Từ thực trạng các quy định của pháp
luật và các nguyên nhân được phân tích trên,
để bảo đảm và xử lý được trách nhiệm của
người đứng đầu CQHC đối với hoạt động
ban hành VBQPPL trong thời gian tới,
chúng ta cần thực hiện một số biện pháp
dưới đây:
- Sớm ban hành quy định hướng dẫn
thực hiện Luật Ban hành VBQPPL năm
2015 quy định về chế độ trách nhiệm pháp
lý đối với người đứng đầu trong đó có người
đứng đầu CQHC gồm các loại trách nhiệm:
trách nhiệm kỷ luật; trách nhiệm dân sự;
trách nhiệm vật chất; trách nhiệm hình sự
trong hoạt động xây dựng và ban hành
VBQPPL.
- Bảo đảm tiêu chí đồng bộ trong các
quy định về trách nhiệm của người đứng đầu
CQHC trong việc ban hành VBQPPL. Sửa
đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức năm
2008 quy định về trách nhiệm của người đứng
đầu (trong đó có người đứng đầu CQHC)
trong việc ban hành VBQPPL. Bổ sung Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm
2009 điều chỉnh cả hành vi và xác định trách
nhiệm của người đứng đầu khi ban hành
những VBQPPL sai luật, trái thẩm quyền gây
thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, xã hội.
- Khẩn trương rà soát, sửa đổi những
quy định bất cập, bất khả thi, bổ sung mới
những quy định của pháp luật về trách
nhiệm của người đứng đầu đối với hoạt
động ban hành VBQPPL tại Nghị định số
157/2007/NĐ-CP của Chính phủ về chế độ
trách nhiệm của người đứng đầu; Nghị định
số 40/2010/NĐ-CP của Chính phủ về kiểm
tra và xử lý VBQPPL theo hướng tăng
cường quyền hạn và trách nhiệm của người
đứng đầu nói chung, người đứng đầu CQHC
nói riêng, phù hợp với Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2015, Luật Tổ chức Chính quyền
địa phương năm 2015, Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015.
- Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm
của người đứng đầu CQHC trên cơ sở pháp
điển hóa các quy định đơn lẻ và chứa đựng
trong các VBQPPL dưới luật thành các đạo
luật, trong đó có Luật Công vụ. Luật này sẽ
quy định về trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan nhà nước nói chung và CQHC nhà
nước nói riêng đối với hoạt động xây dựng
và ban hành VBQPPL; đồng thời trong Luật
này có các quy định cụ thể, khả thi để bảo
đảm áp dụng các biện pháp pháp lý khi
người đứng đầu thực hiện không đúng, hay
không thực hiện nhiệm vụ được giao. Đây
là bước đi thích hợp bảo đảm tính kế thừa
có chọn lọc và phát triển, đáp ứng yêu cầu
của đổi mới, không ngừng tăng cường
quyền hạn và nâng cao trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan nhà nước nói chung
và người đứng đầu CQHC nói riêng khi thực
hiện công vụ.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 11(315) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
TRAÁCH NHIÏåM CUÃA NGÛÚÂI ÀÛÁNG ÀÊÌU CÚ QUAN HAÂNH CHÑNH
TRONG BAN HAÂNH VÙN BAÃN QUY PHAÅM PHAÁP LUÊÅT
hOÀNg MiNh hội*
Gần đây, tình trạng các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) do người
đứng đầu cơ quan hành chính (CQHC) ban hành sai luật, trái thẩm quyền
xảy ra khá nhiều, đồng thời còn có tình trạng “nợ đọng văn bản” cũng nhiều
nhưng không xử lý được trách nhiệm của ai. Bài viết phân tích một số vấn đề
lý luận, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu CQHC trong hoạt động ban hành VBQPPL và kiến nghị một
số biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này.
