một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng dẫn đến tình trạng bạo lực trong gia đình của phụ nữ Sơn La hiện nay là do trình độ nhận thức còn rất hạn chế, đặc biệt các dân tộc ở vùng cao với tỷ lệ mù chữ khá cao (63,8%), trong đó tập trung chủ yếu là phụ nữ (161/169 người), chiếm tỷ lệ 90% (nghiên cứu thực trạng phụ nữ dân tộc H ‘Mông, 2006). Và cũng tương ứng với kết quả điều tra của cả nước là yếu tố học vấn có tác động không nhỏ đến khả năng xảy ra bạo lực gia đình. Phụ nữ có học vấn cao bị ngược đãi ít hơn so với nhóm học vấn khác. Cụ thể ở hành vi bị chửi [1; 315]: Trình độ học vấn Tỷ lệ bị chửi Tỷ lệ bị đánh Mù chữ 37,1% 14,1% Từ lớp 1 – 5 30,2% 8,8% Từ lớp 6 – 9 22,4% 5,5% Từ lớp 10 – 12 17,4% 5,1% Từ cao đẳng đại học trở lên. 9,6% 0,9% Bạo lực giới trong gia đình còn chịu ảnh hưởng của nhiều tư tưởng gia trưởng trong xã hội, là sự không ngang nhau về địa vị - quyền lực trong mối quan hệ giữa hai giới nam và nữ. Vẫn còn tồn tại những quan niệm không đúng về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình, tư tưởng phong kiến trọng nam khinh nữ chưa phải là đã hết trong một bộ phận thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau. Nếu trong xã hội phong kiến, tư tưởng gia trưởng thường được thể hiện dưới hình thức bạo lực tinh thần là chủ yếu, thì ngày nay dường như lại thể hiện nhiều ở dạng bạo lực thể xác. Không hiếm trường hợp sinh con một bề là con gái đã bị mẹ chồng, chị em chồng hắt hủi, coi thường và ép đẻ bằng được con trai mới thôi. Với phụ nữ, tư tưởng trọng nam còn thể hiện sự tự ti, mặc cảm về thân phận, cam chịu trước nam giới. Như vậy, có thể nói, thói quen phong tục tập quán như một bộ luật không thành văn hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của con người và xã hội. Ở Sơn La định kiến về trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào trong đầu óc con người và hiện nay vẫn có ảnh hưởng khá phổ biến, đặc biệt trong gia đình. Thứ ba: tâm lý tự ti, mặc cảm của bản thân phụ nữ Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi người phụ nữ phải tự tin, sáng tạo, đồng thời có thời gian nghỉ ngơi, giải trí, học tập, nâng cao trí thức và sức khoẻ. Trên thực tế ở Sơn La hiện nay tâm lý tự ti, mặc cảm của phụ nữ thể hiện trong gia đình vẫn còn rất nặng nề. Nhiều phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, trên cương vị người vợ và người mẹ đã không có một phản kháng gì ngoài việc chịu đựng những trận đòn. Họ không dám đấu tranh với chồng, lại càng không dám chủ động trong việc ly dị vì ly dị họ sẽ mất của cải, danh dự và cả con cái. Một trong những nguyên nhân lớn nhất đó là tình mẫu tử. Mặc dù bị đánh đập nhưng phần lớn những người vợ thường không muốn phá vỡ gia đình vì họ không chịu nổi cảnh con cái ly tán và phải sống xa mình, chính vì điều này làm cho họ trở thành người mẹ vừa mạnh mẽ vừa yếu đuối và thái độ nhu nhược của phụ nữ càng kích thích cho bạo lực gia đình phát triển. Ví dụ như trường hợp chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn Đ ở Thị trấn Thuận Châu có hai con. Đ thuờng xuyên đấm đá mắng chửi T bằng những lời lẽ thô tục, công khai ngoại tình về ở hẳn với bồ nhí. T vô cùng đau khổ, tuy nhiên chị vẫn không muốn ly dị, chị lo sợ nếu ly dị thì cuộc đời của hai con sẽ ra sao, chị chấp nhận làm lành và để người chồng đi về cả hai nơi. Chính vì lẽ đó cần phải có sự thay đổi về tâm lý, tư duy của chị em, đồng thời cả phía nam giới trong việc nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Một số phụ nữ chưa nắm vững luật pháp, chính sách và quyền lợi của mình. Như vậy phụ nữ phải xoá bỏ tư tưởng tự ti, mặc cảm, dám đấu tranh cho quyền bình đẳng của mình. Đồng thời chị em phụ nữ phải ra sức học tập, nâng cao trình độ, nhận thức về mọi mặt, đi tới xoá bỏ khoảng cách phát triển của họ so với nam giới, xoá bỏ tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ. Thứ tư: các nguyên nhân khác Ngoài các nguyên nhân chính gây nên tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã kể trên thì cũng cần phải kể đến một số nguyên nhân như: do nhận thức về giới và sự bình đẳng giới còn hạn chế; tác động của các chất kích thích, của thói trăng hoa...; sự khủng hoảng của các mối quan hệ gia đình; sự xung đột về sở thích giữa vợ với chồng và thái độ ứng xử của hai người; nhận thức hạn chế của chính quyền địa phương… Bên cạnh đó, bạo lực trong gia đình xảy ra nguyên nhân không chỉ thuộc về phía những người chồng mà còn do cả những người phụ nữ với những biểu hiện: do thói chua ngoa, nói năng thô tục, không biết kiềm chế nên chồng không chịu được; do nhận thức sai lệch, nhiều người phụ nữ đã lựa chọn con đường làm ăn phi pháp, lừa đảo, tha hoá về nhân cách đạo đức; tham lam, ít hiểu biết, đối xử thiếu văn hoá với gia đình chồng. Nhìn chung, tất cả những nguyên nhân trên làm cho tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở Sơn La ngày càng gia tăng và quá