Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 90/
NĐ-CP về trách nhiệm giải trình của các cơ
quan nhà nước trong thi nhiệm vụ, quyền
hạn được giao
- Sửa đổi Điều 1 của Nghị định theo
hướng mở rộng phạm vi TNGT, không chỉ
thực hiện khi có yêu cầu mà còn được thực
hiện khi các chủ thể thấy cần thiết, dựa trên
nhu cầu;
- Sửa đổi khoản 1 Điều 2 của Nghị
định về chủ thể thực hiện giải trình theo
hướng không giới hạn là cơ quan hành chính
nhà nước mà các cơ quan nhà nước khác, kể
cả cơ quan hưởng lương từ ngân sách nhà
nước cũng cần thực hiện việc giải trình;
- Sửa đổi khoản 3, Điều 3 của Nghị
định theo hướng bổ sung TNGT đối với
nhóm chủ thể là cán bộ, công chức, người có
thẩm quyền quản lý mà việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ liên quan trực tiếp đến các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Sửa đổi này
phù hợp với quy định về TNGT trong các văn
bản pháp luật khác như: Luật Phòng, chống
tham nhũng, Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân ;
- Sửa đổi khoản 2 Điều 6 của Nghị định
theo hướng không quy định, nội dung yêu
cầu giải trình liên quan trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có yêu cầu giải trình. Bởi lẽ, quy định
này dẫn đến những nội dung thuộc lợi ích
của cộng đồng khó xác định được người yêu
cầu giải trình hay chứng mình được có liên
quan trực tiếp đến lợi ích của một cá nhân;
- Bổ sung quy định về trách nhiệm
phối hợp trong việc giải trình các nội dung
liên quan đến nhiều cơ quan, giám sát đối
với việc thực hiện TNGT của các cơ quan
nhà nước, các chế tài khi chủ thể vi phạm
trong thực hiện TNGT theo quy định.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Tóm tắt:
Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương là một vấn đề
mới được đề cập ở nước ta. Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng
định: Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được
quy định rõ ràng, còn nhiều hạn chế1, và xác định nhiệm vụ: bảo
đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình2.
Bài viết tập trung luận giải một số khía cạnh lý luận, pháp lý và đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình
của chính quyền địa phương.
1 Văn phòng trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, tr. 243.
2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nghị quyết số 18-NQ/TW “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, tr. 1.
Hà Ngọc Anh*
* Học viện chính trị khu vực III.
Abstract
Accountability of the local government is a matter that has just
been mentioned in our country. 12th National Congress of the
Communist Party of Vietnam affirmed: The accountability of the
administration at all levels has not been clearly defined, there ware
many shortcomings, and it defined the tasks: ensuring democracy,
publicity, transparency and enhancing their accountability. This
article is focused on clarifying theoretical and legal aspects and
finding out solutions for further improvement of the law on
accountability of the local government.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015, chính quyền địa
phương, trách nhiệm giải trình.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 01/09/2019
Biên tập : 17/09/2019
Duyệt bài : 20/09/2019
Article Infomation:
Keywords: 2015 Law on Organization of
Local Governments, Local Government,
Accountability.
Article History:
Received : 01 Sep. 2019
Edited : 17 Sep. 2019
Approved : 20 Sep. 2019
1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm giải
trình của chính quyền địa phương
Trách nhiệm giải trình (TNGT) là
thuật ngữ được tiếp cận theo nhiều phương
diện khác nhau. Về nguồn gốc, nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng, khái niệm trách nhiệm
giải trình có nguồn gốc từ tiếng Anglo -
Norman, ban đầu rất gần với thuật ngữ
“accounting” với nghĩa là sổ sách kế toán
“bookkeeping”. Trải qua nhiều thế kỷ, thuật
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 20(396) T10/2019
ngữ này được coi là cơ sở của hệ thống quản
lý công bằng, vô tư khách quan, không chỉ là
trách nhiệm của người dân đối với hoàng gia
hay đối với nhà nước mà ngược lại, nhà nước
cũng có trách nhiệm với dân chúng. Đến
những năm 80 của thế kỷ XX, cùng với làn
sóng quản lý công mới từ nước Anh, thuật
ngữ này được sử dụng rộng rãi trong nghiên
cứu và thực hành quản trị tốt. Chính vì lý do
ngôn ngữ này nên tồn tại rất nhiều cách hiểu
về TNGT1. Dưới góc độ quản trị tốt, khái
niệm TNGT gồm 02 thành tố: khả năng giải
đáp, là việc yêu cầu các công chức phải có
khả năng giải đáp theo định kỳ những vấn
đề liên quan đến việc họ đã sử dụng thẩm
quyền của mình như thế nào, những nguồn
lực được sử dụng vào đâu, với các nguồn
lực đó đã đạt được kết quả gì và việc chịu
trách nhiệm hậu quả xảy ra, đó là nhu cầu
về việc phải dự đoán được những hậu quả.