* TS, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1. Khái niệm, tiêu chí hoàn thiện pháp
luật về trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan hành chính đối với hoạt động
ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Theo các quy định của pháp luật hiện
hành, cá nhân người đứng đầu CQHC được
giao nhiệm vụ tổ chức điều hành các công
việc của cơ quan; quản lý cán bộ dưới
quyền, quản lý tài sản công; là người trực
tiếp tổ chức triển khai các chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Để họ thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ,
pháp luật quy định người đứng đầu CQHC
có thẩm quyền ban hành VBQPPL. Pháp
luật cũng quy định quyền hạn trong việc ban
hành VBQPPL luôn gắn liền với trách
nhiệm. Và trong một nhà nước pháp quyền,
hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước đều phải được thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Hoạt động ban hành VBQPPL diễn ra
theo một quy trình thống nhất, kế tiếp nhau,
bao gồm xây dựng dự thảo văn bản, trình,
thẩm định, thẩm tra, ban hành và kiểm tra
văn bản sau khi được ban hành. Theo đó,
trách nhiệm của người đứng đầu CQHC
được đề cập ở đây là trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan
trình, cơ quan thẩm định, cơ quan thẩm tra,
cơ quan ban hành và cơ quan kiểm tra
VBQPPL sau khi được ban hành. Trách
nhiệm của người đứng đầu CQHC đối với
hoạt động ban hành VBQPPL được hiểu
theo nghĩa trách nhiệm tích cực và trách
nhiệm tiêu cực. Trách nhiệm tích cực của
người đứng đầu CQHC là việc người đó tự
giác hoặc thực hiện nhiệm vụ đúng theo quy
định của pháp luật về thẩm quyền ban hành
các VBQPPL. Trách nhiệm tiêu cực được
hiểu là người đứng đầu CQHC không thực
52
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
hiện hoặc thực hiện không đúng thẩm quyền
khi ban hành VBQPPL và sẽ bị xử lý theo
quy định của pháp luật tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm.
Để người đứng đầu CQHC thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ ban hành VBQPPL theo
thẩm quyền, Nhà nước ban hành các quy
phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động ban hành
VBQPPL mà người đứng đầu CQHC tham
gia. Tổng thể các quy phạm pháp luật này
có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất nhằm
bảo đảm cho người đứng đầu CQHC thực
hiện tốt nhiệm vụ; đồng thời xác lập các căn
cứ để thực hiện các biện pháp tác động của
Nhà nước khi người đứng đầu CQHC không
thực hiện, thực hiện không đúng, hay có
hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động
ban hành VBQPPL.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu,
quy định của pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu CQHC đối với hoạt động
ban hành VBQPPL là tổng thể các quy phạm
pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi
người đứng đầu CQHC thực hiện thẩm
quyền ban hành VBQPPL trong hoạt động
công vụ, được biểu hiện trong các VBQPPL,
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo trình tự, thủ tục luật định.
Về nội dung, quy định của pháp luật về
trách nhiệm của người đứng đầu CQHC đối
với hoạt động ban hành VBQPPL có mối
quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Pháp
luật trong lĩnh vực này có các nhóm quy phạm
xác định trách nhiệm của người đứng đầu các
cơ quan, tổ chức trong xây dựng dự thảo văn
bản, trình, thẩm định, thẩm tra, ban hành và
kiểm tra VBQPPL sau khi được ban hành;
nhóm quy phạm về trách nhiệm xử lý văn bản
khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật; nhóm quy
phạm về các biện pháp trách nhiệm pháp lý
được áp dụng khi người đứng đầu CQHC
thực hiện không đúng, không thực hiện hay
có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến
hoạt động ban hành VBQPPL. Về hình thức,
quy định của pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu CQHC đối với hoạt động ban
hành VBQPPL được thể hiện trong các
VBQPPL có các cấp độ hiệu lực pháp lý khác
nhau, từ Hiến pháp đến các văn bản luật và
văn bản dưới luật, được thể hiện trong các
ngành luật khác nhau có tính hệ thống.