trình phòng chống “bạo lực trong gia đình” ở đây diễn ra vẫn còn chậm. Tất cả những nguyên nhân đó chỉ mang tính chất tương đối, hy vọng đây sẽ là những căn cứ quan trọng để chúng ta vạch ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu để góp phần tiến tới giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ, chống bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ. CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BẠO LỰC TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vấn đề gia đình và phụ nữ đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Nghiên cứu phát hiện, nhận thức đầy đủ nguyên nhân của những vấn đề đó được coi là tiền đề quan trọng đặc biệt đối với việc đề ra và luận chứng cho các quan điểm chỉ đạo, phương hướng và các giải pháp tác động nhằm ngăn chặn bạo lực gia đình đối với phụ nữ nhằm nâng cao vai trò người phụ nữ đối với gia đình và xã hội. 3.1. Phương hướng nhằm ngăn chặn bạo lực gia đình đối với phụ nữ Trong những năm qua, phong trào phụ nữ và công tác thực hiện bình đẳng giới ở Sơn La đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Để đảm bảo thực hiện được bình đẳng giới thực sự trong các gia đình Việt Nam nói chung và gia đình Sơn La nói riêng, dựa trên cơ sở định hướng phát triển của Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong 5 năm tới, thực hiện chiến lược quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2015, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIII, căn cứ nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp phụ nữ; Đại hội phụ nữ tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2015 và ban vì sự tiến bộ của phụ nữ Sơn La đã đề ra phương hướng, mục tiêu sau: Một là, nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực của phụ nữ, đáp ứng yêu cầu tình hình mới, xây dựng người phụ nữ Sơn La có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu. Đẩy mạnh tuyên truyền các Chỉ thị; Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên nắm tình hình tư tưởng và những vấn đề bức xúc của các tầng lớp phụ nữ để có hướng giải pháp, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, phụ nữ. Đẩy mạnh phong trào đọc, tìm hiểu sách báo về phụ nữ. Vận động phụ nữ tích cực học tập, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; thực hiện xóa mù chữ cho phụ nữ. Tăng cường tổ chức các hoạt động truyền thông theo chuyên đề, chú trọng truyền thông trực tiếp tại cộng đồng theo các nhóm đối tượng. Gắn công tác tuyên truyền giáo dục với các hoạt động hỗ trợ can thiệp thay đổi hành vi trong việc chăm lo, bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em gái. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động hội viên phụ nữ xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, lối sống văn hoá, đồng thời thực hiện tốt chức năng của một người vợ, người mẹ, người chị trong gia đình, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan để trở thành công dân có ích cho xã hội. Hai là, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới. Chủ động tham mưu đề xuất với Đảng và Nhà nước những vấn đề liên quan đến công tác phụ nữ và các chính sách đặc thù nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ theo tinh thần nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Chú trọng các chính sách về dân số - kế hoạch hoá gia đình; chăm sóc bảo vệ bà mẹ, trẻ em; chế độ thai sản đối với phụ nữ nghèo không có bảo hiểm xã hội; phát triển hệ thống phúc lợi, nhà trẻ mẫu giáo. Kịp thời phát hiện và có biện pháp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ khi bị vi phạm; phòng chống tệ nạn xã hội, tội phạm có liên quan đến xâm hại tình dục và buôn bán phụ nữ, trẻ em; trang bị kiến thức pháp luật và kỹ năng tư vấn, giám sát, phản biện xã hội cho cán bộ hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Phối hợp với ban vì sự tiến bộ của phụ nữ cùng cấp tổ chức thực hiện tốt kế hoạch hành động vì sự tiến bộ phụ nữ 2011-2015. Ba là, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập. Đẩy mạnh các giải pháp giúp phụ nữ thoát nghèo hiệu quả, bền vững như: hướng dẫn quản lý, sử dụng vốn chặt chẽ, hiệu quả, kết hợp cho vay vốn với dạy nghề chuyển giao kỹ thuật, và hướng dẫn kinh nghiệm làm ăn. Khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ phát triển sản xuất kinh doanh làm giàu chính đáng. Tôn vinh tài năng phái nữ trong lĩnh vực kinh tế để từng bước nâng cao vị trí vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Tăng cường đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho phụ nữ, xây dựng và thực hiện “Đề án đào tạo nghề cho phụ nữ”. Bốn là, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, chỉ đạo hội phụ nữ cơ sở phối hợp với các ban ngành, đoàn thể tích cực tuyên truyền vận động cán bộ, hội viên nữ thực hiện luật hôn nhân và gia đình, luật bình đẳng giới, luật phòng chống bạo lực gia đình… và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến gia đình. Đồng thời chỉ đạo hội phụ nữ cơ sở tiếp tục triển khai và thực hiện tốt chỉ thị 49/CT-TW của Ban bí thư Trung ương Đảng về “xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước”, gắn với việc đẩy mạnh phong trào thi đua “phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Vận động phụ nữ thực hiện nếp sống văn minh, đấu tranh xoá bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân, gia đình; phòng chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, xâm hại tình dục trẻ em… Nâng cao kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống HIV/AIDS, tổ chức chính sách gia đình; đề xuất xây dựng và thực hiện chương trình giáo dục bà mẹ. Vận động, hướng dẫn phụ nữ về các vấn đề nước sạch, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh môi trường, thực hiện tiết kiệm trong sinh hoạt gia đình… Năm là, mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế về bình đẳng, phát triển và hoà bình. Tham mưu, tham gia thực hiện, giám sát các cam kết quốc tế liên quan đến quyền của phụ nữ và bình đẳng giới mà Nhà nước Việt Nam và Hội phụ nữ đã cam kết. Nâng cao nhận thức cán bộ, hội viên, phụ nữ về đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và hoạt động đối ngoại của hội, thông tin cho phụ nữ Việt Nam về phong trào phụ nữ thế giới; hỗ trợ phụ nữ chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, nhân phẩm của phụ nữ Việt Nam trong các quan hệ quốc tế và quan hệ hôn nhân - gia đình có yếu tố nước ngoài. Vận động, tập hợp phụ nữ Việt Nam sinh sống ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, đầu tư, đóng góp tích cực cho công cuộc phát triển đất nước. Trên đây là những phương hướng cơ bản để tiến hành công cuộc thực hiện bình đẳng giới, tiến tới xoá bỏ tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong gia đình, để người chồng có cách nhìn nhận đúng đắn vị thế của người phụ nữ. 3.2. Những giải pháp và kiến nghị nhằm ngăn chặn bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay 3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức Thế kỷ XXI là thể kỷ có nhiều thay đổi. Trong đó, vị trí của phụ nữ sẽ được nâng cao, sự bình đẳng được xác định trên các mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên để khẳng định được vị trí của mình, phụ nữ cần phải cố gắng rất nhiều, phải nỗ lực vươn lên cả trong nhận thức và hành động. Ngày nay, các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định rằng, một trong những nguyên nhân chủ yếu, bản chất cản trở việc thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ, chống hành vi bạo hành trong gia đình, vẫn là nguyên nhân về nhận thức, ngay cả việc nhận thức về vấn đề này trong các cấp uỷ Đảng, chính quyền nhiều nơi trong tỉnh còn giản đơn, phiến diện, chưa đầy đủ, thiếu quan tâm, coi đó là công việc nội bộ của từng gia đình…nó trở thành lực cản việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình ở Sơn La hiện nay. Chúng ta biết rằng, việc làm chuyển biến nhận thức, hành vi, thái độ ứng xử với phụ nữ trong gia đình là cực kỳ khó khăn vì tư tưởng trọng nam khinh nữ là thói quen được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhiều người, ngay cả đối với phụ nữ đã chấp nhận một trật tự bình đẳng ngay trong gia đình của mình. Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm thay đổi nhận thức và thái độ của nam giới và nữ giới về quan hệ giới, phải chỉ ra cho mọi người thấy được nguồn gốc của bạo lực đối với phụ nữ. Muốn thực hiện được điều này cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, làm thay đổi nhận thức ở mỗi người, đặc biệt phải làm sao cho nhận thức đó chuyển hoá thành các hành vi, thái độ về bình đẳng phụ nữ, bạo lực gia đình. Để thay đổi nhận thức sai của người chồng, mỗi phụ nữ phải đấu tranh chống lại những phong tục tập quán lạc hậu, coi thường, trói buộc bản thân mình, sự chịu thương, chịu khó, biết hy sinh, vì chồng con,…đó là đức tính tốt của phụ nữ, song không thể biến nó thành ánh hào quang phủ lên cuộc đời mình để từ đó là chiếc bóng mờ của người khác, mất đi tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, tất cả những điều đó khi nhận thức sai chỉ làm cho phụ nữ phải lệ thuộc vào người chồng. Phụ nữ Sơn la chỉ có thể giải phóng hoàn toàn trong gia đình khi đất nước vững bước tiến lên xây dựng nền kinh tế ổn định, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn xã hội. Với những điều kiện trên, theo đó, phụ nữ Sơn La mới có đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh để thực hiện vai trò của mình một các xuất sắc. Cần tập trung vào việc nâng cao kiến thức về bình đẳng phụ nữ, bạo lực gia đình, để mọi người thấy được thực trạng của nó đang ngày càng tăng với nhiều biểu hiện đa dạng, nó để lại hậu quả tiêu cực cho sự phát triển của phụ nữ, của gia đình và cả xã hội. Cần xác định, tuyên truyền là để tất cả mọi người thấy được, chống bạo lực trong gia đình là mang lại công