The study was conducted with the aim of describing malnutrition in children
under 5 and some related factors in Son La province in 2015, on 244 mothers-children with
the smallest 5-year-old children in families in 4 extremely difficult communes Tan Lang,
Muong Coi, Ta Xua, Hang Chu of 2 poor districts of Phu Yen, Bac Yen, Son La province from
10/2015 to 06/2016. Methods: The study design was cross-sectional. Main findings: The rate of
underweight was 43,0%, stunting was 57,8%, wasting was 11,5%. Low birth weight (< 2500g),
early weaning children were associated with underweight of under 5 years old. Mothers who
did not receive antenatal care, did not take iron supplements during pregnancy and supplements
under 4 food groups were associated with stunting of children under 5 years old. Early weaning
was related to the wasting children under 5 years old. Conclusion: Malnutrition rate of children
under 5 years old in Son La was high. Mothers who did not receive prenatal care, did not take
iron, and children who had low birth weight, ate malnourished foods, and early weaning were
all associated with malnutrition.
10 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 710 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
58
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
Nguyễn Thị Nhung
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng (SDD) là tình trạng cơ thể
thiếu Protein – năng lượng và các vi chất
dinh dưỡng (1). Trẻ từ khi sơ sinh cho đến
lúc 5 tuổi là giai đoạn vô cùng quan trọng với
những biến đổi nhanh chóng về thể chất, hoàn
thiện về cấu tạo và chức năng của các cơ quan
bộ phận, là lứa tuổi có nhu cầu dinh dưỡng
cao, là thời kỳ nhạy cảm với các loại bệnh tật,
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất,
tinh thần và vận động của trẻ (1). SDD hay
gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, ảnh hưởng rõ rệt tới sự
phát triển trí tuệ, tầm vóc, khả năng lao động
đến tuổi trưởng thành.
Trong những năm trở lại đây, SDD trẻ em có
xu hướng giảm trên phạm vi toàn cầu. Tuy
nhiên theo thống kê của Quỹ Nhi đồng Liên
Hiệp Quốc, Tổ chức Y tế thế giới và Ngân
hàng thế giới (2011) về SDD trẻ em dưới 5
tuổi thấy châu Á vẫn là châu lục đứng đầu
về tỷ lệ 19,3% nhẹ cân và tỷ lệ 10,1% gầy
còm, đứng thứ 2 về tỷ lệ 26,8% thấp còi (2).
Tại Việt Nam, theo số liệu báo cáo năm 2014
của Viện Dinh Dưỡng, tỷ lệ SDD của trẻ dưới
5 tuổi nước ta giảm nhiều cụ thể là: thể nhẹ
cân 14,5%; thể thấp còi 24,9%; thể gầy còm
mức độ vừa 6,8%; nặng 4,8% (3). Có sự cách
biệt lớn về tỷ lệ SDD tại các vùng miền Việt
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi
và một số yếu tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015.
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả, trên 244 cặp mẹ - con với con dưới 5 tuổi nhỏ nhất trong gia đình
tại 4 xã đặc biệt khó khăn Tân Lang, Mường Cơi, Tà Xùa, Hang Chú của 2 huyện nghèo Phù Yên, Bắc
Yên tỉnh Sơn La trong thời gian từ tháng 10/2015 đến tháng 06/2016.
Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là 43,0%, thể thấp còi là 57,8%, thể gầy còm là 11,5%. Cân
nặng sơ sinh của trẻ thấp (dưới 2500g), thời điểm cai sữa cho trẻ không đúng có liên quan đến tình trạng
suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của trẻ dưới 5 tuổi. Tình trạng bà mẹ không khám thai, không uống viên sắt
trong quá trình mang thai và trẻ ăn bổ sung dưới 4 nhóm thực phẩm có liên quan giữa tình trạng suy dinh
dưỡng thể thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi. Thời điểm cai sữa cho trẻ không đúng có liên quan đến tình trạng
suy dinh dưỡng thể gầy còm của trẻ dưới 5 tuổi.
Kết luận: Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở cả 3 thể đều cao. Bà mẹ không khám thai, không
uống sắt, cân nặng sơ sinh thấp, thức ăn bổ sung không đủ dinh dưỡng, cai sữa sớm đều có liên quan đến
tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ.
Từ khóa: suy dinh dưỡng, trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt khó khăn.
Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố
liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015
Nguyễn Thị Nhung
BÀI BÁO NGHIÊN CỨU GỐC
*Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Nhung
Email: ntn7@huph.edu.vn
Trường Đại học Y tế công cộng
Ngày nhận bài: 24/04/2018
Ngày phản biện: 12/05/2018
Ngày đăng bài: 25/06/2018
59
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
Nguyễn Thị Nhung
Nam, trong khi các khu vực thành thị đang
đối phó với tỷ lệ thừa cân béo phì ngày càng
gia tăng thì các miền vùng sâu vùng xa vẫn
phải đương đầu với thách thức của đói nghèo
và SDD (4).
Sơn La là 1 tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó
Phù Yên, Bắc Yên là 2 trong 5 huyện nghèo
của tỉnh Sơn La theo Nghị quyết 30a của
Chính Phủ, là 2 huyện còn nhiều khó khăn,
kinh tế - xã hội phát triển kém hơn so với
các địa phương khác. Tân Lang, Mường Cơi,
Tà Xùa, Hang Chú là 4 xã đặc biệt khó khăn
thuộc 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên của tỉnh
Sơn La theo Quyết định số 30 của Thủ tướng
Chính phủ, nơi có tỷ lệ hộ nghèo trên 20%,
trình độ dân trí thấp cũng như điều kiện kinh
tế đặc biệt khó khăn. Chính vì vậy, nghiên
cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả tình
trạng SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu
tố liên quan tại 4 xã đặc biệt khó khăn của
tỉnh Sơn La năm 2015.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại: xã Tân Lang,
xã Mường Cơi thuộc huyện Phù Yên và xã
Tà Xùa, xã Hang Chú thuộc huyện Bắc Yên,
tỉnh Sơn La.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 10/2015 –
06/2016.
Thời gian thu thập số liệu tháng 11/2015.
Đối tượng nghiên cứu
Trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ của trẻ.
Tiêu chuẩn lựa chọn: trẻ nhỏ nhất trong gia
đình dưới 5 tuổi và bà mẹ của những trẻ này
có mặt trên địa bàn nghiên cứu trong thời gian
thu thập số liệu.
Tiêu chuẩn loại trừ: trẻ mắc các dị tật bẩm
sinh, khuyết tật do không đánh giá được tình
trạng dinh dưỡng theo Z-Score; bà mẹ mắc
các bệnh tâm thần, rối loạn trí nhớ không có
khả năng trả lời các câu hỏi phỏng vấn hoặc
từ chối tham gia nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu cho ước tính một tỷ lệ tương đối
trong quần thể.
Công thức:
n = Z2(1 - /2)
p(1-p)
(ε p)2
Trong đó:
n là cỡ mẫu nghiên cứu.
Z
1-α/2
= 1,96 là giá trị tương ứng của hệ số giới
hạn tin cậy tương ứng với α = 0,05, với độ tin
cậy ước lượng 95%.
p = 0,22 là tỷ lệ SDD của trẻ dưới 5 tuổi tại
Sơn La năm 2014 (theo số liệu báo cáo năm
2014 của Viện Dinh dưỡng (3)).
ε = 0,25 là mức sai lệch tương đối giữa tham
số mẫu và tham số quần thể.
Từ đó tính được cỡ mẫu tối thiểu n= 224.
Trong nghiên cứu này đã có 244 cặp mẹ con
được điều tra.
Chọn mẫu
Bước 1: Chọn xã: Chọn chủ đích 4 xã Tân
Lang, Mường Cơi, Tà Xùa, Hang Chú. Trong
mỗi xã, chọn mẫu theo tỷ lệ số trẻ dưới 5 tuổi
tại mỗi xã: tại thời điểm nghiên cứu xã Tân
Lang có 587 trẻ dưới 5 tuổi, Mường Cơi 685
trẻ, Tà Xùa 258 trẻ, Hang Chú 310 trẻ. Như
vậy, để đảm bảo số lượng mẫu nghiên cứu, số
lượng trẻ được chọn tối thiểu tại mỗi xã là: xã
Tân Lang 72 trẻ, Mường Cơi 84 trẻ, Tà Xùa
32 trẻ, Hang Chú 38 trẻ.
