Bên cạnh các tài liệu hướng dẫn, ở các
nước, cơ quan thẩm định dự thảo thường tổ
chức các lớp tập huấn, các buổi trao đổi kinh
nghiệm để các chuyên gia soạn thảo ở các
bộ, ngành có thể chia sẻ và cùng giúp nhau
trao đổi, xử lý những vướng mắc trong quá
trình soạn thảo.
Ngoài ra, kinh nghiệm của các nước cho thấy,
việc soạn thảo các VBQPPL có thể được
ứng dụng công nghệ thông tin để vừa tăng
tính chính xác, kịp thời và đặc biệt là chia
sẻ thông tin giữa các giai đoạn của quy trình
soạn thảo. Ví dụ điển hình là hệ thống hỗ
trợ soạn thảo dự thảo văn bản luật của Cộng
hòa Pháp (S.O.LO.N). Với việc sử dụng hệ
thống này, các chủ thể có liên quan đến dự
thảo có thể chủ động theo dõi được tiến trình
phát triển của dự thảo để chủ động tiếp cận
thông tin, cho ý kiến. Bên cạnh đó, hệ thống
hỗ trợ soạn thảo văn bản còn giúp cho việc
thống nhất định dạng soạn thảo các dự thảo
luật, chẳng hạn như cách trình bày văn bản,
các tiêu đề v.v. Đồng thời, hệ thống này còn
có chức năng cung cấp các gợi ý về sử dụng
các thuật ngữ, các từ ngữ pháp lý, bảo đảm
tính thống nhất trong việc sử dụng các thuật
ngữ với Hiến pháp và hệ thống VBQPPL,
giúp cho người soạn thảo thể hiện các quy
phạm pháp lý được một cách dễ dàng hơn
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổ chức cơ quan soạn thảo các dự án luật nhìn từ kinh nghiệm một số nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔ CHỨC CƠ QUAN SOẠN THẢO CÁC DỰ ÁN LUẬT
NHÌN TỪ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC1
1 Bài viết sử dụng kết quả của đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Tổ chức cơ quan soạn thảo Dự án Luật ở một số nước
và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”.
Tóm tắt:
Xuất phát từ quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa việc hoạch
định chính sách và chuyển hóa chính sách thành các quy phạm
pháp luật, ở các nước trên thế giới có hai mô hình tổ chức cơ quan
soạn thảo các dự án luật là cơ quan soạn thảo độc lập và cơ quan
soạn thảo kết hợp. Mỗi cơ quan có những ưu điểm và hạn chế nhất
định, phù hợp với truyền thống xây dựng pháp luật ở các quốc gia.
Hoàng Minh Hiếu*
* TS. Văn phòng Quốc hội.
Abstract
Based on different perspectives on the relationship between policy
development and policy transformation into the legal regulations,
there are two models for law drafting arrangements, one is the
independent drafting agency and the other is the combined drafting
agency. Each model of law drafting agency has certain advantages
and disadvantages, in line with the traditional manner of the
country’s law drafting.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: cơ quan soạn thảo; quy trình
lập pháp; dự án luật; xây dựng pháp
luật; chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh; hoạch định chính sách; kỹ thuật
soạn thảo
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 28/10/2018
Biên tập : 15/11/2018
Duyệt bài : 21/11/2018
Article Infomation:
Keywords: the drafting agency;
legislation process; law project;
law development; plan of law and
ordinance development; policy
making; drafting techniques
Article History:
Received : 28 Oct. 2018
Edited : 15 Nov. 2018
Approved : 21 Nov. 2018
Tại Hội nghị chuyên đề về công tác xây
dựng pháp luật năm 2018 do Ủy ban Thường
vụ Quốc hội tổ chức vào tháng 8/2018, đã
có rất nhiều câu hỏi được đặt ra xung quanh
công tác soạn thảo các dự án luật ở nước ta.
Trước tình trạng hệ thống pháp luật thiếu ổn
định, chất lượng các dự thảo luật chưa cao,
có đại biểu đã cho rằng, cần phải xem lại
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
56 Số 22(374) T11/2018
cách soạn thảo luật như hiện nay, nhất là cần
phải nâng cao tính chuyên nghiệp trong xây
dựng luật2. Đây là những vấn đề không mới,
thậm chí, như Phó Chủ tịch Quốc hội Uông
Chu Lưu nêu tại hội nghị, là “căn bệnh kinh
niên” trong công tác lập pháp3.