bằng, bình đẳng cho phụ nữ, đó cũng là bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà tất cả các chế độ trước đó không thể thấy được. Không còn bạo lực gia đình: phụ nữ được giải phóng, được phát triển thì họ sẽ có văn hoá, có kiến thức đảm bảo cho mình có cơ hội hoà nhập và tham mưu trong các lĩnh vực của đời sống xã hội một cách tự tin và bình đẳng, và con cái của họ cũng được chăm sóc tốt hơn. Trên cơ sở đó, vợ chồng cũng sẽ có sự cảm thông sâu sắc và trách nhiệm với nhau, với gia đình và cả con cái, đảm bảo cuộc sống yên vui, hạnh phúc. Vì vậy cần phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục để mọi người thấy nam - nữ bình đẳng là động lực của sự phát triển xã hội. Làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục là giải pháp căn bản nhất để ngăn ngừa, hạn chế bạo lực gia đình và bạo lực xã hội. Muốn làm được điều đó đòi hỏi phải có những hình thức tuyên truyền đúng đắn. Thông tin đại chúng có vai trò quan trọng trong việc góp phần phòng chống bạo lực gia đình. Thông qua đài truyền hình, đài phát thanh, loa đài, các loại báo, tạp chí về gia đình và phụ nữ, để phổ biến luật pháp, giáo dục đạo đức, nêu những tấm gương hiếu thảo, những cặp vợ chồng hạnh phúc để tạo nên sự nhất trí mạnh mẽ cùng nói “không” với bạo lực gia đình. Đồng thời mở các lớp tập huấn nâng cao nhận thức về vấn đề bình đẳng phụ nữ, bạo lực gia đình kết hợp với các vấn đề kinh tế, xã hội. Cần đưa vấn đề này vào chương trình hội thảo, hội nghị, tập huấn. Mặt khác, cần cấm phát hành những truyện tranh, phim hoạt hình bạo lực, báo chí miêu tả chi tiết các vụ án tình - tiền - bạo lực, vì làm như vậy sẽ tạo nên khuôn mẫu bạo lực cho một số nam giới và thanh, thiếu niên bắt chước. 3.2.2. Nhóm giải pháp về kinh tế Hiện nay, Sơn La đang phấn đấu cho mục tiêu chung của cả nước: “Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì bất bình đẳng đối với phụ nữ, bạo lực gia đình sẽ đi ngược lại và cản trở không nhỏ đến mọi giá trị của mục tiêu chung của toàn tỉnh. Do đó, phát triển kinh tế hộ gia đình là một giải pháp không thể không thực hiện. Điều này sẽ góp phần tạo cơ sở để ngăn chặn tình trạng bạo lực gia đình, xây dựng gia đình Sơn La “ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Để phát triển kinh tế hộ gia đình, Uỷ ban nhân dân tỉnh phải chỉ đạo các ngành, các cấp đưa ra các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch hành động gắn với mục tiêu, chương trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh, thực hiện lồng ghép với nhiệm vụ phát triển kinh tế hàng năm của từng địa phương. Bên cạnh đó, tỉnh cần phải có chính sách hỗ trợ cho người dân vay vốn với lãi suất thấp. Đặc biệt, phải tổ chức những buổi tập huấn về kinh nghiệm làm giàu, phổ biến kiến thức chăn nuôi, trồng trọt…Đây là những biện pháp cụ thể để tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ gia đình, vì hầu hết các gia đình có thu nhập thấp đều có nguy cơ xung đột vợ - chồng và khi thu nhập của hộ gia đình tăng lên thì tình trạng bạo lực gia đình thường giảm. Tuy nhiên, một yếu tố đóng vai trò quyết định cho sự thành công của các giải pháp này là cần phải có sự nỗ lực phấn đấu của chính bản thân mỗi thành viên trong các gia đình. Kinh tế phát triển còn loại bỏ một số khả năng phi hiệu quả kinh tế: chẳng hạn các dịch vụ, giúp việc gia đình, chăm sóc trẻ em…nó sẽ giảm bớt thời gian phụ nữ phải dành cho việc chăm sóc nhà cửa và con cái, chị em sẽ có nhiều thời gian nâng cao trình độ, thu nhập. Sơn La vốn là một tỉnh miền núi nghèo với nhiều dân tộc, 70% lao động nữ làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ nhưng quyền sở hữu đất hay nói cách khác là tên chủ hộ đa phần là do người chồng đứng tên. Vì thế các ông chồng có quyền quyết định đối với việc sử dụng đất đai. Hiện nay Sơn La đã và đang tiến hành nhiệm vụ di dân tái định cư cho dự án thủy điện. Đây là một vấn đề hệ trọng trong đời sống của nhân dân cũng như trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Cho nên trong khi thực hiện giải pháp này các cấp chính quyền lãnh đạo phải tập trung chú ý chỉ đạo thực hiện dự án di dân tái định cư một cách toàn diện nhằm di chuyển toàn bộ số hộ tái định cư đến nơi ở mới. Tất cả vì mục tiêu chung “ổn định dân cư phát triển kinh tế - xã hội vùng chuyển dân Sông Đà xây dựng thuỷ điện Hoà Bình đến năm 2020”. Giải quyết tốt nhiệm vụ này sẽ góp phần phát triển kinh tế Sơn La trong giai đoạn tới và đặc biệt từng bước ngăn chặn tình trạng bạo lực trong gia đình trên lĩnh vực kinh tế. Phát triển kinh tế - xã hội, tạo mọi điều kiện xoá bỏ bạo lực trong gia đình, giải pháp này chỉ có thể thực hiện được khi các chủ thể, Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội và chính bản thân người lao động (đặc biệt là phụ nữ), nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện vấn đề này. Hiện nay các cấp uỷ Đảng, chính quyền và cơ sở có vai trò quan trọng trong công tác