60
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
Bước 2: Chọn bản: Dựa trên danh sách các bản
của các xã đã chọn, tiến hành chọn bản theo
phương pháp chọn ngẫu nhiên hệ thống với
khoảng cách mẫu k = N/2 (N là tổng số bản
của xã đó), như vậy mỗi xã sẽ có một khoảng
cách k khác nhau. Chọn ngẫu nhiên bản đầu
tiên, sau đó cách k bản thì chọn bản thứ 2, đến
khi đủ số lượng trẻ cần thiết, chọn toàn bộ trẻ
dưới 5 tuổi và mẹ của trẻ đáp ứng tiêu chuẩn
lựa chọn của nghiên cứu trong bản đó.
Số lượng điều tra thực tế như sau:
Kỹ thuật thu thập thông tin
Đo nhân trắc: được thực hiện tại trạm Y tế
và nhà văn hóa thôn bản bởi điều tra viên và
các cán bộ y tế địa phương đã được tập huấn.
Cân trẻ bằng cân điện thử Tanita có độ chính
xác đến 0,1 kg, đo chiều cao bằng thước gỗ
chuyên dụng với độ chính xác 0,1 cm (chiều
dài nằm với trẻ ≤ 24 tháng tuổi và chiều cao
đứng với trẻ trên 24 tháng tuổi).
Phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ có con dưới 5
tuổi đến cân đo bằng bộ câu hỏi phỏng vấn đã
soạn sẵn (lồng ghép trong buổi cân đo).
Biến số và đánh giá
Thông tin nhân khẩu học của đối tượng nghiên
cứu: các thông tin về trẻ: tuổi, giới; các thông
tin về mẹ: dân tộc, trình độ học vấn, mức thu
nhập, hộ nghèo; các thông tin về chăm sóc
thai nghén, nuôi con bằng sữa mẹ, cho trẻ ăn
bổ sung.
Để đánh giá mức độ SDD của trẻ dưới 5 tuổi,
sử dụng chỉ số cân nặng/tuổi, chiều cao/tuổi,
cân nặng/chiều cao theo Z – Score (Từ -2SD
đến 2SD: bình thường; Từ -3SD đến -2SD:
vừa; Dưới -3SD: nặng) (5).
Phương pháp phân tích số liệu
Cách tính tuổi: Tuổi của trẻ được tính bằng
cách lấy ngày, tháng, năm điều tra trừ đi ngày
tháng năm sinh của trẻ và phân loại theo Tổ
chức Y tế thế giới 2006.
Số liệu nhân trắc được xử lý bằng phần mềm
Anthro 2006. Số liệu được mã hóa và nhập
bằng phần mềm Epidata 3.1. Phân tích bằng
phần mềm Stata 12.0. T-test được sử dụng để
kiểm định sự khác biệt giữa 2 giá trị trung
Xã Bản Số lượng trẻ/mẹ
Tân Lang Bản Mỏ 23
Bản Diệt 22
Thịnh Lang 30
Mường Cơi Văn Tân 21
Bản Ếch 14
Suối Cốc 28
Suối Bí 22
Tà Xùa Tà Xùa A 22
Khe Cái 15
Hang Chú Hang Chú 23
Suối Lềnh A 24
Nguyễn Thị Nhung
61
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
bình và χ2 test để kiểm định sự khác biệt giữa
2 tỷ lệ, có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. Phân
tích mối liên quan sử dụng tỷ số chênh OR
với khoảng tin cậy 95% CI được dùng để xác
định một số yếu tố liên quan tới tình trạng
SDD của trẻ.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua hội đồng đạo
đức của Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia số 844/
VDD-QLKH Hà Nội ngày 12/11/2015. Tất cả
bà mẹ tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự
nguyện sau khi được giải thích rõ mục tiêu,
ý nghĩa nghiên cứu. Đối tượng tham gia có
quyền từ chối trả lời phỏng vấn.