Các quy định của pháp luật về trách
nhiệm của người đứng đầu CQHC đối với
hoạt động ban hành VBQPPL góp phần tạo
hành lang pháp lý trong việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ; có ý nghĩa như các tiền đề
và căn cứ để xác định trách nhiệm của người
đứng đầu CQHC trong hoạt động ban hành
VBQPPL. Để đạt được mục đích đó, lĩnh
vực pháp luật này phải đáp ứng đủ các tiêu
chí về nội dung lẫn hình thức. Trên bình diện
chung, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện
của pháp luật là những dấu hiệu, chuẩn mực,
thước đo hay là “những tính chất, những dấu
hiệu làm căn cứ để tiến hành hoàn thiện
pháp luật”1. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn
thiện của pháp luật đóng vai trò như là công
cụ để đánh giá chất lượng của hệ thống pháp
luật xác định mức độ hoàn thiện của nó...,
từ đó liên hệ với điều kiện và hoàn cảnh thực
tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét một
cách khách quan và rút ra những kết luận,
làm sáng rõ những ưu điểm và nhược điểm
của hệ thống pháp luật2. Từ những tiêu chí
chung của hoàn thiện hệ thống pháp luật, có
thể định ra các tiêu chí để tiếp tục hoàn thiện
các quy định của pháp luật về trách nhiệm
của người đứng đầu CQHC đối với hoạt
động ban hành VBQPPL. Đó là tính toàn
diện, thống nhất, không mâu thuẫn, chồng
chéo, không triệt tiêu lẫn nhau; bảo đảm sự
liên kết chặt chẽ, không tồn tại độc lập, riêng
biệt mà được đặt trong một chỉnh thể, ràng
buộc với nhau và thống nhất với các nhóm
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
giám sát quyền lực nhà nước trong toàn bộ
hệ thống pháp luật nói chung; phải bảo đảm
tính phù hợp với thực tế và ổn định, pháp
1 Đàm Bích Hiên (2008), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay, Luận
án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 33.
2 Nam Nguyễn (2013), “Tiêu chí xác định chất lượng của hệ thống pháp luật”,
53
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 11(315) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
luật không thể “cao hơn” hay “thấp hơn”
trình độ phát triển kinh tế, phù hợp với
nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước
pháp quyền XHCN. Ngoài ra, các quy định
của pháp luật trong lĩnh vực này phải phù
hợp với pháp luật về trách nhiệm của người
đứng đầu nói chung. Tính minh bạch và khả
khi, bảo đảm kỹ thuật lập pháp hiện đại, yêu
cầu ngôn ngữ trong các VBQPPL phải trong
sáng, đơn nghĩa, dễ hiểu, dễ thực hiện cũng
là những tiêu chí cần phải tính đến để đánh
giá và xây dựng các quy định của pháp luật
về trách nhiệm của người đứng đầu CQHC
đối với hoạt động ban hành VBQPPL.
2. Thực trạng các quy định của pháp luật
về trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan hành chính đối với hoạt động ban
hành văn bản quy phạm pháp luật
2.1 Một số kết quả đạt được
Trong những năm gần đây, các quy định
của pháp luật về trách nhiệm của người
đứng đầu CQHC đối với hoạt động ban hành
VBQPPL đã có sự đổi mới về chất, từng
bước phản ánh được những nhu cầu cơ bản,
khách quan, nguyên tắc, định hướng của
Đảng là đề cao trách nhiệm cá nhân người
đứng đầu CQHC. Các quy định của pháp
luật trong lĩnh vực này là công cụ pháp lý
chủ yếu và là cơ sở quan trọng cho người
đứng đầu CQHC thực hiện có hiệu quả chức
năng, nhiệm vụ của mình trong hoạt động
ban hành các VBQPPL, góp phần bảo đảm
tính hợp hiến, hợp pháp trong hệ thống pháp
luật nói chung và trong các quy định của
pháp luật về trách nhiệm của người đứng
đầu CQHC.
Nghị định số 157/2007/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chế độ trách nhiệm đối
với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn
vị của Nhà nước trong thi hành nhiệm vụ,
công vụ đã quy định chế độ trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan nhà nước, trong đó
có người đứng đầu CQHC. Cụ thể, người
đứng đầu có thẩm quyền ban hành hoặc
trình cơ quan, người có thẩm quyền ban
hành văn bản pháp luật, bảo đảm tính hợp
pháp của văn bản. Văn bản pháp luật được
đề cập ở đây bao gồm: VBQPPL, văn bản
cá biệt, công văn chỉ đạo, điều hành và nội
quy, quy chế, điều lệ, quy định áp dụng
trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc
quyền quản lý (Điều 7). Nghị định quy định
những căn cứ để xử lý trách nhiệm người
đứng đầu khi người đứng đầu “tham mưu,
đề xuất, trình cấp có thẩm quyền ban hành
hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản trái
pháp luật; không thực hiện đúng thời hạn
nhiệm vụ được giao” (Điều 9). Các biện
pháp trách nhiệm có thể áp dụng khi người
đứng đầu CQHC vi phạm chế độ trách
nhiệm, tùy theo tính chất và mức độ của
hành vi vi phạm, phải chịu một hoặc nhiều
hình thức trách nhiệm kỷ luật, dân sự, vật
chất, hình sự.
Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, tại
Chương V quy định trách nhiệm của các cơ
quan trong quy trình xây dựng và ban hành
VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ. Điều 87 Luật quy định về hoạt động
kiểm tra văn bản pháp luật. Theo đó, việc
giám sát, kiểm tra VBQPPL được tiến hành
nhằm phát hiện những nội dung sai trái hoặc
không còn phù hợp để kịp thời đình chỉ việc
thi hành, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc bãi
bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản, đồng
thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xác
định trách nhiệm của cơ quan, cá nhân đã
ban hành văn bản sai trái.
Trách nhiệm của người đứng đầu
CQHC trong ban hành VBQPPL được thể
hiện ở hoạt động tự kiểm tra văn bản do
chính chủ thể đó ban hành. Nghị định số
40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính
phủ về kiểm tra và xử lý VBQPPL đã quy
định khá chi tiết vấn đề này. Theo đó, hoạt
động kiểm tra văn bản của người đứng đầu
CQHC nhằm phát hiện những nội dung trái
pháp luật của văn bản để kịp thời đình chỉ
việc thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ, bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của
hệ thống pháp luật, đồng thời, kiến nghị cơ
quan, người có thẩm quyền xác định trách
nhiệm của cơ quan, người đã ban hành văn
bản trái pháp luật, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật. Nghị định quy định
về các loại văn bản do người đứng đầu
54
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
CQHC ban hành phải được kiểm tra; nội
dung; nguyên tắc; phương thức kiểm tra; cơ
sở pháp lý để xác định nội dung trái pháp
luật của văn bản được kiểm tra và biện pháp
xử lý đối với cơ quan, người đã ban hành
văn bản trái pháp luật Thông tư số
20/2010/TT-BTP ngày 30/11/2010 của Bộ
Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số
điều của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP
ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra
và xử lý VBQPPL xác định cụ thể trách
nhiệm của người đứng đầu trong việc thực
hiện rà soát, kiểm tra các văn bản pháp luật
do cấp dưới, hay do cơ quan đơn vị mình
ban hành có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm của người đứng đầu
CQHC trong hoạt động ban hành VBQPPL
được đề cập đến trong Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2015. Cụ thể, Thủ tướng Chính
phủ là người đứng đầu Chính phủ và hệ
thống hành chính nhà nước; có nhiệm vụ và
quyền hạn lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng
các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết
trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội;
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các văn bản pháp
luật và các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách và các dự án khác thuộc thẩm
quyền quyết định của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đình chỉ
việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
UBND, Chủ tịch UBND cấp tỉnh trái với
Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị
quyết của HĐND cấp tỉnh, trái với Hiến
pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường
vụ Quốc hội bãi bỏ (Điều 28). Thủ tướng
Chính phủ ban hành văn bản pháp luật theo
thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn
bản đó và xử lý các văn bản trái Hiến pháp
và pháp luật; ban hành quyết định, chỉ thị và
hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn
bản đó trong hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương (Điều 30). Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ
và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ,
lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ;
ban hành VBQPPL theo thẩm quyền để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước
đối với ngành, lĩnh vực được phân công; ban
hành hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ ban hành chính sách phát triển
ngành, lĩnh vực được phân công chịu trách
nhiệm về toàn bộ nội dung và tiến độ trình
các đề án, dự án, văn bản pháp luật được
giao (Điều 32, 33, 34).
Luật Tổ chức Chính quyền địa phương
năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương là người đứng đầu UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có
thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi
bỏ văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh và văn bản trái pháp
luật của UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện;
đình chỉ việc thi hành văn bản trái pháp luật
của HĐND cấp huyện, báo cáo UBND tỉnh
để đề nghị HĐND tỉnh bãi bỏ (Điều 22). Chủ
tịch UBND huyện là người đứng đầu UBND
huyện và có các nhiệm vụ, quyền hạn đình
chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản trái
pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc
UBND huyện và văn bản trái pháp luật của
UBND, Chủ tịch UBND cấp xã; đình chỉ
việc thi hành văn bản trái pháp luật của
HĐND cấp xã, báo cáo UBND huyện để đề
nghị HĐND huyện bãi bỏ (Điều 26).
Đặc biệt, Luật Ban hành VBQPPL năm
2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2016) có bước đột phá khi quy định rõ
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức đối với hoạt động ban hành văn bản
pháp luật. Cụ thể, người đứng đầu cơ quan,
tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định,
cơ quan trình, cơ quan thẩm tra và cơ quan
ban hành VBQPPL trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình phải chịu trách nhiệm
về việc không hoàn thành nhiệm vụ và tùy
theo mức độ mà bị xử lý theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức và quy định
khác của pháp luật có liên quan trong trường
hợp dự thảo văn bản không bảo đảm về chất
lượng, chậm tiến độ, không bảo đảm tính
hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của
VBQPPL được phân công thực hiện (khoản
8 Điều 7).
55
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 11(315) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
3 Nguồn:
2015/218313.vgp
4 Nguồn: Không để chính sách “trên giời”, ngày 10/3/2015.
5 Nguồn: www.tienphong.vn, “Hơn 12.000 văn bản có vấn đề”, ngày 15/01/2016.
2.2 Những bất cập trong các quy định
của pháp luật và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả trên đây, các
quy định của pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu CQHC đối với hoạt động
ban hành VBQPPL còn có nhiều bất cập:
Các quy định của pháp luật về trách
nhiệm của người đứng đầu CQHC trong
hoạt động ban hành VBQPPL chưa bảo đảm
tính toàn diện, đồng bộ. Chẳng hạn, Luật
Cán bộ, công chức năm 2008 không có quy
định nào để xác định trách nhiệm của người
đứng đầu trong hoạt động ban hành
VBQPPL. Bộ luật Hình sự hiện hành cũng
chưa quy định về tội ban hành VBQPPL sai,
trái luật hay chưa xác định hành vi vi phạm
ở mức độ nào trong hoạt động ban hành
VBQPPL là tội phạm. Tương tự, Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009
chỉ quy định trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt
hại do người thi hành công vụ gây ra trong
hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi
hành án chứ chưa điều chỉnh hành vi của cá
nhân, hay của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức ban hành VBQPPL sai và phải thực
hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Một số quy định của pháp luật xác định
trách nhiệm người đứng đầu CQHC trong
hoạt động ban hành VBQPPL chưa đầy đủ,
chưa tạo ra cơ chế để có thể áp dụng những
chế tài khi họ có những hành vi vi phạm
pháp luật trong hoạt động ban hành
VBPLPL. Thành thử, các quy định cua pháp
luật xử lý trách nhiệm người đứng đầu
CQHC không bảo đảm tính khả thi. Ví dụ,
Điều 34 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP
ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra
và xử lý VBQPPL quy định “việc xem xét,
xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người đã
ban hành văn bản trái pháp luật phải căn cứ
vào nội dung, tính chất, mức độ trái pháp luật
của văn bản và hậu quả của nội dung trái
pháp luật gây ra đối với xã hội và trên cơ sở
tính chất, mức độ lỗi của cơ quan, người đã
ban hành, tham mưu ban hành văn bản đó”
đối với cá nhân, tập thể. Điều luật quy định
Bộ trưởng Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với
Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể các
quy định tại Điều này. Tuy nhiên, đến nay
vẫn chưa có hướng dẫn thực hiện điều luật
này. Trên thực tế, chỉ vài trường hợp bị xử lý
trong khi số lượng các VBQPPL do người
đứng đầu CQHC ban hành có dấu hiệu vi
phạm hàng năm rất lớn. Theo thống kê của
Cục Kiểm tra văn bản Bộ Tư pháp thì trong
năm 2014, ngành tư pháp đã thẩm định 9.299
VBQPPL (tăng 308 văn bản so với năm
2013), qua thẩm tra bước đầu phát hiện
1.554 văn bản có dấu hiệu vi phạm về thẩm
quyền ban hành, về nội dung văn bản3. Năm
2014, số lượng VBQPPL có dấu hiệu trái
pháp luật vẫn gia tăng. Cụ thể, theo kết quả
kiểm tra của các bộ, ngành, địa phương, chỉ
tính 10 tháng đầu năm 2014, bước đầu phát
hiện 9.017 văn bản có dấu hiệu vi phạm các
điều kiện về tính hợp hiến, hợp pháp của văn
bản (chiếm tỷ lệ 22%, tăng 2,62% so với
năm 2013), trong đó có 1.554 VBQPPL có
dấu hiệu vi phạm về thẩm quyền ban hành,
về nội dung văn bản4. Năm 2015, toàn ngành
tư pháp đã xem xét 76.453 văn bản. Trong
đó, đã xử lý 12.453 văn bản với các lỗi như
hết hiệu lực, trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng
chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế - xã hội5. Trong quý I năm
2016, Bộ Tư pháp đã kiểm tra 725 văn bản
của các bộ, ngành, địa phương, trong đó có
5 văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành luật, pháp lệnh. Bước đầu phát hiện 15
văn bản sai về nội dung (3 văn bản của bộ,
cơ quan ngang bộ, 12 văn bản của địa
phương), đã ra 15 thông báo đối với 15 văn
bản sai về nội dung được kiểm tra, phát hiện
56
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
và hiện các văn bản này đang trong quá trình
xử lý6. Số lượng VBQPPL do cơ quan hành
chính ban hành sai về nội dung và thẩm
quyền lớn như vậy, nhưng trên thực tế chưa
có người đứng đầu CQHC bị xử lý trách
nhiệm theo quy định của pháp luật.
Thiếu các quy định của pháp luật xác
định trách nhiệm pháp lý khi người đứng
đầu CQHC chậm ban hành văn bản thi hành
luật và trên thực tế, “việc ban hành văn bản
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành còn
chậm; có trường hợp ban hành văn bản quy
định chi tiết cả nội dung không được giao
trong luật. Tình hình trên đã làm giảm hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước; ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước; ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức”7. Chẳng hạn,
Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 chưa đề
cập đến trách nhiệm của người đứng đầu khi
ban hành VBQPPL sai, chậm ban hành cũng
như chưa đề cập đến các hình thức xử lý
trách nhiệm người đứng đầu cơ quan nhà
nước nói chung và người đứng đầu CQHC
nói riêng khi có hành vi vi phạm pháp luật
liên quan đến việc ban hành văn bản. Việc
chậm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện
luật đang gây ra những bức xúc trong dư
luận. Theo số liệu thống kê, đến cuối năm
2015, “các cơ quan có thẩm quyền còn nợ
33 văn bản (tăng 15 văn bản so với năm
2014). Ngoài ra, số lượng văn bản bảo đảm
có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của
luật, pháp lệnh rất ít, gây ảnh hưởng không
tốt đến công tác tổ chức triển khai thi hành
luật, pháp lệnh, đến quyền, lợi ích của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân”8.
Trách nhiệm của cá nhân người đứng
đầu và tập thể trong CQHC đối với hoạt
động ban hành văn bản pháp luật chưa thật
rõ ràng, cụ thể. Trên thực tế, “một số quy
định còn chồng chéo liên quan đến chủ thể
có thẩm quyền ban hành quyết định hành
chính, như trường hợp chủ tịch UBND các
cấp, với tư cách là người lãnh đạo cơ quan
hành chính cao nhất tại địa phương, hoàn
toàn có đủ thẩm quyền để ban hành quyết
định hành chính trong nhiều lĩnh vực; tuy
nhiên, khi giao thẩm quyền cụ thể trong từng
lĩnh vực, thì pháp luật hiện hành phần lớn
đều giao chức năng đó cho tập thể UBND
chứ không trao cho cá nhân Chủ tịch
UBND, khiến việc xác định trách nhiệm cá
nhân chưa được rõ ràng, minh bạch”9 khi có
hậu quả xảy ra do việc ban hành văn bản
pháp luật sai thẩm quyền.
Có thể chỉ ra nhiều nguyên nhân như: lý
luận về xác định các biện pháp trách nhiệm
đối với hoạt động ban hành VBQPPL là vấn
đề tương đối mới và khó, trong khi hoạt
động nghiên cứu lý luận về xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu CQHC đối với hoạt động
ban hành VBQPPL chưa được quan tâm.
Một số bộ, ngành chưa chú trọng chỉ đạo
công tác xây dựng, thẩm định và kiểm tra
việc ban hành VBQPPL của CQHC nhà
nước. Chất lượng một số cán bộ làm công
tác tham mưu, xây dựng ban hành VBQPPL
chưa đáp ứng yêu cầu. Hoạt động theo dõi
và tổng kết thực hiện pháp luật về trách
nhiệm của người đứng đầu CQHC trong
hoạt động ban hành VBQPPL chưa thành cơ
chế hoạt động thường xuyên, thụ động. Sự
phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan nhà nước trong hoạt
động ban hành văn bản pháp luật chưa chặt
chẽ, thiếu nhất quán.
6 Nguồn: www.congly.com.vn, ngày 09/4/2016.
7 Nghị quyết số 67/2013/QH13 về tăng cường công tác triển khai thi hành luật pháp lệnh nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH
và ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.
8 Nguồn: www.tienphong.vn, “Hơn 12.000 văn bản có vấn đề”, ngày 15/01/2016.
9 Bộ Tư pháp (2015), Báo cáo rà soát, đánh giá thực trạng pháp luật về ban hành quyết định hành chính, tr. 8. Nguồn:
57
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 11(315) T6/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
3. Một số kiến nghị bảo đảm trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan hành chính
đối với hoạt động ban hành văn bản quy
phạm pháp luật
Từ thực trạng các quy định của pháp
luật và các nguyên nhân được phân tích trên,
để bảo đảm và xử lý được trách nhiệm của
người đứng đầu CQHC đối với hoạt động
ban hành VBQPPL trong thời gian tới,
chúng ta cần thực hiện một số biện pháp
dưới đây:
- Sớm ban hành quy định hướng dẫn
thực hiện Luật Ban hành VBQPPL năm
2015 quy định về chế độ trách nhiệm pháp
lý đối với người đứng đầu trong đó có người
đứng đầu CQHC gồm các loại trách nhiệm:
trách nhiệm kỷ luật; trách nhiệm dân sự;
trách nhiệm vật chất; trách nhiệm hình sự
trong hoạt động xây dựng và ban hành
VBQPPL.