bình đẳng giới, xoá bỏ tình trạng bạo lực trong gia đình do nguyên nhân kinh tế. Thực hiện bình đẳng cho phụ nữ về mặt kinh tế không chỉ tạo thêm cho phụ nữ những cơ hội phát triển tài năng, trí tuệ của mình mà còn đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - đây cũng là yếu tố quyết định việc thực hiện tốt đối với công tác phòng chống bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở Sơn La. 3.2.3. Nhóm giải pháp xây dựng chính sách có trách nhiệm giới Trong kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Sơn La giai đoạn 2011-2015, thực hiện lồng ghép yếu tố giới vào toàn bộ hệ thống pháp luật Nhà nước, vào các khâu hoạch định và thực thi chính sách phát triển và các chương trình, dự án, kế hoạch công tác ở mọi ngành, mọi cấp, từ nay cho đến năm 2015, để nhóm giải pháp xây dựng chính sách về vấn đề chống bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ đạt hiệu quả cao, chúng ta cần tập trung vào những vấn đề cụ thể sau: Thứ nhất: cần mở rộng tuyên truyền, phổ biến kiến thức về bạo lực gia đình cho phụ nữ nhằm từng bước thay đổi thành kiến của xã hội về vấn đề này, đồng thời giúp họ nhận rõ vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của mình. Thứ hai: khi tổ chức thực hiện chính sách và luật pháp cũng rất cần có trách nhiệm giới. Cần cụ thể hoá quy định của hiến pháp, pháp luật bằng các văn bản dưới luật nhằm giải quyết tốt các nhu cầu đặt ra. 3.2.4. Nhóm giải pháp về tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể đặc biệt là Hội liên hiệp phụ nữ và Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ Vấn đề phòng chống bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình, thực hiện bình đẳng nam nữ, không phải là việc riêng của phụ nữ, cũng không phải là sự “ban phát” của xã hội đối với phái yếu, mà tất cả vì lợi ích chung, vì sự phát triển của con người và xã hội. Bởi vậy, đấu tranh để loại bỏ bạo lực gia đình là trách nhiệm của toàn Đảng, của Nhà nước, các đoàn thể và các tổ chức xã hội khác. Các cấp uỷ Đảng phải thường xuyên quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện cho cấp hội thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Nhà nước cần phải xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh pháp luật và những chính sách liên quan đến phụ nữ. Các đoàn thể có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia tích cực vào phong trào cách mạng, các hoạt động xã hội chăm lo đời sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ. Muốn biến quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới thành hiện thực thì trước hết và quan trọng nhất là phải thông qua vai trò của các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể, cụ thể là: Các cấp uỷ Đảng: cần phải có biện pháp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao hơn sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm vì bình đẳng giới trong gia đình. Phải thường xuyên chỉ đạo hoạt động của chính quyền, các cấp hội phụ nữ, tạo điều kiện để hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Các cấp Chính quyền: cần xây dựng chương trình nghiên cứu và phổ biến kịp thời pháp luật, chính sách có liên quan đến phụ nữ. Bên cạnh đó các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội phối hợp với hội phụ nữ tổ chức bồi dưỡng, tuyên truyền, động viên các tầng lớp phụ nữ thực hiện các phong trào hoạt động cách mạng, chăm lo đời sống, giải quyết và bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Sơn La: là tổ chức chính trị - xã hội, mục đích của hội là chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ được bình đẳng, phát triển. Trong năm 2005-2010 hội đã hoạt động phòng chống bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình thường xuyên theo chức năng nhiệm vụ của Hội liên hiệp phụ nữ trên cơ sở các quy định của pháp luật: hoạt động hoà giải, thành lập các tổ hoà giải cơ sở, 100% cơ sở có cán bộ hội phụ nữ tham gia. Các cấp hội đã bám sát, và có nhiều biện pháp phòng chống bạo lực đối với phụ nữ, chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung tuyên truyền về chuyên đề phòng chống bạo lực đối với phụ nữ; làm tốt công tác tuyên truyền với mọi tầng lớp nhân dân nói chung, phụ nữ nói riêng trong toàn tỉnh về bình đẳng giới….Thông qua các buổi sinh hoạt hội viên, sinh hoạt các câu lạc bộ phụ nữ, các buổi nói chuyện chuyên đề qua các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các buổi phổ biến pháp luật để chị em nâng cao nhận thức về luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự, luật đất đai. Hội còn phối hợp với Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ tuyên truyền sâu rộng Công ước của Liên hợp quốc “xoá bỏ mọi sự phân biệt đối với phụ nữ” với lãnh đạo các cấp các ngành. Tóm lại: để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, các cấp, các ngành phải coi đây là công việc thường xuyên, liên tục, không giao khoán trách nhiệm cho riêng một tổ chức nào. Có như vậy công tác phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ mới hoàn thành thắng lợi, như lời dạy của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Toàn xã hội chăm lo cho phụ nữ, chắc chắn sức sáng tạo của hàng chục triệu phụ nữ lao động và tấm lòng nhân hậu của hàng triệu bà mẹ sẽ càng đóng góp cho xã hội được nhiều hơn” [5; 191]. 