Để giải quyết tồn tại này, đã có nhiều
đề xuất, kiến nghị khác nhau. Trong đó có
những đề xuất, kiến nghị tập trung vào việc
cải tiến, đổi mới cách thức tổ chức cơ quan
soạn thảo các dự án luật. Phát biểu tại Hội
nghị nói trên, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh
Tân đã bày tỏ sự băn khoăn về hiệu quả của
mô hình giao cho vụ pháp chế của các bộ
chủ trì soạn thảo các dự án luật4. Đề xuất này
cũng được nhiều chuyên gia nghiên cứu chia
sẻ. Đã có những ý kiến đề nghị cần giao các
dự án luật này cho một cơ quan soạn thảo
độc lập thể hiện các dự thảo5, thậm chí có ý
kiến mang tính đổi mới mạnh mẽ là cần tổ
chức “đấu thầu công khai quyền soạn luật”
để các tổ chức, cá nhân (như trường đại học
luật, các công ty luật, các viện nghiên cứu
khoa học pháp lý...) có cơ hội tham gia xây
dựng, soạn thảo các dự án luật6.
Trên thực tế, những vấn đề liên quan
đến công tác soạn thảo luật không chỉ mang
tính thời sự ở Việt Nam mà còn được quan
tâm, nghiên cứu ở rất nhiều nước trên thế
giới. Trước tình trạng lạm phát văn bản quy
phạm pháp luật (VBQPPL) vào giai đoạn
2 Nguyễn Lê, ‘Có nước nào làm luật theo kiểu chúng ta không’, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 18/7/2018.
3 H.Vũ, ‘Siết chặt kỷ luật, kỷ cương xây dựng luật’, Đại đoàn kết, 18/7/2018.
4 Nguyễn Lê, Dẫn trên.
5 Nguyễn Văn Thuận, ‘Về mô hình cơ quan giúp công tác xây dựng luật, pháp lệnh’, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
1/2001.
6 Lê Nết, ‘Xây luật ... xây dựng luật’, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 31/8/2014.
7 Từ những năm 1997, OECD đã có những dự án lớn để thúc đẩy việc nâng cao chất lượng của các dự án văn bản quy
phạm pháp luật ở các nước thành viên, ví dụ như chương trình Better Regulation in Europe: Xem: OECD, Better
Regulation in Europe – Progress and Trends, www.oecd.org.
8 Edward Donelan, ‘Legislative Drafting – civil and common law approaches compared’, OECD Sigma Papers,www.
oecd.org/mena/governance/41725083.ppt.
những năm 1990, rất nhiều tổ chức quốc
tế và nhiều nước trên thế giới đã có những
nỗ lực để nâng cao chất lượng các dự thảo
VBQPPL. Chẳng hạn, Tổ chức Hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD) đã có những dự
án nghiên cứu lớn để nâng cao chất lượng
của các dự thảo VBQPPL ở các nước thành
viên7.
1. Mô hình cơ quan soạn thảo các dự án
luật ở các nước trên thế giới
Ở các nước, mặc dù có những điểm
khác biệt nhất định, nhưng tựu trung có hai
mô hình cơ bản trong việc tổ chức cơ quan
soạn thảo dự án luật là mô hình cơ quan soạn
thảo kết hợp và mô hình cơ quan soạn thảo
độc lập. Sự khác biệt cơ bản trong cách thức
tổ chức của hai cơ quan này là quan điểm về
mối quan hệ giữa việc hoạch định chính sách
và việc chuyển hóa các chính sách thành các
quy phạm pháp luật8.
1.1 Mô hình cơ quan soạn thảo kết
hợp
Đây là mô hình phổ biến ở các nước
theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Mô
hình cơ quan soạn thảo kết hợp là cách thức
tổ chức mà cơ quan soạn thảo luật vừa thực
hiện việc hoạch định chính sách vừa chuyển
hóa các nội dung chính sách thành các quy
phạm pháp luật trong các dự thảo văn bản.
Cách hiểu về cơ quan soạn thảo theo cách
tiếp cận này tương đối phổ biến ở các nước
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 22(374) T11/2018
châu Âu lục địa. Thông thường, cơ quan soạn
thảo chính là một bộ của Chính phủ. Trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, các
cơ quan này phát hiện ra những tồn tại trong
đời sống kinh tế - xã hội và để giải quyết
những khó khăn này, họ thường đề xuất ban
hành mới hoặc sửa đổi pháp luật hiện hành.
Để chuyển tải những nội dung chính sách
này thành VBQPPL, các bộ thường trực tiếp
thể hiện các ý tưởng chính sách của mình
dưới hình thức VBQPPL.
Đây là cách thức soạn thảo mang tính
truyền thống với quan niệm cho rằng, không
thể phân tách một cách triệt để giữa nội
dung của các chính sách với cách thức thể
hiện chúng. Những người đề xuất ra các nội
dung chính sách có thể hiểu được một cách
sâu sắc nhất các nội dung chính sách để thể
hiện chính xác chúng trong các VBQPPL.
Hơn thế nữa, việc giao cho cùng một
cơ quan thực hiện việc hoạch định chính
sách và chuyển tải chúng dưới hình thức của
VBQPPL sẽ giúp cho tiến trình soạn thảo
được diễn ra một cách nhanh chóng hơn,
không mất thời gian cho quá trình phối hợp
thực hiện giữa bộ phận hoạch định chính
sách và bộ phận soạn thảo văn bản.
Tuy nhiên, trên thực tế, để làm tốt công
tác soạn thảo VBQPPL, các cơ quan soạn
thảo theo mô hình này vẫn cần có những
chuyên gia có chuyên môn cao để tiến hành
chuyển hóa các nội dung chính sách thành
ngôn ngữ pháp luật. Điều này xuất phát từ
yêu cầu của công tác soạn thảo. Đơn giản là
những người hoạch định chính sách không
có chuyên ngành về luật, thì không thể hiện
9 Bernard Ducamin and William Dale, The Role of the Conseil d’Etat in Drafting Legislation, The International and
Comparative Law Quarterly, Vol.30 No. 4 (Oct.1981), pp. 882 – 901.
10 OECD, Better Regulation in Europe: Germany, 2010
11 Ministry of Government Legislation,
12 Văn phòng Quốc hội, Giới thiệu về Nghị viện Nhật Bản và bộ máy giúp việc, (NXB Hồng Đức, 2017), tr. 93-97.
được các ý muốn, mục đích của chính sách
thành các hệ thống các quy phạm chặt chẽ
mà một VBQPPL đòi hỏi. Điều này càng
trở nên khắt khe hơn ở những nước có hệ
thống pháp luật châu Âu lục địa, nơi mà
tính chặt chẽ, tính quy phạm trong thể hiện
các VBQPPL càng được đề cao hơn. Chính
vì vậy, ngay ở Cộng hòa Pháp, các bộ soạn
thảo văn bản luật vẫn thường giao việc thể
hiện văn bản dự thảo luật cuối cùng cho
những chuyên viên có chuyên môn về soạn
thảo luật thể hiện sau khi nội dung chính
sách do các bộ đề xuất đã được Chính phủ
thông qua.
Một đặc điểm nổi bật nữa trong cách
thức tổ chức soạn thảo các dự án luật theo
mô hình này là, các dự thảo được trải qua
quá trình thẩm định rất chặt chẽ cả về nội
dung chính sách lẫn về cách thức thể hiện
trước khi được trình ra Quốc hội. Chẳng
hạn, ở Cộng hòa Pháp, việc thẩm định
các dự án luật được giao cho Hội đồng
Nhà nước (Conseil d’État). Cơ quan này
có quyền thẩm định cả về nội dung chính
sách lẫn hình thức ngôn ngữ thể hiện, tính
súc tích, rõ ràng và chính xác của dự thảo
theo một quy trình rất chặt chẽ9. Tương tự, ở
Cộng hòa liên bang Đức, dự thảo luật được
thẩm định ở Bộ Tư pháp10, ở Hàn Quốc là
vai trò của Bộ Pháp chế11 và ở Nhật Bản
là Cục Pháp chế nội các12. Tuy nhiên, khác
với ở Cộng hòa Pháp, việc thẩm định ở các
nước này được tập trung vào việc bảo đảm
tính hợp hiến, tính thống nhất của dự thảo
với hệ thống pháp luật và sau đó là về hình
thức thể hiện văn bản của dự thảo. Còn việc
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 22(374) T11/2018
thẩm định sâu về mặt chính sách lại được
giao cho một số cơ quan khác. Chẳng hạn, ở
Hàn Quốc, để xem xét, đánh giá chất lượng
của việc hoạch định chính sách, các báo cáo
đánh giá tác động và dự thảo luật phải được
gửi đến Ủy ban Cải cách thể chế để thẩm
định13. Ở Cộng hòa Liên bang Đức, để giám
sát các bộ trong việc thực hiện đánh giá tác
động của dự thảo văn bản và tính toán chi phí
tuân thủ của các dự thảo luật, có hai thiết chế
được thành lập là Phòng Chất lượng văn bản
(Better Regulation Unit) thuộc Văn phòng
Thủ tướng và Hội đồng Giám sát văn bản
quốc gia (NRCC). Trong đó, Hội đồng Giám
sát văn bản quốc gia có vai trò rất quan trọng
trong việc đánh giá các tác động kinh tế (chi
phí tuân thủ) mà các dự thảo có thể tạo ra14.
Ngoài ra, do việc soạn thảo được phân
công cho nhiều bộ khác nhau thực hiện nên
để thống nhất trong việc thể hiện các văn
bản, Chính phủ các nước này thường ban
hành văn bản hướng dẫn về quy cách, hình
thức, mẫu văn bản để áp dụng trong toàn
hệ thống. Thậm chí, để phục vụ cho công
tác soạn thảo và theo dõi tiến độ của các dự
thảo, một số nước còn ứng dụng rất mạnh
mẽ các ứng dụng công nghệ thông tin15.
1.2 Mô hình cơ quan soạn thảo độc lập
Ở những nước theo truyền thống pháp
luật Anh, mô hình tổ chức cơ quan soạn thảo
phổ biến là mô hình cơ quan soạn thảo độc
lập. Xuất phát từ quan niệm hoạt động soạn
thảo luật theo nghĩa hẹp, cơ quan soạn thảo
dự án luật được hiểu là các cơ quan chuyên
trách, có chức năng chuyển hóa, hay “dịch”
các nội dung chính sách mà các bộ đã hoạch
13 OECD, Regulatory Policy in Korea: Towards Better Regulation, OECD Publishing, Paris, 2017.
14 The National Regulatory Control Council, https://www.normenkontrollrat.bund.de
15 Ví dụ như hệ thống hệ thống S.O.L.O.N (Système d’Organisation en Ligne des Opérations Normatives – Hệ thống lập
pháp trực tuyến) ở Cộng hòa Pháp; Hệ thống hướng dẫn soạn thảo điện tử (eNorm) ở CHLB Đức.
định thành các dự thảo VBQPPL.
Ở đây, sự phân biệt giữa hai công
đoạn: hoạch định chính sách và chuyển hóa
chính sách thành các quy phạm được thể
hiện một cách rất rõ ràng. Theo đó, công
việc hoạch định các nội dung chính sách vẫn
được giao cho các bộ thuộc Chính phủ vì
hơn ai hết, đây là các cơ quan trực tiếp thi
hành chính sách, hiểu được những vướng
mắc trong đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước. Tuy nhiên, việc chuyển hóa các nội
dung chính sách thành các dự thảo VBQPPL
lại được giao cho một bộ phận chuyên môn
độc lập thực hiện. Ở những nước khác nhau,
bộ phận này có thể trực thuộc các cơ quan
khác nhau. Chẳng hạn ở Anh, Văn phòng Cố
vấn Nghị viện là cơ quan thuộc Văn phòng
Nội các; ở Canada, cơ quan này là Cục Pháp
chế thuộc Bộ Tư pháp; ở Singapore là Vụ
Pháp chế thuộc Văn phòng Tổng Chưởng lý.
Những cơ quan này có vị trí độc lập,
không phải chịu bất kỳ một sự tác động nào
về mặt chính trị trong quá trình thực hiện
công việc của mình, có trách nhiệm và có
mối quan hệ chặt chẽ với các bộ hoặc các
cá nhân có thẩm quyền hoạch định chính
sách trong việc bảo đảm thể hiện một cách
chính xác các nội dung chính sách trong các
dự thảo luật. Mối quan hệ này thường được
ví như mối quan hệ giữa nhà cung cấp dịch
vụ - là những người trực tiếp soạn thảo luật
và những khách hàng - là những người có
nhiệm vụ hoạch định chính sách. Chẳng
hạn, một bộ hoặc một nghị sĩ có sáng kiến về
luật sẽ trao đổi, phối hợp cùng cơ quan soạn
thảo về ý tưởng của mình. Trên cơ sở những
ý tưởng và sáng kiến đó, các nhà soạn thảo
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 22(374) T11/2018
luật sẽ phải tiến hành tìm hiểu, xác định,
hình thành những nội dung quy phạm cụ thể
và sau đó thể hiện chúng thành các dự thảo
VBQPPL16.
Như đã đề cập, mô hình cơ quan soạn
thảo độc lập có nguồn gốc ở nước Anh từ thế
kỷ thứ 19. Lịch sử ghi lại trước năm 1869,
các dự án luật được trình ra Nghị viện Anh
vẫn do các bộ thuộc Chính phủ tự tổ chức
soạn thảo. Tuy nhiên, do số lượng các văn
bản ngày càng lớn, việc mỗi bộ có một cơ
quan soạn thảo như vậy gây ra sự lãng phí
và không bảo đảm sự thống nhất trong việc
soạn thảo văn bản. Việc mỗi bộ trình các dự
thảo theo các hình thức khác nhau như vậy
cũng làm cho Chính phủ rất khó kiểm tra
được chất lượng của dự thảo, nhất là trong
việc kiểm tra việc sử dụng ngân sách được
đưa vào các giải pháp lập pháp của các bộ.
Đến năm 1869, Bộ Tài chính đề xuất
giải pháp xây dựng một cơ quan soạn thảo
văn bản độc lập trực thuộc Bộ Tài chính
để soạn thảo các dự thảo cho Chính phủ.
Việc đặt cơ quan này ở Bộ Tài chính vào
lúc đó giúp cho việc kết nối công việc của
Chính phủ trở nên dễ dàng hơn. Với những
tính chất ưu việt của phương án này, ngày
8/2/1869, Văn phòng Cố vấn Nghị viện đã
được thành lập. Ngay từ thời gian đầu, để
tránh việc các bộ trong Chính phủ cảm thấy
bị hạn chế quyền lực, Văn phòng Cố vấn
Nghị viện được xác định rõ vai trò chỉ tập
trung vào việc thể hiện các nội dung chính
sách thành ngôn ngữ pháp lý mà không can
thiệp vào nội dung của các chính sách đã
được các bộ hoạch định17.