KẾT QUẢ
Tình trạng SDD của trẻ dưới 5 tuổi
Trong 244 trẻ tham gia nghiên cứu có 121
nam chiếm 49,6% và 123 nữ chiếm 50,4%
nữ. Kết quả về tình trạng SDD của trẻ dưới
5 tuổi được trình bày trong biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ
Bảng 1. Các chỉ số nhân trắc và tỷ lệ SDD của trẻ theo giới
Chỉ số Nam (n=121) Nữ (n=123) Tổng (n=244) p(t-test)
Cân nặng (kg) 9,63 ± 2,43 9,01 ± 2,68 9,32 ± 2,58 >0,05
Chiều cao (cm) 78,11 ± 10,63 75,57 ± 11,16 76,83 ± 10,95 >0,05
Loại SDD n % n % n % p(χ2 test)
SDD thể nhẹ cân 54 44,6 51 41,5 105 43,0 >0,05
SDD thể thấp còi 69 57,0 72 58,5 141 57,8 >0,05
SDD thể gầy còm 18 14,9 10 8,1 28 11,5 >0,05
Nguyễn Thị Nhung
62
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
Qua bảng 1 cho thấy cân nặng và chiều cao
của nam cao hơn của nữ. Tỷ lệ trẻ nam bị
SDD thể nhẹ cân và gầy còm cao hơn trẻ nữ.
Tỷ lệ trẻ nữ bị SDD thể thấp còi cao hơn trẻ
em. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05).
Tỷ lệ SDD các thể đều cao ở các nhóm tuổi.
Tỷ lệ SDD thể thấp còi ở nhóm tuổi từ 12 đến
23 tháng là cao nhất với 71,4%. Ở nhóm dưới
6 tháng tuổi có tỷ lệ SDD thể nhẹ cân và thấp
còi rất cao đều là 47,6%.
Một số yếu tố liên quan đến tình trạng SDD
của trẻ dưới 5 tuổi
Biểu đồ 2. Tỷ lệ SDD của trẻ theo nhóm tuổi
Bảng 2. Thực hành của bà mẹ trong quá trình mang thai và chăm sóc trẻ
Thực hành n %
Khám thai
(n=244)
Không khám
< 3 lần
≥ 3 lần
49
66
129
20,1
27,0
52,9
Uống viên sắt
(n=244)
Không
Có
Không nhớ/không trả lời
77
165
2
31,6
67,6
0,8
Cân nặng sơ sinh
(n=244)
Không cân
< 2500g
≥ 2500g
Không nhớ/không trả lời
51
20
170
3
20,9
8,2
69,7
1,2
Nguyễn Thị Nhung
63
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
Thực hành n %
Bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
(n=231)
Có
Không
17
214
7,9
92,1
Thời điểm bắt đầu ăn bổ sung (n=231)
Trung bình (tháng) 4,4
< 6 tháng
Đúng 6 tháng
> 6 tháng
147
49
35
63,6
21,2
15,2
Thời điểm cai sữa
(n=133)
Trung bình (tháng) 15,5
< 24 tháng
Đúng 24 tháng
> 24 tháng
119
11
3
89,5
8,3
2,2
Thực phẩm trẻ ăn trong ngày hôm qua
(n=231)
Không đủ 4 nhóm thực phẩm
Đủ 4 nhóm thực phẩm
123
108
53,3
46,7
Chỉ 52,9% bà mẹ khám thai từ đủ 3 lần trở lên
và 67,6% bà mẹ uống viên sắt trong quá trình
mang thai. Trẻ có cân nặng sơ sinh từ 2500g
trở lên chỉ chiếm 69,7%, bên cạnh đó có tới
20,9% trẻ không được cân. Tỷ lệ trẻ không
được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu rất
cao, lên đến 92,1%. Thời điểm trung bình
trẻ bắt đầu ăn bổ sung khá sớm khoảng giữa
tháng thứ 4 và 78,8% bà mẹ cho trẻ ăn bổ
sung sai thời điểm. 89,5% bà mẹ cai sữa cho
trẻ sớm. 53,3% trẻ ăn bổ sung dưới 4 nhóm
thực phẩm trong ngày.
Bảng 3. Mối liên quan giữa chăm sóc thai nghén và bà mẹ mới sinh đến tình trạng SDD
của trẻ
Các yếu tố
Thể nhẹ cân Thể thấp còi Thể gầy còm
SDD Không SDD SDD
Không
SDD SDD
Không
SDD
n % n % n % n % n % n %
Khám
thai
(n=244)
Không 20 40,8 29 59,2 35 71,4 14 28,6 5 10,2 44 89,8
Có 85 43,6 110 56,4 106 54,4 89 45,6 23 11,8 172 88,2
OR
95% CI
1,1
0,59 - 2,12
2,1
1,1 - 4,2
1,2
0,4 – 3,3
Uống
viên sắt
(n=244)
Không 31 40,3 46 59,7 52 67,5 25 32,5 6 7,8 71 92,2
Có 74 44,8 91 55,2 88 53,3 77 46,7 22 13,3 143 86,7
OR
95% CI
0,83
0,48 - 1,44
1,82
1,03 - 3,23
0,6
0,2 - 1,4
Cân
nặng sơ
sinh của
trẻ
(n=244)
< 2500g 14 70,0 6 30,0 15 75,0 5 25,0 3 15,0 17 85,0
≥ 2500g 74 41,2 100 58,8 89 52,4 81 47,6 22 12,9 148 87,1
OR
95% CI
3,3
1,2 - 9,3
2,7
0,9 - 7,9
1,2
0,3 - 4,4
Nguyễn Thị Nhung
64
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
Có mối liên quan giữa việc khám thai, uống
viên sắt của bà mẹ với tình trạng trẻ SDD
thể thấp còi. Bà mẹ không khám thai thì con
có nguy cơ bị SDD thể thấp còi gấp 2,1 lần
trẻ có bà mẹ được khám thai và sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với 95% CI không chứa
1 (1,05 – 4,18). Bà mẹ không uống viên sắt
trong quá trình mang thai thì con có nguy
cơ bị SDD thể thấp còi gấp 1,8 lần trẻ có bà
mẹ được uống viên sắt và sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với 95% CI không chứa 1
(1,03 – 3,23).
Có mối liên quan giữa cân nặng sơ sinh của
trẻ với tình trạng trẻ SDD thể nhẹ cân. Trẻ
có cân nặng sơ sinh dưới 2500g nguy cơ bị
SDD thể nhẹ cân gấp 3,3 lần trẻ có cân nặng
sơ sinh từ 2500g trở lên và sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với 95% CI không chứa 1
(1,20 – 9,27).
Trẻ ăn bổ sung dưới 4 nhóm thực phẩm có
nguy cơ bị SDD thể thấp còi gấp 1,7 lần trẻ
được ăn bổ sung từ 4 nhóm thực phẩm trở lên
và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 95%
CI không chứa 1 (1,1 – 2,9).
Nguy cơ bị SDD gầy còm ở trẻ cai sữa không
đúng thời điểm chỉ bằng 0,2 lần so với nguy
cơ bị SDD gầy còm ở trẻ có thời điểm cai sữa
đúng và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
95% CI không chứa 1 (1,3 – 20,4).
Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa tình trạng SDD với các yếu tố của việc
nuôi con bằng sữa mẹ (vắt bỏ sữa non, bú
mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, thời điểm
ăn bổ sung).
BÀN LUẬN
Nghiên cứu đã cho thấy tình trạng SDD của
trẻ em dưới 5 tuổi còn khá phổ biến ở Sơn La.
Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân, thấp còi và gầy còm
rất cao lần lượt là 43,0%; 57,8% và 11,5%.
So với số liệu điều tra toàn quốc năm 2014
tỷ lệ SDD ở cả 3 thể trong nghiên cứu này
cao hơn hẳn so với mức SDD trung bình của
tỉnh Sơn La (21,7%; 34,4% và 10,3%), của
Bảng 4. Mối liên quan giữa việc nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ ăn bổ sung đến tình
trạng SDD của trẻ
Các yếu tố
Thể nhẹ cân Thể thấp còi Thể gầy còm
SDD Không SDD SDD
Không
SDD SDD
Không
SDD
n % n % n % n % n % n %
Thực
phẩm ăn
bổ sung
(n=231)
Không
đủ 59 48 64 52 79 64,2 44 35,8 14 11,4 109 88,6
Đủ 39 36,1 69 63,9 55 50,9 53 49,1 13 12,0 95 88,0
OR
95% CI
1,6
0,9 - 2,7
1,7
1,1 - 2,9
0,9
0,4 - 2,1
Thời điểm
cai sữa
(n=133)
Không
đúng 47 38,5 75 61,5 65 53,3 57 46,7 12 9,8 110 90,2
Đúng 6 54,5 5 45,5 7 63,6 4 36,4 4 36,4 7 63,6
OR
95% CI
0,5
0,5 - 6,7
0,7
0,4 - 5,5
0,2
1,3 - 20,4
Nguyễn Thị Nhung
65
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
khu vực Trung du miền núi phía Bắc (19,8%;
30,7% và 8,2%) và cả nước (14,5%; 24,9%
và 6,8%) (3). Điều này cho thấy tình trạng
SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi tại các vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn là một vấn
đề sức khỏe rất cần được quan tâm. Kết quả
này cũng cao hơn so với nghiên cứu của Trịnh
Thị Tình tại xã Phúc Thịnh, huyện Chiêm
Hóa, tỉnh Tuyên Quang năm 2012 (11,6%;
22,8% và 7,2%) (6). Huyện Chiêm Hóa tỉnh
Tuyên Quang cũng là huyện miền núi, tuy
nhiên xã Phúc Thịnh không nằm trong danh
sách những xã đặc biệt khó khăn theo quyết
định số 204 của Thủ tướng Chính phủ. Điều
này cho thấy cùng là khu vực miền núi, có
những điều kiện khó khăn nhất định tuy nhiên
ở những vùng khó khăn hơn thì tỷ lệ SDD cao
hơn do hành vi chăm sóc thai nghén trong quá
trình mang thai, việc nuôi con bằng sữa mẹ và
cho trẻ ăn bổ sung.
4 xã nghiên cứu là những xã đặc biệt khó
khăn của tỉnh Sơn La: thu nhập chính của
hộ gia đình phần lớn là nông/lâm nghiệp
(92,2%); bà mẹ là người dân tộc thiểu số
(83,2); tỷ lệ hộ nghèo (23%). Về chăm sóc
dinh dưỡng cho trẻ: 92,1% trẻ không bú
sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu; 91,7%
trẻ cai sữa sớm; 78,5% trẻ ăn bổ sung sớm;
53,3% trẻ ăn bổ sung dưới 4 nhóm thực
phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối
liên quan chặt chẽ giữa cân nặng sơ sinh
của trẻ với tình trạng SDD thể nhẹ cân. Trẻ
có cân nặng sơ sinh dưới 2500g nguy cơ bị
SDD thể nhẹ cân gấp 3,3 lần trẻ có cân nặng
sơ sinh từ 2500g trở lên. Một nghiên cứu
tại Bangladesh cho thấy rằng tỷ lệ SDD thể
nhẹ cân cao hơn rõ rệt ở trẻ có cân nặng sơ
sinh thấp (52%) so với trẻ có cân nặng bình
thường (33%) (7). Kết quả này tương tự
với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh
Quyết tại Hà Giang, tỷ lệ SDD ở trẻ sinh ra
nhẹ cân cao gấp 2 lần so với trẻ sinh ra có
cân nặng bình thường (8).
Có mối liên quan giữa việc khám thai, uống
viên sắt của bà mẹ với tình trạng trẻ SDD thể
thấp còi. Bà mẹ không khám thai thì con nguy
cơ bị SDD thể thấp còi gấp 2,1 lần trẻ có có bà
mẹ được khám thai, bà mẹ không uống viên sắt
trong quá trình mang thai thì con có nguy cơ
bị SDD thể thấp còi gấp 1,82 lần trẻ có bà mẹ
được uống viên sắt. Trong quá trình mang thai
bà mẹ cần 3mg sắt để phòng chống bệnh thiếu
máu do thiếu sắt, nhu cầu của sắt tăng gấp đôi
để cơ thể mẹ sử dụng đồng thời để thai nhi
phát triển và dự trữ. Một nghiên cứu tại Tây
Phi đã chỉ ra rằng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ có
liên quan đến SDD thể thấp còi (OR 3,6) (9).
Tuy nhiên kết quả này khác với kết quả của
tác giả Nguyễn Thị Luận nghiên cứu tại Hà
Nam không thấy mối liên quan giữa SDD thể
thấp còi với việc khám thai và uống viên sắt
của bà mẹ trong quá trình mang thai (10). Sự
khác biệt này có thể do dịch vụ y tế tại các địa
phương là khác nhau, có thể do các bà mẹ uống
viên sắt nhưng chưa uống đúng. Việc thiếu sắt
trong quá trình mang thai có thể dẫn đến hiện
tượng đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai.
Nghiên cứu này cho thấy có mối liên quan chặt
chẽ giữa thành phần thực phẩm trẻ ăn bổ sung
với tình trạng trẻ SDD thể thấp còi. Trẻ không
được ăn bổ sung đầy đủ 4 nhóm thực phẩm có
nguy cơ bị SDD thể thấp còi gấp 1,7 lần trẻ được
ăn bổ sung từ 4 nhóm thực phẩm trở lên. Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu tại Hà Giang của
tác giả Nguyễn Thanh Quyết, trẻ không được ăn
bổ sung đầy đủ 4 nhóm thực phẩm có nguy cơ
bị SDD thể thấp còi gấp 1,6 lần trẻ được ăn bổ
sung từ 4 nhóm thực phẩm trở lên (8). Điều này
cho thấy việc cung cấp đầy đủ thức ăn bổ sung
cho trẻ là rất quan trọng, không những đủ về
mặt năng lượng mà còn đầy đủ về dinh dưỡng
và đa dạng các nhóm thực phẩm.
Trong điều tra này có 133 trẻ đã cai sữa, trong
đó chỉ có 8,3% bà mẹ có thời điểm cai sữa
đúng cho trẻ là 24 tháng. Kết quả này thấp
Nguyễn Thị Nhung
66
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
hơn với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh
Quyết năm 2011 tại Hà Giang với 29,7% bà
mẹ có thời điểm cai sữa đúng cho trẻ (8).
Trong nghiên cứu này cho thấy có mối liên
quan giữa thời điểm cai sữa cho trẻ với tình
trạng trẻ SDD gầy còm. Nguy cơ bị SDD gầy
còm ở trẻ có thời điểm cai sữa không đúng chỉ
bằng 0,2 lần nguy cơ bị SDD gầy còm ở trẻ có
thời điểm cai sữa đúng. 89,5% bà mẹ cai sữa
sớm cho trẻ sẽ dẫn đến trẻ thiếu đi nguồn dinh
dưỡng quý giá từ sữa mẹ mà khó thực phẩm
nào có thể bù lại được.
Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu: Nghiên
cứu đã mô tả được tình trạng SDD và một số
yếu tố liên quan đến SDD của trẻ em dưới 5
tuổi tại 4 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn
La, điều này cho thấy ở những vùng sâu vùng
xa thì tỷ lệ SDD vẫn là 1 gánh nặng đối với
Việt Nam. Do hạn chế về nguồn lực và thời
gian nên nghiên cứu này chưa bao trùm được
tỷ lệ SDD gầy còm ở trẻ em dưới 5 tuổi. Bên
cạnh đó sai số có thể gặp đó là sai số nhớ
lại trong quá trình thu thập thông tin qua
phỏng vấn, sai số do sự khác biệt ngôn ngữ
khi phỏng vấn bà mẹ người dân tộc thiểu số,
sai số hệ thống trong quá trình cân, đo chỉ số
nhân trắc của trẻ.Tác giả đã khống chế sai số
bằng cách phỏng vấn 1 cặp mẹ con với con
nhỏ nhất trong gia đình (dưới 5 tuổi), điều tra
viên là các cán bộ y tế tại địa phương đã được
tập huấn và phỏng vấn thử để kiểm tra tính
phù hợp của bộ câu hỏi. Đối với số liệu nhân
trắc: điều tra viên tham gia cân đo đã được
tập huấn chuẩn, có kỹ năng tốt và tham gia
suốt quá trình nghiên cứu. Các dụng cụ cân
đo được chuẩn hóa trước khi thực hiện được
sử dụng trong cả quá trình nghiên cứu.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là 43,0%, thể thấp còi
là 57,8%, thể gầy còm là 11,5%.
Cân nặng sơ sinh của trẻ thấp (dưới 2500g),
thời điểm cai sữa cho trẻ không đúng có liên
quan đến tình trạng SDD thể nhẹ cân của trẻ
dưới 5 tuổi.
Tình trạng bà mẹ không khám thai, không
uống viên sắt trong quá trình mang thai và trẻ
ăn bổ sung dưới 4 nhóm thực phẩm có liên
quan giữa tình trạng SDD thể thấp còi của trẻ
dưới 5 tuổi.
Thời điểm cai sữa cho trẻ không đúng có liên
quan đến tình trạng SDD thể gầy còm của trẻ
dưới 5 tuổi
Lời cảm ơn: Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới
Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Viện Đào tạo Y
học dự phòng và Y tế công cộng, Trung tâm
Y tế dự phòng tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện
thuận lợi, giúp đỡ tôi hoàn thành nghiên
cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Y Hà Nội - Bộ môn Nhi
(2013). Bài giảng Nhi khoa 1, NXB Y học, Hà
Nội, 215; 228-230; 234-236.
2. UNICEF, WHO and WB (2012). Level and
trends in child malnutrition 1990-2011, New
York, USA, 1-12 (17)
3. Viện Dinh Dưỡng (2015). Số liệu thống
kê Suy dinh dưỡng trẻ em năm 2014, truy
cập ngày 10/11/2105, tại trang web http://
viendinhduong.vn/viewpdf.aspx?n=/TT%20tin
%20Dd_2014/SDD_2014.pdf4.
4. Dương Công Minh (2010). Hiệu quả của mô
hình thử nghiệm can thiệp phòng chống suy
dinh dưỡng cho trẻ dưới 5 tuổi tại một xã thuộc
thành phố Hồ Chí Minh (từ tháng 9/2008 đến
tháng 10/2009), Tạp chí Dinh dưỡng và Thực
phẩm 6(3+4), 117-1245.
5. WHO (2006). WHO Child Growth Standard,
World Health Organization, Geneva.
6. Trịnh Thị Tình (2013). Tình trạng dinh dưỡng
và một số yếu tố ảnh hưởng của trẻ dưới 5 tuổi
tại Phúc Thịnh, Chiêm Hóa, Tuyên Quang năm
2012, Luận văn Cử nhân Y tế Công cộng, Đại
học Y Hà Nội.
7. Nguyễn Thanh Quyết (2011). Thực trạng SDD
Nguyễn Thị Nhung
67
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 02, Số 02-2018)
Journal of Health and Development Studies (Vol.02, No.02-2018)
và một số yếu tố liên quan ở trẻ em dưới 5 tuổi
tại xã Tiên Yên, huyện Quang Bình, tỉnh Hà
Giang năm 2011, Tiểu luận tốt nghiệp Bác sỹ
chuyên khoa cấp I, Trường Đại học Y Hà Nội.
8. Rahman MS, Howlader T, Masud MS (2016).
Association of Low-Birth Weight with
Malnutrition in Children under Five Years in
Bangladesh: Do Mother’s Education, Socio-
Economic Status, and Birth Interval Matter?
PLoS One. 2016 Jun 29;11(6)
9. Thorne CJ, Roberts LM, Edwards DR (2013).
Anaemia and malnutrition in children aged
0–59 months on the Bijagós Archipelago,
Guinea-Bissau, West Africa: a cross-sectional,
population-based study. Paediatr Int Child
Health. 2013 Aug; 33(3): 151–160
10. Nguyễn Thị Luận (2014). Tình trạng dinh dưỡng
và một số yếu tố ảnh hưởng của trẻ em dưới 5 tuổi
tại Đội Sơn, Duy Tiên, Hà Nam năm 2013, Khóa
luận Bác sỹ Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội.
Nutritional status of children under 5 years of age and factors
associated in 4 extremely difficult at Son La province, 2015
Nguyen Thi Nhung
Hanoi University of Public Health
Objectives: The study was conducted with the aim of describing malnutrition in children
under 5 and some related factors in Son La province in 2015, on 244 mothers-children with
the smallest 5-year-old children in families in 4 extremely difficult communes Tan Lang,
Muong Coi, Ta Xua, Hang Chu of 2 poor districts of Phu Yen, Bac Yen, Son La province from
10/2015 to 06/2016. Methods: The study design was cross-sectional. Main findings: The rate of
underweight was 43,0%, stunting was 57,8%, wasting was 11,5%. Low birth weight (< 2500g),
early weaning children were associated with underweight of under 5 years old. Mothers who
did not receive antenatal care, did not take iron supplements during pregnancy and supplements
under 4 food groups were associated with stunting of children under 5 years old. Early weaning
was related to the wasting children under 5 years old. Conclusion: Malnutrition rate of children
under 5 years old in Son La was high. Mothers who did not receive prenatal care, did not take
iron, and children who had low birth weight, ate malnourished foods, and early weaning were
all associated with malnutrition.
Keywords: malnutrition, children under 5 years old.
Nguyễn Thị Nhung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_trang_suy_dinh_duong_o_tre_em_duoi_5_tuoi_va_mot_so_yeu.pdf