3.2.5. Xây dựng mạng lưới phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ có sự thống nhất chỉ đạo hành động từ chính quyền xuống các tổ chức và nhân dân địa phương Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc hết sức khó khăn, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kế hoạch và cách thức thực hiện chu đáo. Trên thực tế thì các cơ quan, tổ chức, đoàn thể cấp trên rất khó nắm chắc và chỉ đạo một cách có hiệu quả đối với công tác phòng, chống bạo lực gia đình nếu không thông qua cấp dưới. Để thực hiện tốt giải pháp này cần thực hiện một số vấn đề sau: Thứ nhất, thành lập ban phòng chống bạo lực gia đình và tệ nạn xã hội. Ban này do nhân dân bầu ra, có trách nhiệm và quyền hạn theo quy định của địa phương. Ban phòng chống bạo lực gia đình và tệ nạn xã hội có trụ sở sinh hoạt tại khu vực của Ủy ban nhân dân xã, phường. Cán bộ hoà giải được tập huấn về các nội dung phòng chống bạo lực gia đình và các kỹ năng hoạt động, họ có khả năng tư vấn về hôn nhân, gia đình cấp độ địa phương. Thứ hai, xây dựng mô hình phòng chống bạo lực gia đình. Cụ thể mô hình thử nghiệm sẽ được xây dựng theo nguyên tắc phòng ngừa là chính, phòng ngừa bạo lực gia đình ngay từ khi nó chưa xảy ra. Giải quyết tích cực các vụ bạo lực gia đình. Khai thác các nguồn lực tại chỗ để ngăn chặn và giải quyết bạo lực có hiệu quả và ít tốn kém nhất. Tạo sự thống nhất hành động từ chính quyền đến các đoàn thể, gia đình và cộng đồng, lập mạng lưới tại xã, thôn, tổ, tạo ra phong trào mạnh mẽ chống bạo lực gia đình trong cộng đồng. Sức mạnh tổng hợp tại chỗ bao gồm: Chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể ở địa phương mà nòng cốt là Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh; các cơ sở y tế, giáo dục, tư vấn tâm lý; nhân dân không phân biệt học vấn, giới tính, lứa tuổi, tôn giáo. 3.2.6. Đầu tư công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, nhờ có đường lối đúng đắn và sáng tạo, Đảng cộng sản Việt Nam đã khéo léo động viên và lôi cuốn đông đảo phụ nữ tham gia, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng. Trong hoà bình, xây dựng đất nước, nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của phụ nữ ngày càng được phát huy. Tuy vậy, vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của phụ nữ. Vì thế, hiện nay yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ đang là đòi hỏi bức xúc. Ở nước ta, công tác nghiên cứu về phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Như trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình của Viện khoa học xã hội Việt Nam, hay trung tâm nghiên cứu giới và phát triển giới của Đại học quốc gia Hà Nội, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ…Ở các tỉnh, trong đó có Sơn La, do nhiều nguyên nhân, công tác nghiên cứu này còn hạn chế. Do từ trong lịch sử, đã tồn tại sự bất bình đẳng về giới trong gia đình, sự phân biệt đối xử với phụ nữ do phong tục, tập quán, sự đánh giá thấp của xã hội về khả năng, giá trị lao động của phụ nữ đã giam hãm phụ nữ ở địa vị thấp kém trong gia đình và xã hội với tất cả những bất công, thiệt thòi. Tuy còn có những hạn chế nhất định song công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ ở Sơn La trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ đã có sự hợp tác nghiên cứu các đề tài mang cấp quốc gia. Bên cạnh đó cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào công tác nghiên cứu khoa học về bạo lực đối với phụ nữ trên những phương diện chủ yếu sau: Thứ nhất: công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ ở tầm vĩ mô cần đi sâu nghiên cứu về vấn đề phụ nữ, vấn đề giới, đặc biệt là vấn đề bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình. Thứ hai: nghiên cứu phụ nữ phải đặt trong mối tương tác với gia đình, đặc biệt là với người chồng, phải làm rõ vai trò của phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới trong gia đình. Thứ ba: công tác nghiên cứu phụ nữ cần phải được sự quan tâm giúp đỡ của các đoàn thể, các tổ chức xã hội, đặc biệt là Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Sơn La - đơn vị trực tiếp nhất đối với mọi hoạt động của phong trào phụ nữ. Như vậy, ở Sơn La trong giai đoạn hiện nay, phụ nữ muốn được bình đẳng, phát triển, xoá bỏ triệt để nguồn gốc sâu xa nạn bạo lực của chồng đối với vợ thì công tác nghiên cứu về phụ nữ phải được đặt ra một cách nghiêm túc với sự nỗ lực của các cấp, các ngành có liên quan đặc biệt là các nhà nghiên cứu về phụ nữ. Tuy nhiên các giải pháp phòng chống bạo lực được người dân lựa chọn chủ yếu vẫn là giải pháp hoà giải, vận động gia đình, dòng họ can thiệp và giải quyết trong phạm vi dòng họ gia đình. Sự can thiệp của chính quyền, công an và các tổ chức đoàn thể ít được người dân chấp nhận. Vai trò của những người có uy tín trong gia đình, dòng họ được khẳng định trong việc giải quyết mâu thuẫn và hạn chế bạo lực gia đình. 3.2.7. Kiến nghị Thứ nhất: cần sớm ban hành luật phòng chống bạo lực gia đình. Ngôn ngữ dùng trong luật cần đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với người dân khi trình độ nhận thức, trình độ dân trí của một bộ phận người dân còn rất hạn chế. Thứ hai: cần soạn thảo các văn bản dưới luật để giúp người dân nhận thức rõ ràng hơn về luật pháp. Đồng thời phải thực hiện đồng bộ nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, để nâng cao nhận thức của đồng bào dân tộc về luật pháp. Thứ ba: xây dựng các mô hình gia đình văn hoá có sự tham gia của chính người dân. Trong đó có nội dung về phòng chống bạo lực gia đình. Thứ tư: các cơ quan thông tin, tuyên truyền cần nâng cao các hoạt động truyền thông trực tiếp về luật pháp đối với người dân Sơn La nhằm nâng cao nhận thức luật pháp của người dân. Tóm lại, có thể thấy bạo lực gia đình đối với phụ nữ hiện nay đang tồn tại và để lại hậu quả rất lớn ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Sơn La. Việc ngăn chặn tình trạng này không thể thực hiện một sớm một chiều mà cần phải có sự cố gắng của mọi cơ quan đoàn thể, cá nhân trong một thời gian dài với một hệ thống giải pháp đồng bộ. Nhưng một yếu tố đóng vai trò hết sức quan trọng là sự cố gắng của người phụ nữ. Bản thân người phụ nữ cần thoát khỏi mọi tự ti, nỗ lực rèn luyện để tự khẳng định mình thì mới có thể giành quyền bình đẳng thực sự đối với nam giới. Các giải pháp trên đây có thể chưa đầy đủ, nhưng tác giả hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào công tác phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay. KẾT LUẬN Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân loại đã và đang phấn đấu. Ngày nay, thế giới đã có nhiều thay đổi vượt bậc, nhưng vấn đề giới - vấn đề bình đẳng nam nữ ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả các nước có trình độ phát triển cao về kinh tế - xã hội vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Sự bất bình đẳng về giới, xét về mặt lý thuyết có thể nghiêng về phía nam hoặc nữ, nhưng trên thực tế những thiệt thòi vẫn thuộc về người phụ nữ. Phụ nữ thường đối mặt với sự phân biệt đối xử và hàng loạt rào cản về kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị… Vì vậy, đấu tranh vì bình đẳng giới đã và đang trở thành một phong trào rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới cả về phương diện lý thuyết lẫn phương diện thực tiễn. Ở Việt Nam, chủ trương bình đẳng giới được đề ra ngay từ khi Đảng cộng sản ra đời; chính sách bình đẳng giới thực sự là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của chính sách phụ vận qua các thời kỳ phát triển của Nhà nước ta. Quyền bình đẳng giới đã được quy định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước (1946). Vị trí, vai trò của nữ giới được xã hội tôn trọng và pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi để nữ giới phát triển tài năng. Tuy vậy, tình trạng bất bình đẳng giới vẫn là một thực tế đáng quan tâm, đặc biệt là tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ngày càng phổ biến và tăng nhanh. Trong đó Việt Nam nói chung và Sơn La nói riêng cũng không phải là một ngoại lệ. Sơn La là một tỉnh miền núi phía Bắc với 12 dân tộc anh em cùng chung sống, trình độ văn hoá còn thấp. Tỷ lệ mù chữ cao đặc biệt đối với phụ nữ, cộng đồng các dân tộc thiểu số thường khép kín, ít được giao lưu, tiếp xúc, và tham gia các hoạt động xã hội…. Do vậy, nhận thức của người dân về vấn đề bạo lực giới còn thấp, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Đây là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng bạo lực trong gia đình. Trước thực tế này đòi hỏi các cấp lãnh đạo phải luôn quan tâm, đầu tư thích đáng cho vấn đề này để giải thích đúng đắn và sâu sắc các vấn đề của cuộc đấu tranh chống bạo lực gia đình - nam nữ bình đẳng, coi đây là mục tiêu lâu dài. Cần giải phóng cho phụ nữ Sơn La thoát khỏi những áp bức, bất công, những trói buộc của hủ tục lạc hậu và quan niệm phong kiến nặng nề để bước lên làm chủ cuộc đời, làm chủ bản thân. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới, đòi hỏi người phụ nữ phải vươn lên. Người phụ nữ ngày nay không chỉ cần công, dung, ngôn, hạnh mà còn phải là những người có tri thức, có trình độ văn hoá, khoa học công nghệ; có sức khoẻ tốt, có khả năng thích nghi cao…Những yếu tố này không thể thiếu để phụ nữ được độc lập về kinh tế, có khả năng giao lưu, hội nhập và đủ điều kiện để thực hiện bình đẳng với nam giới. Vì vậy, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động sâu rộng trong xã hội về bình đẳng giới, về trách nhiệm của mỗi giới trong việc phấn đấu xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ; đồng thời tăng cường trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc thực hiện đầy đủ yêu cầu của Chính phủ về những nội dung đã ghi trong kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam là trách nhiệm của tất cả mọi người. Tất cả những nỗ lực này đều nhằm mục đích tiến tới xây dựng đất nước Việt Nam không chỉ giàu mạnh, mà còn là một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh, Bình đẳng giới ở Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2008. 2. Ph.Ăngghen, Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước, Nxb Sự thật, Toàn tập, tập 21, 1995. 3. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 4. Chủ nghĩa Mác và vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1962. 5. Di chúc Bác Hồ và công tác nghiên cứu, tuyên truyền của bảo tàng Hồ Chí Minh, Nxb Hà Nội, 2002. 6. Lê Duẩn, Vai trò và nhiệm vụ của người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn mới của cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1974. 7. Dương Thị Duyên, Liên hợp quốc về vấn đề bình đẳng nam nữ, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 3/ 1996, 1996. 8. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. 9. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. 10. Đặng Thị Hoa - Phạm Thị Kim Oanh, Vấn đề bạo lực gia đình, ở vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam, Tạp chí dân tộc học số 4/2008, Tr 9-21, 2008. 11. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa học giới - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - hành chính, Hà Nội, 2008. 12. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Sơn La, Báo cáo kết quả công tác hội và phong trào phụ nữ tỉnh Sơn La năm 2010 - phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2011, 2010. 13. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Sơn La, Báo cáo kết quả phối hợp tuyên truyền công tác phòng chống bạo lực gia đình năm 2010, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2011, 2010. 14. Nguyễn Linh Khiếu, Nghiên cứu phụ nữ giới và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003. 15. V.I.Lênin, Sáng kiến vĩ đại, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, Toàn tập, tập 39, 1977. 16. C.Mác và Ph. Ăngghen, Gia đình thần thánh, Nxb Sự thật, Hà Nội, Toàn tập, tập 2, 1983. 17. C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 21, 1995. 18. Nguyễn Thị Mão, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ nữ, Tạp chí nghiên cứu lý luận số 9/1996, Tr 11-12, 1996. 19. Hồ Chí Minh, Bài nói tại hội nghị luật hôn nhân-gia đình 1959, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Toàn tập, tập 9, 1996. 20. Hồ Chí Minh, Nam nữ bình quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Toàn tập, tập 6, 1995. 21. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 10, 1995. 22. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 12, 2000. 23. Nguyễn Hữu Minh, Bạo lực chống đối với vợ ở Việt Nam trong những năm gần đây, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 3/2006, Tr 23, 2006. 24. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật bình đẳng giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. 25. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 26. Lê Thị Quý, Bạo lực trong gia đình, bất bình đẳng trong quan hệ giới, Tạp chí khoa học về phụ nữ, sô 4/2002, Tr 17, 2000. 27. Lê Thị Quý - Đặng Vũ Cảnh Linh, Bạo lực gia đình - một sự sai lệch giá trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007. 28. Viện sĩ A.M.Ru-mi-an-txép, Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa hoc, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986. 29. Lê Thi, Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2006. 30. Hoàng Bá Thịnh, Bạo lực trong gia đình - Thực trạng và giải pháp, Tạp chí lý luận chính trị số 3/2003, Tr 65-69, 2003. 31. Toà án nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo công tác toà án năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011, 2010. 32. Đặng Ánh Tuyết, Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ và kết quả thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam, Tạp chí lý luận chính trị số 2/2007, Tr 56-60, 2007. 33. Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh năm 2010; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, 2010. 34. Viện ngôn ngữ, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học Hà Nội, 1998. Phụ lục Bạo lực gia đình bao giờ mới chấm dứt? Một số nạn nhân của nạn bạo lực trong gia đình Bạo lực gia đình ảnh hưởng đến tâm lý trẻ em Bạo lực gia đình - vấn nạn nhức nhối của xã hội Đồ thị biểu hiện nạn bạo lực gia đình ở Việt Nam Đồ thị biểu hiện nạn bạo lực gia đình ở Việt Nam Bạo lực gia đình - Hãy ngăn chặn và xoá bỏ!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan