Tiến trình của một quốc gia đi đến việc
tham gia Quy chế Rome chính là quá trình
tuyên truyền, giáo dục nhận thức và tầm quan
trọng của ICC đối với việc bảo vệ CQCN.
Chính vì vậy, các hoạt động thúc đẩy cho quá
trình tham gia Quy chế Rome chính là việc
củng cố ý chí chính trị, cũng như giáo dục,
tuyên truyền và đào tạo về CQCN. Những
hoạt động đó là:
- Nâng cao kiến thức và năng lực cho cán
bộ công chức và các cơ quan của Việt Nam
trong lĩnh vực luật hình sự quốc tế cũng như
về ICC;
- Nghiên cứu quy chế Rome và phổ biến
rộng rãi hơn về ICC trên phạm vi cả nước
thông qua việc đánh giá và giải thích các
hướng dẫn về Quy chế Rome;
- Tiếp tục phổ biến các ấn phẩm về ICC
cho tất cả các đối tượng có liên quan, kể cả
các thành viên của Quốc hội, thẩm phán,
kiểm sát viên, cán bộ cảnh sát và quân đội,
luật sư, quan chức chính phủ cấp trung ương
và địa phương;
- Ban hành văn bản pháp luật mới hoặc
sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành để tiến tới tham gia Quy chế
Rome và tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác
với ICC.
- Vận động hành lang với Chính phủ nhằm
thuyết phục phê chuẩn Quy chế Rome và nội
luật hoá các quy định của Quy chế Rome vào
hệ thống pháp luật trong nước.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 333 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tòa án hình sự quốc tế một thiết chế pháp lý bảo vệ các quyền con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 57112009
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
3. Một số vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu
ICC và các quyền con người
Việc bảo đảm và thúc đẩy CQCN là trách
nhiệm của mỗi quốc gia. Có thể nói rằng việc
tham gia ICC là một trong những cách thức
hữu hiệu cho việc nhận thức CQCN, tạo điều
kiện cho sự đảm bảo và thúc đẩy CQCN. Là
thành viên ICC thì quốc gia cần hoàn thiện
hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp
với những nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế. Do hoàn cảnh ở mỗi nước khác nhau
nên cách tiếp cận về CQCN ở mỗi quốc gia ít
nhiều có sự khác nhau. Chính vì vậy nên sự
giao lưu, hợp tác về nhiều mặt, đặc biệt là sự
đồng thuận trong các văn bản pháp lý quốc tế
đa phương như Quy chế Rome là yêu cầu cần
thiết và khách quan, tạo điều kiện cho CQCN
được nhận thức và bảo vệ ở bất kỳ đâu trên
thế giới. Việt Nam có hàng triệu người đang
lao động và học tập tại nước ngoài, trong số
này có cả những quốc gia có sự bất ổn lớn
về chính trị như Iraq. ICC là thiết chế có thể
bảo đảm được CQCN trong trường hợp họ
trở thành nạn nhân của các tội phạm nguy
hiểm thuộc thẩm quyền tài phán nếu như
Việt Nam tham gia Quy chế Rome.
Từ việc nghiên cứu cơ chế bảo vệ CQCN
của ICC trên các phương diện khác nhau,
theo chúng tôi, có một số vấn đề đặt ra cho
Việt Nam như sau:
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể
chế bảo vệ các quyền con người
Không thể phủ nhận rằng những nguyên
tắc được thừa nhận chung trong các văn bản
pháp lý quốc tế (công ước, hiệp ước, quy
chế) chính là những thành tựu mà cộng
đồng quốc tế đã đạt được bằng lịch sử của
chính mình. Những thành tựu này cũng chính
là những chuẩn mực quốc tế có giá trị tham
khảo cho bất cứ quốc gia nào. Hiện nay cơ
hội đang mở ra cho các quốc gia, đặc biệt là
các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam,
tham gia ICC. Khi tham gia ICC, năng lực tố
tụng tư pháp và hành chính tư pháp của quốc
gia sẽ được tăng cường. Thông qua việc
ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
NGUYỄN KHẮC HẢI (*)
TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ
MỘT THIẾT CHẾ PHÁP LÝ
BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI
(Tiếp theo kỳ trước)
(*) TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
58 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Quy chế Rome, chúng ta có thể hoàn thiện
hệ thống pháp luật trong nước, nội luật hoá
các chuẩn mực được quy định trong Quy chế
Rome, những chuẩn mực được thừa nhận
rộng rãi và là thành tựu quan trọng của lịch
sử pháp luật quốc tế.
Trong giai đoạn xem xét gia nhập Quy
chế Rome, Việt Nam phải tiến hành nghiên
cứu Quy chế hết sức kỹ lưỡng bởi có như
vậy mới đưa ra các kiến nghị, bổ sung, bãi
bỏ hay ban hành một cách xác đáng những
văn bản quy phạm pháp luật bởi những sửa
đổi, bổ sung cần thiết lại nằm trong những
văn bản pháp luật quan trọng và tương đối
ổn định như Bộ luật Hình sự (BLHS), Bộ
luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Luật Tương
trợ tư pháp Qua nghiên cứu so sánh Quy
chế Rome với hệ thống pháp luật cho thấy
một số điểm hạn chế, không tương thích và
cần hoàn thiện để bảo vệ tốt hơn CQCN, mà
cụ thể là:
- Theo Điều 20 Quy chế Rome quy định
nguyên tắc công minh, không xét xử hai lần
đối với cùng một tội phạm, ICC không xét
xử một cá nhân phạm tội về những tội mà
người đó đã bị một toà án khác kết án hoặc
tha bổng (trừ trường hợp vi phạm những
thủ tục tố tụng được pháp luật quốc tế thừa
nhận) và toà án khác cũng không xét xử một
cá nhân phạm tội về những tội mà ICC đã kết
án và tha bổng. Còn căn cứ vào BLHS Việt
Nam năm 1999 quy định không một người
phạm tội nào có thể chịu trách nhiệm hình
sự hai lần về một tội phạm, khả năng Tòa án
Việt Nam xét xử những cá nhân phạm tội đã
được ICC tha bổng trước đó vẫn có thể xảy
ra. Bởi vì, việc quy định tội danh, hình phạt
giữa pháp luật hình sự nước ta và Quy chế
Rome không đồng nhất mặc dù tính chất,
mức độ hành vi phạm tội là như nhau.
- Về nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật, Điều 27 Quy chế Rome giải thích, việc
tiến hành các hành vi tố tụng áp dụng đối với
tất cả cá nhân bị coi là phạm tội mà không
có bất kỳ sự phân biệt đối xử về địa vị pháp
lý, kể cả các cá nhân được hưởng quy chế
miễn trừ ngoại giao. Tuy nhiên, Điều 3, Điều
5, Điều 19 BLTTHS năm 2003, Điều 44 Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân năm 2003, Điều
58 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 (sửa
đổi, bổ sung năm 2007) của Việt Nam lại có
khác biệt. Cụ thể, đối với đại biểu Quốc hội,
“không có sự đồng ý của Quốc hội và trong
thời gian Quốc hội không họp, không có sự
đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì
không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc
hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm
việc của đại biểu Quốc hội”; đối với đại biểu
HĐND, “trong thời gian HĐND họp, nếu
không được sự đồng ý của chủ toạ kỳ họp thì
không được bắt giữ đại biểu HĐND”.
- Có khá nhiều điểm khác biệt giữa pháp
luật hình sự Việt Nam với Quy chế Rome
như vấn đề tội danh, loại và khung hình phạt,
dẫn độ công dân, thi hành án, thẩm quyền
điều tra của công tố viên, bắt khẩn cấp người
phạm tội Cũng có điểm khác biệt cơ bản
giữa Quy chế Rome và pháp luật hình sự Việt
Nam về vấn đề cá thể hoá trách nhiệm của
người chỉ huy. Theo Điều 28 Quy chế Rome,
người chỉ huy quân sự, người làm việc như
chỉ huy quân sự hoặc cấp trên vẫn phải chịu
trách nhiệm hình sự về các tội phạm thuộc
quyền tài phán của ICC ngay cả khi người
này không phạm tội một cách độc lập hoặc
với vai trò đồng phạm. Trong khi đó, chế định
đồng phạm và các tội về phá hoại hòa bình,
chống loài người và tội phạm chiến tranh của
BLHS năm 1999 chỉ quy định trách nhiệm
của người chỉ huy khi người đó tham gia với
tư cách độc lập hoặc với vai trò đồng phạm.
- Về quy định tội danh, Điều 5 Quy chế
Rome quy định bốn loại tội phạm thuộc
quyền tài phán của ICC: tội diệt chủng, tội
chống nhân loại, tội phạm chiến tranh và tội
xâm lược. Trừ tội xâm lược còn nhiều quan
điểm khác nhau về định nghĩa, còn lại các tội
khác đã được định nghĩa rõ ràng tại các Điều
6, 7, 8 của Quy chế. BLHS Việt Nam 1999
chưa quy định tội diệt chủng. Ngoài ra về nội
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 59112009
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
dung cũng chưa bao quát hết được các hành
vi cụ thể được nhóm vào cùng một tội danh,
chẳng hạn Điều 7 Quy chế Rome quy định
11 hành vi cấu thành của tội chống nhân loại,
trong khi đó Điều 342 BLHS về tội chống
loài người chỉ xác định 3 hành vi trong cấu
thành (diệt chủng, diệt sinh, diệt môi trường)
mà lại không đưa ra khái niệm cụ thể hơn cho
từng hành vi này.
- Về bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự, Quy chế Rome quy định quyền im
lặng của bị can, bị cáo, người bị tình nghi khi
bị thẩm vấn, hỏi cung. Nghĩa là, họ có quyền
không bắt buộc phải khai báo và sự im lặng
của họ không được xem xét theo hướng bất
lợi cho họ khi kết tội sau này tại phiên toà.
Nếu các quy định trên bị vi phạm, ICC hoàn
toàn có quyền không chấp nhận các chứng cứ
thu thập được từ việc vi phạm. Không những
thế, để tránh tình trạng lạm dụng quyền lực
cũng như để bảo vệ quyền con người, gần
như tất cả các biện pháp điều tra, cưỡng chế
(bắt, triệu tập) đều phải có sự phê chuẩn
của Hội đồng tiền xét xử ICC trên cơ sở đề
nghị của công tố viên. Nhưng, pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam mới đang nghiên cứu
xây dựng chế định này.
- Về chứng cứ trong tố tụng hình sự, Quy
chế Rome cho phép công tố viên được đưa ra
bằng chứng dưới hình thức ghi âm, ghi hình
của nhân chứng thông qua các phương tiện
điện tử. Tuy nhiên, BLTTHS Việt Nam lại
quy định việc lấy lời khai của nhân chứng bắt
buộc phải bằng biên bản và khi cần thiết, toà
án có thể triệu tập nhân chứng tham gia phiên
toà. Hơn nữa, pháp luật nước ta cũng chưa
quy định việc ứng dụng công nghệ trong các
hoạt động tố tụng.
- Về tương trợ tư pháp: i) Một trong những
nghĩa vụ của quốc gia thành viên của ICC
là hỗ trợ tư pháp về hình sự. Tuy nhiên cả
BLTTHS 2003 và Luật Tương trợ tư pháp
không có quy định nào về việc hợp tác giữa
Việt Nam với bất kỳ tòa án quốc tế nào, kể cả
với ICC. Điều này hạn chế Việt Nam trong
việc tham gia bảo vệ công lý và CQCN ở
tầm quốc tế; ii) Điều 89 Quy chế Rome quy
định khi có yêu cầu thì quốc gia thành viên
(hoặc quốc gia không phải thành viên nhưng
có thỏa thuận về hợp tác dẫn độ) dẫn độ
người phạm tội cho ICC để truy tố, xét xử.
Trong khi đó cả BLTTHS, Luật Tương trợ
tư pháp và Luật Quốc tịch của Việt Nam đều
không cho phép dẫn độ công dân Việt Nam
cho nước ngoài; iii) Điều 92 Quy chế Rome
quy định ICC có thể yêu cầu bắt khẩn cấp
người phạm tội khi chưa có văn bản yêu cầu
chính thức. Tuy nhiên việc bắt khẩn cấp trong
tương trợ tư pháp hình sự lại chưa được quy
định trong Luật Tương trợ tư pháp do e ngại
vấn đề bồi thường thiệt hại do bắt oan sai, do
vậy cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam
sẽ không có căn cứ pháp lý để thực hiện việc
bắt khẩn cấp theo yêu cầu của ICC.
Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, năng lực
hoạt động của các cơ quan tư pháp Việt Nam
chưa đáp ứng được các yêu cầu nêu trong
Quy chế Rome. Cơ chế phối hợp hoạt động
giữa các cơ quan trong lĩnh vực hợp tác và
tương trợ tư pháp vẫn còn yếu kém và không
chặt chẽ, hiệu quả hoạt động chưa cao1.
Tham gia vào quá trình tố tụng của Việt
Nam không chỉ có Tòa án, mà còn các cơ
quan khác như Viện kiểm sát thực hành chức
năng công tố; hệ thống cơ quan điều tra đặt
tại một số cơ quan của Chính phủ có nhiệm
vụ cùng Viện kiểm sát thực hiện chức năng
công tố tại giai đoạn điều tra. Ngoài ra còn
một số cơ quan bổ trợ tư pháp cũng tham gia
quá trình tố tụng như tổ chức luật sư, giám
định. Trong khi đó, cơ cấu, tổ chức và điều
hành của ICC (Phần IV Quy chế Rome) quy
định Tòa án, ngoài Ban chánh án, Bộ phận
phúc thẩm, Bộ phận sơ thẩm còn có Bộ phận
dự thẩm, Văn phòng công tố, Văn phòng
lục sự. Cơ cấu tổ chức này khác với cơ cấu
(1) Xem: Bộ Tư pháp, Báo cáo “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Tương trợ tư pháp”, tháng 4/2006, tr. 50.
60 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam.
Vấn đề này có thể khắc phục được, vì bộ
máy tư pháp của Nhà nước Việt Nam đang
trong tiến trình cải cách tư pháp, theo hướng
chuyển Viện Kiểm sát thành Viện công tố,
tăng cường trách nhiệm của công tố trong
hoạt động điều tra; đổi mới tổ chức phiên
tòa xét xử theo hướng đảm bảo công khai,
dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa2, mà đích cuối cùng
là bảo vệ và bảo đảm CQCN. Tuy nhiên, tiến
trình cải cách này cần phải có thời gian.
3.2. Tuyên truyền, giáo dục và đào tạo
quyền con người
Chúng ta đang có trong tay món quà quý
giá và nhân đạo do các quốc gia trao tặng
và cam kết thực hiện thông qua các văn bản
pháp lý quốc tế, đó là CQCN. Thật đáng tiếc
khi mà hàng triệu con người trong suốt cả
cuộc đời không hề biết rằng mình là chủ nhân
của những quyền đó. Giáo dục nhân quyền là
những hoạt động giảng dạy, tập huấn và phổ
biến thông tin về quyền con người, nhằm
xây dựng một nền văn hóa nhân quyền trong
đó hướng tới: (i) Tăng cường sự tôn trọng
các quyền và tự do cơ bản của con người;
(ii) Phát triển đầy đủ nhân phẩm và ý thức
về nhân phẩm của con người; iii) Thúc đẩy
sự hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và
tình hữu nghị giữa các quốc gia, các nhóm
dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ;
(iv) Tạo điều kiện cho tất cả mọi người tham
gia một cách hiệu quả vào các hoạt động của
xã hội, và (v) Hỗ trợ các hoạt động của LHQ
về duy trì hòa bình và an ninh quốc tế3. Giáo
dục quyền con người thông qua chuyển giao
kiến thức, xây dựng kỹ năng và hình thành
quan điểm được coi là nền tảng của một nền
văn hóa đích thực về phòng ngừa4.
Là tổ chức quốc tế tiên phong trong hoạt
động thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, LHQ
đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục nhân
quyền, xem đó như là một biện pháp cốt yếu
và một chiến lược hiệu quả để ngăn chặn các
vi phạm nhân quyền cũng như để xây dựng
các xã hội bình đẳng, tự do và hòa bình5. Để
phổ biến và vận động cho hoạt động giáo dục
nhân quyền trên toàn thế giới, Đại hội đồng
LHQ đã thông qua một Nghị quyết số 48/127
ngày 20/12/1993 (A/RES/48/127) quy định
lấy giai đoạn 1995-2004 là Thập kỷ giáo dục
nhân quyền của Liên hợp quốc6. Tiếp theo
đó, từ 1994 đến 2003, Đại hội đồng LHQ
còn thông qua một loạt nghị quyết khác đề
cập đến những vấn đề cụ thể trong việc triển
khai thực hiện Thập kỷ Giáo dục nhân quyền,
bao gồm các Nghị quyết A/RES/49/184, A/
RES/50/173, A/RES/50/177, A/RES/51/104,
A / R E S / 5 2 / 1 2 7 , A / R E S / 5 3 / 1 5 3 , A /
RES/54/161, A/RES/55/94, A/RES/56/167,
A/RES/57/2127.
Trong khoảng hai thập kỷ gần đây, giáo
dục nhân quyền là vấn đề thu hút sự quan tâm
thường xuyên của cộng đồng quốc tế. Nhiều
tổ chức quốc tế, trong đó đặc biệt là LHQ
và UNESCO, đã có những chương trình hành
động lớn và rộng khắp trên thế giới về vấn đề
này. Ở phạm vi quốc gia, giáo dục nhân quyền
cũng đã trở thành một phần trong chương
trình giáo dục của nhiều nước, tuy có sự khác
nhau về phạm vi, mức độ và cách thức tổ
chức hoạt động. Trên thực tế, giáo dục nhân
quyền, xét ở góc độ nhất định, từ lâu đã được
thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân
của Việt Nam, dưới hình thức giáo dục đạo
đức công dân. Gần đây, hoạt động giáo dục
(2) Xem: Đỗ Ngọc Quang, Một số thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam gia nhập quy chế Rome trong bối cảnh hiện nay, Kỷ yếu hội
thảo khoa học. Nxb. Tư pháp. Hà Nội. 2007, tr.287.
(3) Nghị quyết A/52/469/Add.1 ngày 20/10/1997 của Đại hội đồng LHQ, đoạn 11. Xem trong
huridoca.nsf/(Symbol)/A.RES.48.127.En?OpenDocument.
(4) Xem: Tìm hiểu về quyền con người (Tài liệu hướng dẫn về giáo dục quyền con người). Chủ biên: Wolfgang Benedek (tài liệu dịch).
Nxb Tư pháp. Tr. 32.
(5) Pocket Guide on Basic Human Rights Instruments
(6) Human Rights - A Basic Handbook for UN Staff
(7) Human Rights and Social Work: A Manual for Schools of Social Work and the Social Work Profession
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 61112009
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
nhân quyền đã được tăng cường thêm một
bước, xét cả về nội dung và phạm vi tổ chức.
Tương tự như các quốc gia khác trên thế giới,
giáo dục nhân quyền đã và đang thực hiện ở
cả trong và ngoài hệ thống nhà trường ở Việt
Nam. Đây là một tiền đề quan trọng cho việc
thúc đẩy hoạt động giáo dục nhân quyền ở
Việt Nam trong thời gian tới8.
Lịch sử nhân loại, bối cảnh toàn cầu cho
thấy việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm
của cộng đồng thế giới đối với những hành
vi đặc biệt nguy hiểm xâm phạm đến những
giá trị cao quý nhất của xã hội văn minh -
con người - là vấn đề mang tính cấp thiết. Để
thực hiện được điều này, ngoài các biện pháp
về pháp luật và quản lý nhà nước, giáo dục
thông qua chương trình nghiên cứu, giảng
dạy ở các trường đại học luật, khoa luật, các
trường đào tạo luật sư và thẩm phán là hết
sức cần thiết.
Nghiên cứu kết cấu chương trình đào tạo
đại học9 và sau đại học luật tại Việt Nam cho
thấy có thể đưa nội
dung học về ICC và
quyền con người theo
các phương án sau:
- Nội dung ICC và
CQCN được ghi nhận
ở một chương độc
lập trong giáo trình
Luật Hình sự quốc tế.
Hiện nay giáo trình
Luật Hình sự quốc tế
đã có nhưng chưa có
một chương độc lập
về ICC và việc bảo vệ
CQCN;
- Nội dung ICC và
việc bảo vệ CQCN
được thể hiện trong
một chương độc lập
của giáo trình giáo dục CQCN. Hiện nay giáo
trình này mới được thể hiện trên ý tưởng và
đang được triển khai;
- Nội dung ICC và việc bảo vệ CQCN với
tính chất là một môn học, được biên soạn
trong tập bài giảng hoặc có thể nâng lên
thành một giáo trình riêng;
- Nội dung ICC và việc bảo vệ CQCN
được giảng dạy cho các sinh viên đại học,
học viên sau đại học chuyên ngành tư pháp
hình sự với tính chất là một chuyên đề.
Việc giáo dục CQCN theo các nội dung
về ICC dù theo cách thức, phương án nào
cũng cần phải thể hiện được CQCN trong
nội dung sau: 1) Tình hình bảo vệ hòa bình
và an ninh quốc tế, trừng trị tội phạm chiến
tranh từ sau chiến tranh thế giới thứ hai; 2)
Quá trình hình thành ICC; 3) Mối quan hệ
giữa ICC với các thiết chế bảo vệ hòa bình
và an ninh quốc tế; 4) Thẩm quyền tài phán
đối với các loại tội phạm và thẩm quyền theo
thời gian của ICC; 5) Các nguyên tắc được
quy định trong Quy chế Rome và những
(8) Xem:
(9) Tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, hai môn học “Lý luận về nhân quyền” và “Bảo vệ quyền con người bằng hệ thống
tư pháp hình sự” bắt đầu được đưa vào giảng dạy từ tháng 1/2008 cho sinh viên năm thứ tư chuyên ngành Lý luận-Hiến pháp-Hành
chính và chuyên ngành Tư pháp hình sự với thời lượng là 30 tiết/môn.
62 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009
điểm tương đồng với luật hình sự quốc gia;
6) Điều kiện thực hiện quyền tài phán của
ICC; 7) Thủ tục tố tụng: thông báo tội phạm,
thụ lý, điều tra, truy tố, xét xử, kháng cáo; 8)
Thi hành án.
Hoạt động nghiên cứu cũng như giáo
dục về quyền con người ở nước ta hiện còn
nhiều hạn chế. Các nội dung về quyền đã
được đưa vào chương trình giáo dục phổ
thông, tuy nhiên dung lượng còn ít, chủ yếu
trong môn học “Đạo đức” và “Giáo dục
công dân”. Tại Khoa luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, môn học về nhân quyền mới
được giảng dạy có tính thí điểm để rút kinh
nghiệm cho các sinh viên năm cuối như
một môn học chuyên ngành. Theo chúng
tôi, việc giáo dục nhân quyền là cần thiết
cho tất cả các đối tượng trong cộng đồng,
rất phù hợp với truyền thống nhân đạo của
dân tộc, sẽ phát triển nhanh chóng và đem
lại hiệu quả thiết thực cho xã hội nếu được
chúng ta quan tâm đúng mức10.