16 Ann Seidman, Robert B. Seidaman, Nalin Abeyesekere, Soạn thảo luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ: Sổ tay cho Nhà
soạn thảo, (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003), tr. 24.
17 T. K. Viswanathan, Legislative Drafting: Shaping the Law for the New Millennium Indian Law Institute 2007 (Chapter
III: Origin of the Office of the Parliamentary Counsel in England).
Từ năm 1869 cho đến nay, Văn phòng
Cố vấn Nghị viện vẫn giữ nguyên tắc làm
việc đó nhưng cơ quan này được luân
chuyển trực thuộc nhiều cơ quan khác nhau.
Cho đến nay, Văn phòng Cố vấn Nghị viện
trực thuộc Văn phòng Nội các.
Về cách thức tổ chức công việc, các
nhà soạn thảo luật chuyên nghiệp tuy mang
tên là “luật sư nghị viện” nhưng kỳ thực là
các công chức. Nhiệm vụ “soạn thảo” này
được hiểu là “dịch” chính sách thành các
quy phạm pháp luật một cách rõ ràng, có
hiệu lực và dễ hiểu. Nói cách khác, đây là
việc biến ngôn ngữ của chính sách thành
ngôn ngữ pháp lý.
Trong quy trình soạn thảo luật, khi
nội dung của dự án luật đã được Chính phủ
thông qua, bộ chủ trì soạn thảo luật có trách
nhiệm xây dựng “bản hướng dẫn soạn thảo
dự án luật”, trong đó nêu rõ nội dung chính
sách dự kiến đưa vào dự án luật. Trên cơ
sở bản “Hướng dẫn soạn thảo dự án luật”
này, các nhà soạn thảo luật chuyên nghiệp
của Văn phòng Cố vấn Nghị viện sẽ có trách
nhiệm “dịch” những nội dung, định hướng
mang tính nguyên tắc thành các quy phạm
(tức là thực hiện việc “quy phạm hóa” chính
sách) trong một dự thảo luật.
Trong quá trình chuyển hóa nội dung
chính sách thành các dự thảo luật, các chuyên
gia soạn thảo của Văn phòng Cố vấn Nghị
viện phải làm việc chặt chẽ với các chuyên
gia đến từ các bộ dựa trên nguyên tắc phối
hợp. Để bảo đảm mối quan hệ làm việc này,
Văn phòng Cố vấn Nghị viện còn soạn thảo
bản Hướng dẫn làm việc để làm cơ sở cho
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 22(374) T11/2018
việc phối hợp giữa các cơ quan18.
Đặc biệt, trong quá trình xây dựng dự
thảo văn bản luật, Văn phòng Cố vấn Nghị
viện vẫn giữ nguyên tắc không tham gia
tranh luận về các nội dung của dự thảo. Đây
là nguyên tắc mang tính truyền thống. Tuy
nhiên, do các bản hướng dẫn về chính sách
đôi khi chưa được đầy đủ hoặc chưa phù
hợp, thống nhất với chính sách pháp luật nên
cũng không tránh khỏi việc các chuyên gia
soạn thảo đôi khi tham gia vào việc trao đổi,
thảo luận về nội dung của các chính sách19.
2. Những bài học kinh nghiệm
Qua nghiên cứu mô hình cơ quan soạn
thảo dự thảo luật của các nước trên thế giới,
có thể rút ra một số nội dung sau đây có thể
nghiên cứu, tiếp thu để tiếp tục cải tiến, đổi
mới quy trình lập pháp ở nước ta:
Thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu, đổi
mới quy trình lập pháp của Quốc hội, trong
đó cần hướng tới việc tách biệt giữa công
đoạn hoạch định chính sách và chuyển hóa
chính sách thành các quy phạm pháp luật.
Ở nước ta hiện nay, theo quy định của
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015, trong
quá trình soạn thảo luật cũng đã có những
tách bạch nhất định giữa hai công đoạn này.
Ví dụ, trong giai đoạn ở Chính phủ, khi xây
dựng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
thì các nội dung chính sách sẽ được Chính
phủ thông qua trước và sau khi dự án luật
được đưa vào Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh của Quốc hội thì các bộ, ngành
mới tiến hành soạn thảo. Tuy nhiên, trên
thực tế, các nội dung chính sách được hình
thành trong quá trình xây dựng Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh thường còn
18 Office of the Parlamentary Counsel, Working with The OPC, 2011.
19 Edward C. Page, Their Word Is Law: Parliamentary Counsel and Creative Policy Analystic, Sweet and Maxell, Issue4, 2009.
20 Nguyễn Lê, Dẫn trên, chú thích 1.
rất sơ sài. Đồng thời, Chính phủ cũng chưa
dành nhiều thời gian để thảo luận một cách
kỹ càng trong việc xem xét, quyết định các
nội dung chính sách này. Trong Hội nghị
chuyên đề về công tác xây dựng pháp luật
năm 2018, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao Nguyễn Hòa Bình đã nhận định rằng
mỗi phiên họp trong một buổi mà Chính phủ
thảo luận, cho ý kiến sáu dự án luật thì chắc
chắn chất lượng không thể cao được20.