- Bảo đảm tiêu chí đồng bộ trong các
quy định về trách nhiệm của người đứng đầu
CQHC trong việc ban hành VBQPPL. Sửa
đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức năm
2008 quy định về trách nhiệm của người đứng
đầu (trong đó có người đứng đầu CQHC)
trong việc ban hành VBQPPL. Bổ sung Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm
2009 điều chỉnh cả hành vi và xác định trách
nhiệm của người đứng đầu khi ban hành
những VBQPPL sai luật, trái thẩm quyền gây
thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, xã hội.
- Khẩn trương rà soát, sửa đổi những
quy định bất cập, bất khả thi, bổ sung mới
những quy định của pháp luật về trách
nhiệm của người đứng đầu đối với hoạt
động ban hành VBQPPL tại Nghị định số
157/2007/NĐ-CP của Chính phủ về chế độ
trách nhiệm của người đứng đầu; Nghị định
số 40/2010/NĐ-CP của Chính phủ về kiểm
tra và xử lý VBQPPL theo hướng tăng
cường quyền hạn và trách nhiệm của người
đứng đầu nói chung, người đứng đầu CQHC
nói riêng, phù hợp với Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2015, Luật Tổ chức Chính quyền
địa phương năm 2015, Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015.
- Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm
của người đứng đầu CQHC trên cơ sở pháp
điển hóa các quy định đơn lẻ và chứa đựng
trong các VBQPPL dưới luật thành các đạo
luật, trong đó có Luật Công vụ. Luật này sẽ
quy định về trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan nhà nước nói chung và CQHC nhà
nước nói riêng đối với hoạt động xây dựng
và ban hành VBQPPL; đồng thời trong Luật
này có các quy định cụ thể, khả thi để bảo
đảm áp dụng các biện pháp pháp lý khi
người đứng đầu thực hiện không đúng, hay
không thực hiện nhiệm vụ được giao. Đây
là bước đi thích hợp bảo đảm tính kế thừa
có chọn lọc và phát triển, đáp ứng yêu cầu
của đổi mới, không ngừng tăng cường
quyền hạn và nâng cao trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan nhà nước nói chung
và người đứng đầu CQHC nói riêng khi thực
hiện công vụ.
- Hiện tại, Nghị định số 157/2007/NĐ-
CP của Chính phủ và Nghị định số
40/2010/NĐ-CP của Chính phủ đều quy
định người đứng đầu hay cá nhân có hành
vi vi phạm pháp luật trong hoạt động ban
hành VBQPPL, tùy theo mức độ của hành
vi vi phạm đều có thể bị áp dụng trách
nhiệm kỷ luật; trách nhiệm dân sự; trách
nhiệm vật chất, thậm chí có thể bị đề nghị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, ở
cấp độ nghị định, pháp luật về trách nhiệm
của người đứng đầu CQHC đã quy định biện
pháp trách nhiệm cao nhất là trách nhiệm
hình sự để xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật. Tuy nhiên, để truy cứu trách nhiệm
hình sự thì cần phải tính toán được thiệt hại
do hành vi vi phạm pháp luật về ban hành
VBQPPL gây ra cho cá nhân, tổ chức và xã
hội. Hơn nữa, hành vi đó phải được quy định
trong Bộ luật Hình sự. Do vậy, trong thời
gian tới chúng ta cần nghiên cứu, xem xét
để quy định tội danh có hành vi vi phạm
hoạt động ban hành VBQPPL gây hậu quả
nghiêm trọng cho các đối tượng chịu sự tác
động của VBQPPL, cho xã hội bằng một
điều luật riêng hoặc trong các tội danh liên
quan đến hoạt động công vụ n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trach_nhiem_cua_nguoi_dung_dau_co_quan_hanh_chinh_trong_ban.pdf