Ngoài hoạt động giáo dục trong hệ thống
nhà trường, các hoạt động giáo dục nhân
quyền bên ngoài xã hội cũng đóng vai trò
quan trọng trong quá trình nâng cao nhận thức
về nhân quyền cho các thành viên của xã hội,
bởi các lý do sau: 1) việc các hoạt động giáo
dục bên ngoài xã hội có tính chuyên nghiệp
cao do được tiếp cận đa phương diện và linh
hoạt chứ không cứng nhắc như chương trình
học trong trường; 2) đối tượng giảng dạy
là các chuyên gia trong và ngoài nước có
nhiều thực tiễn; 3) đối tượng được giáo dục
đa dạng các thành phần, trong đó có những
nhóm rất quan trọng như quan chức nhà
nước, cán bộ xã hội, nhân viên của các tổ
chức quốc tế, các đại biểu Quốc hội, đại biểu
hội đồng nhân dân, cán bộ an ninh, cán bộ
quản lý trại giam, người làm công tác xã hội;
4) có thể thực hiện đan xem với hoạt động
giáo dục nhân quyền trong hệ thống giáo dục
quốc dân; 5) nội dung đa dạng và mang tính
thực tế hơn, bao gồm các vấn đề lý luận về
quyền con người nói chung, các tiêu chuẩn
quốc tế và các quy định quốc gia về quyền
con người; 6) đa dạng về chủ thể tổ chức như
các bộ ngành, tổ chức xã hội, cơ sở đào tạo
trên cơ sở tổ chức độc lập hoặc kết hợp với
các nhà tài trợ nước ngoài (các tổ chức quốc
tế, các cơ quan viện trợ quốc gia, các đại sứ
quán các nước); 7) tài liệu phong phú từ
nhiều nguồn khác nhau, thiết bị giảng dạy
hiện đại do các nhà tài trợ cung cấp.
Tiến trình của một quốc gia đi đến việc
tham gia Quy chế Rome chính là quá trình
tuyên truyền, giáo dục nhận thức và tầm quan
trọng của ICC đối với việc bảo vệ CQCN.
Chính vì vậy, các hoạt động thúc đẩy cho quá
trình tham gia Quy chế Rome chính là việc
củng cố ý chí chính trị, cũng như giáo dục,
tuyên truyền và đào tạo về CQCN. Những
hoạt động đó là:
- Nâng cao kiến thức và năng lực cho cán
bộ công chức và các cơ quan của Việt Nam
trong lĩnh vực luật hình sự quốc tế cũng như
về ICC;
- Nghiên cứu quy chế Rome và phổ biến
rộng rãi hơn về ICC trên phạm vi cả nước
thông qua việc đánh giá và giải thích các
hướng dẫn về Quy chế Rome;
- Tiếp tục phổ biến các ấn phẩm về ICC
cho tất cả các đối tượng có liên quan, kể cả
các thành viên của Quốc hội, thẩm phán,
kiểm sát viên, cán bộ cảnh sát và quân đội,
luật sư, quan chức chính phủ cấp trung ương
và địa phương;
- Ban hành văn bản pháp luật mới hoặc
sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành để tiến tới tham gia Quy chế
Rome và tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác
với ICC.
- Vận động hành lang với Chính phủ nhằm
thuyết phục phê chuẩn Quy chế Rome và nội
luật hoá các quy định của Quy chế Rome vào
hệ thống pháp luật trong nước.
(10) Xem: Nguyễn Đăng Dung. Phỏng vấn đăng trên trang 5, Báo Pháp luật Việt Nam số 257 (3.665) ngày 26/10/2008)
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- toa_an_hinh_su_quoc_te_mot_thiet_che_phap_ly_bao_ve_cac_quye.pdf