Tương tự, ở giai đoạn thảo luận tại
phiên họp toàn thể của Quốc hội, theo quy
định hiện hành, Quốc hội có thể biểu quyết
về những vấn đề lớn, mang tính chính sách
để làm cơ sở cho việc tiếp thu, chỉnh lý dự
thảo. Tuy nhiên, đây chỉ là vấn đề mang
tính lựa chọn, chưa có tính nguyên tắc, bắt
buộc. Vì vậy, tính chất giữa việc thảo luận
về dự án tại kỳ họp xem xét lần thứ nhất và
thảo luận tại kỳ họp xem xét lần thứ hai gần
tương tự nhau, không có sự khác biệt về mục
đích thảo luận và giá trị của từng phiên họp.
Thứ hai, nghiên cứu xây dựng mô hình
cơ quan soạn thảo phù hợp với điều kiện và
bối cảnh ở nước ta.
Hiện nay, cách thức soạn thảo các dự
án luật ở nước ta đang được thực hiện theo
mô hình cơ quan soạn thảo kết hợp. Các
bộ, ngành được giao có trách nhiệm vừa
hoạch định chính sách, vừa chuyển hóa các
nội dung chính sách này thành các dự thảo
VBQPPL. Tuy nhiên, như đã phân tích ở
phần trên, chất lượng của các dự thảo luật
cũng như các đạo luật được Quốc hội thông
qua còn nhiều hạn chế. Để giải quyết vấn đề
này, đã có những đề xuất về việc cần nghiên
cứu xây dựng một mô hình cơ quan soạn
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 22(374) T11/2018
thảo độc lập tương tự như mô hình của Anh,
Canada hoặc Singapore21. Tuy nhiên, việc tổ
chức mô hình cơ quan soạn thảo độc lập như
vậy không phải là chuyện dễ dàng.
Trước hết, việc xây dựng một cơ quan
soạn thảo như vậy sẽ tạo ra thêm một đầu
mối trong cơ cấu tổ chức bộ máy. Hơn thế
nữa, thực tế quá trình thành lập và chấp nhận
một cơ quan như vậy tương đối khó khăn.
Trong lịch sử, việc đi đến thành lập Văn
phòng Cố vấn lập pháp ở Vương quốc Anh
là quá trình kéo dài nhiều thập kỷ với sự thay
đổi dần dần của nhận thức mà trong đó một
trong những cam kết cần phải bảo đảm là
Văn phòng Cố vấn lập pháp không can thiệp
vào quá trình hoạch định chính sách của các
bộ, ngành. Kinh nghiệm của Ban Công tác
lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ở nước ta trong những năm 2000 cũng cho
thấy những thách thức đối với việc thành lập
cơ quan soạn thảo dự án luật độc lập. Chỉ
sau 01 nhiệm kỳ tồn tại, một trong những lý
do quan trọng để dẫn đến việc giải thể Ban
Công tác lập pháp là do không có được sự
phân định rõ ràng giữa nhiệm vụ, quyền hạn
của Ban Công tác lập pháp với nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội.
Bên cạnh đó, việc thực hiện theo mô
hình này cũng đòi hỏi phải thay đổi quy
trình soạn thảo và quy trình lập pháp. Đó là
việc phải có sự tách biệt hoàn toàn giữa chủ
thể hoạch định chính sách và chủ thể chuyển
hóa các nội dung của chính sách thành các
quy phạm pháp luật. Đồng thời, phải thiết
lập thói quen tuân thủ nguyên tắc phối hợp
trong mối quan hệ làm việc giữa cơ quan
hoạch định chính sách và cơ quan soạn thảo.
21 Xem thêm: Nguyễn Đức Lam, ‘Các bước làm luật: ở người và ở ta’, Hội thảo của Viện Chính sách pháp luật và phát
triển về quy trình lập pháp, 2007.
Do vậy, theo chúng tôi, giải pháp duy
trì mô hình soạn thảo kết hợp như hiện nay
có nhiều thuận lợi hơn. Tuy nhiên, để nâng
cao chất lượng của các dự thảo, cần có sự
chuẩn hóa lại quy trình và cách thức làm
việc, cách thức soạn thảo. Trong đó, cần
nghiên cứu tách biệt một cách rõ ràng hơn
giữa giai đoạn hoạch định chính sách và giai
đoạn soạn thảo văn bản và nâng cao vai trò,
chất lượng của hoạt động thẩm định các dự
thảo văn bản sau khi được các bộ, ngành
hoàn thành.
Đặc biệt, cần xem xét lại việc thành
lập Ban soạn thảo như quy định hiện tại.
Thực tế cho thấy việc thành lập Ban soạn
thảo với rất nhiều thành phần đến từ các cơ
quan khác nhau là sự lãng phí thời gian và
nguồn lực. Nếu cho rằng mục đích của hoạt
động này là để có tiếng nói của các bên liên
quan có lẽ sẽ không hiệu quả do một thành
viên tham gia Ban soạn thảo không đại diện
cho tiếng nói chung của một cơ quan. Hơn
nữa, việc tham khảo ý kiến của các cơ quan
có liên quan có thể được thực hiện một cách
chính thức thông qua các hình thức trao đổi
ý kiến. Vì vậy, cần nghiên cứu để giao trực
tiếp cho các Bộ chuyên ngành thực hiện
công việc soạn thảo văn bản mà không nhất
thiết phải thành lập Ban soạn thảo riêng cho
từng đạo luật. Việc có hình thành nên dự
thảo luật hay không và chất lượng dự thảo
có tốt hay không sẽ phụ thuộc trực tiếp vào
trách nhiệm của bộ chuyên ngành được giao
nhiệm vụ soạn thảo văn bản.
Thứ ba, xây dựng cơ chế kiểm soát
chất lượng soạn thảo.
Đi cùng với việc duy trì mô hình cơ
quan soạn thảo kết hợp, cần nghiên cứu, học
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 22(374) T11/2018
tập kinh nghiệm của các nước trong việc
xây dựng cơ chế kiểm soát chất lượng của
các dự thảo. Theo Luật Ban hành VBQPPL
hiện hành, Bộ Tư pháp là cơ quan có chức
năng thẩm định các dự thảo do các bộ đề
xuất. Như vậy có thể nhận thấy vai trò thẩm
định của Bộ Tư pháp khá lớn. Tuy nhiên, nội
dung thẩm định và quy trình thẩm định còn
có những hạn chế nhất định mà trong đó tồn
tại lớn nhất vẫn là tình trạng các bộ, ngành
“cài cắm” các quy định có lợi cho bộ, ngành
mình trong các dự án luật22.
Với những kinh nghiệm của các nước
trong việc tổ chức cơ quan soạn thảo có thể
rút ra một số nội dung sau đây để tăng cường
việc kiểm soát chất lượng soạn thảo:
Trước hết, việc thẩm định chất lượng
báo cáo đánh giá tác động của dự thảo luật là
hết sức cần thiết nhằm nâng cao chất lượng
soạn thảo. Hiện nay, có một thực trạng rất
phổ biến là báo cáo đánh giá tác động của
dự thảo luật thường được thực hiện sau cùng
trong quá trình hoạch định chính sách với
cách làm sơ sài, qua loa, nhằm bảo đảm đủ
điều kiện về hồ sơ của dự án luật chứ chưa
thực sự là cơ sở để xây dựng và hoạch định
chính sách. Điều này làm vô hiệu vai trò của
báo cáo đánh giá tác động. Kinh nghiệm
của nhiều nước cho thấy, việc kiểm tra chất
lượng báo cáo đánh giá tác động là điều kiện
cần thiết để xem xét các đề xuất chính sách
được dự kiến quy định trong dự thảo. Có
nước như Hàn Quốc, CHLB Đức còn thành
lập riêng những cơ quan để thực hiện hoạt
động này.
Bên cạnh thẩm định báo cáo đánh
giá tác động, việc thẩm định các dự án luật
22 Đức Minh, ‘Vẫn còn tư duy soạn dự luật có lợi cho bộ, ngành đề xuất’, Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh,
13/9/2018.
23 Minh Chiến, ‘Cứ vướng mắc lại ... sửa luật’, Báo Người Lao động, 13/9/2018.
được các bộ đề xuất cần phải tập trung làm
rõ sự cần thiết ban hành các chính sách đó.
Kinh nghiệm lập pháp ở các nước cho thấy,
việc xây dựng pháp luật chỉ được thực hiện
khi mà các giải pháp thay thế khác không
thể giải quyết được những tồn tại trong đời
sống kinh tế - xã hội. Đây là giải pháp quan
trọng để tránh một hiện tượng tương đối phổ
biến ở các nước đó là “lạm phát VBQPPL”.
Ở nước ta, tình trạng này cũng đã bắt đầu
manh nha tồn tại23.
Cùng với việc thẩm định tập trung tại
một cơ quan thì việc xin ý kiến các cơ quan
hữu quan và công chúng về dự án luật cũng
là một trong những biện pháp hữu hiệu để
giảm thiểu các sai sót và góp phần xây dựng
những nội dung chính sách lập pháp phù
hợp. Hiện nay, việc tổ chức tham vấn ý kiến
công chúng về các dự thảo luật ở nước ta
còn mang nặng tính hình thức. Việc đăng tải
các dự thảo trên trang thông tin điện tử mà
không có cách đăng tải hoặc lấy ý kiến phù
hợp sẽ hầu như không thu được các ý kiến
góp ý có chất lượng.
Thứ tư, tổ chức hướng dẫn, tập huấn
kỹ năng soạn thảo văn bản.
Một trong những hạn chế nổi bật, dễ
nhận thấy nhất trong việc duy trì mô hình cơ
quan soạn thảo kết hợp đó là cách thức thể
hiện, kỹ thuật thể hiện văn bản giữa các bộ,
ngành thường không thống nhất, chất lượng
không đồng đều.
Để hạn chế tình trạng này, việc xây
dựng các bản tài liệu hướng dẫn soạn thảo
có vai trò rất quan trọng. Mặc dù tài liệu này
được gọi chung là tài liệu hướng dẫn nhưng
trên thực tế chúng có tính bắt buộc, gần như
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 22(374) T11/2018
là quy phạm để áp dụng thống nhất giữa các
bộ. Thực tế các tài liệu hướng dẫn này còn
bao hàm cả những hướng dẫn về trình tự, thủ
tục và cách tiến hành những kỹ thuật soạn
thảo văn bản như hướng dẫn về cách lập báo
cáo đánh giá tác động, hướng dẫn về cách
làm việc giữa chuyên viên của các bộ, ngành
với các chuyên gia của bộ phận thẩm định
chung trong quá trình xây dựng dự thảo.
Bên cạnh các tài liệu hướng dẫn, ở các
nước, cơ quan thẩm định dự thảo thường tổ
chức các lớp tập huấn, các buổi trao đổi kinh
nghiệm để các chuyên gia soạn thảo ở các
bộ, ngành có thể chia sẻ và cùng giúp nhau
trao đổi, xử lý những vướng mắc trong quá
trình soạn thảo.
Ngoài ra, kinh nghiệm của các nước cho thấy,
việc soạn thảo các VBQPPL có thể được
ứng dụng công nghệ thông tin để vừa tăng
tính chính xác, kịp thời và đặc biệt là chia
sẻ thông tin giữa các giai đoạn của quy trình
soạn thảo. Ví dụ điển hình là hệ thống hỗ
trợ soạn thảo dự thảo văn bản luật của Cộng
hòa Pháp (S.O.LO.N). Với việc sử dụng hệ
thống này, các chủ thể có liên quan đến dự
thảo có thể chủ động theo dõi được tiến trình
phát triển của dự thảo để chủ động tiếp cận
thông tin, cho ý kiến. Bên cạnh đó, hệ thống
hỗ trợ soạn thảo văn bản còn giúp cho việc
thống nhất định dạng soạn thảo các dự thảo
luật, chẳng hạn như cách trình bày văn bản,
các tiêu đề v.v.. Đồng thời, hệ thống này còn
có chức năng cung cấp các gợi ý về sử dụng
các thuật ngữ, các từ ngữ pháp lý, bảo đảm
tính thống nhất trong việc sử dụng các thuật
ngữ với Hiến pháp và hệ thống VBQPPL,
giúp cho người soạn thảo thể hiện các quy
phạm pháp lý được một cách dễ dàng hơn■
vào tham gia tố tụng với tư cách là người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là yêu cầu
không thể xem nhẹ.
- Trong trường hợp người xác lập,
thực hiện giao dịch trình bày với cơ quan
tài phán là hành vi đó không phải là hành vi
vì lợi ích của cá nhân mình mà là thực hiện
hành vi của tổ chức, vì lợi ích của tổ chức
nhưng không xuất trình được tài liệu chứng
minh, không bên nào cung cấp được đó là
hành vi nhân danh tổ chức, thực hiện vì lợi
ích của tổ chức thì phải xác định hành vi đó,
giao dịch đó là của cá nhân, cá nhân đó chịu
trách nhiệm. Đối với trường hợp thành viên
không có quyền đại diện mà xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự nhân danh các thành
viên khác của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức
khác không có tư cách pháp nhân hoặc người
đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi
đại diện đã được quy định tại Điều 104 của
BLDS, cần căn cứ quy định này để xem xét,
giải quyết.
- Việc xác định các thành viên tổ hợp
tác có thể dựa trên hợp đồng hợp tác có
chứng thực cơ quan có thẩm quyền hoặc quy
chế tổ chức, hoạt động... của tổ hợp tác để
xác định thành viên.
- Khi tranh chấp được đưa đến cơ quan
tài phán (gồm tòa án, trọng tài) thì cơ quan
tài phán phải xem xét, nếu quan hệ dân sự do
tổ chức không có tư cách pháp nhân xác lập,
thực hiện thì phải xác định chủ thể quan hệ
dân sự này là tổ chức. Tùy thuộc diễn biến
của quan hệ pháp luật bị tranh chấp để xác
định địa vị pháp lý của tổ chức không có tư
cách pháp nhân cũng như thành viên tổ chức
là nguyên đơn hay bị đơn trong quan hệ
tố tụng■
CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT...
(Tiếp theo trang 13)
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 22(374) T11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- to_chuc_co_quan_soan_thao_cac_du_an_luat_nhin_tu_kinh_nghiem.pdf