Báo cáo chỉ số quản trị và hành chính công
cấp tỉnh (PAPI) năm 2011 đã đưa ra khái
niệm về TNGT. Theo đó, TNGT là một khái
niệm có những cách diễn giải và dịch thuật
khác nhau, và rất khó để khẳng định xem nó
được thực thi như thế nào? Nói ngắn gọn,
khái niệm TNGT cơ bản là đảm bảo cho
người dân, nhà nước và các tổ chức ngoài
nhà nước có cả khung pháp lý lẫn khả năng
buộc các cơ quan và cán bộ nhà nước phải
giải trình về những gì họ làm hoặc không
làm khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của
mình2. Khi xem xét TNGT là một hoạt động
của nhà nước, đa số các nhà nghiên cứu cho
rằng: TNGT là việc cơ quan nhà nước cung
cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và chịu
1 Bùi Phương Đình (2017), Trách nhiệm giải trình trong phòng chống tham nhũng - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho
Việt Nam, Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị số 3
2 Báo cáo chỉ số quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2011, tr. 32.
3 Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn (Đồng chủ biên), (2017), Quản trị tốt lý luận
và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 185.
trách nhiệm của mình trong việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn đó3. Như vậy, TNGT
có thể được thực hiện bởi các cơ quan lập
pháp, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp.
Ở Việt Nam, dưới góc độ phòng chống tham
nhũng, TNGT được xem là việc các cơ quan
nhà nước, cá nhân có thẩm quyền chủ động
hoặc theo yêu cầu thực hiện cung cấp thông
tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về quyền, nghĩa
vụ, về quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao và trách nhiệm của mình đối với kết
quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ đó trước
người dân, xã hội và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan.
Những phân tích nêu trên cho thấy,
TNGT thể hiện hai phương diện cơ bản: Một
là trách nhiệm báo cáo, trình bày, cung cấp,
giải thích một vấn đề/nội dung nào đó thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của một chủ thể nhất
định. Trách nhiệm này có thể do chủ thể giải
trình chủ động thực hiện hoặc khi có yêu
cầu của chủ thể có thẩm quyền yêu cầu giải
trình. Hai là việc xác định trách nhiệm của
chủ thể đối với vấn đề/nội dung đã báo cáo,
trình bày, cung cấp giải thích thuộc nhiệm
vụ, thẩm quyền. Hai phương diện này thống
nhất trong một chỉnh thể, không thể xem xét
một cách biệt lập, bởi lẽ, trách nhiệm giải
trình phải là sự kết hợp giữa hai yếu tố: sự
giải trình và sự chịu trách nhiệm. Việc chịu
trách nhiệm phải dựa trên những căn cứ
nhất định - chủ thể chịu trách nhiệm phải
giải trình, ngược lại, chỉ giải trình mà không
chịu trách nhiệm hoặc không kèm theo chế
tài nào thì sự giải trình đó không còn đầy đủ
ý nghĩa.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 20(396) T10/2019
Chính quyền địa phương (CQĐP)
là khái niệm còn có những cách hiểu khác
nhau, phổ quát nhất có thể hiểu, CQĐP là
thuật ngữ được sử dụng để chỉ những thiết
chế nhà nước, có tư cách quyền lực công,
được thành lập để quản lý điều hành mọi
mặt đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ của
một quốc gia. Như vậy, có thể hiểu, chính
quyền địa phương là một bộ phận hợp thành
của chính quyền nhà nước thống nhất, bao
gồm hệ thống cơ quan đại diện và cơ quan
hành chính được thành lập ra để thực hiện
chức năng quản lý trong một phạm vi địa
giới hành chính lãnh thổ nhất định.
Cũng như bất cứ cơ quan nhà nước
nào, các cơ quan của CQĐP có TNGT.
TNGT của CQĐP là trách nhiệm của các cơ
quan công quyền ở địa phương trong việc
thực hiện nghĩa vụ cung cấp, giải thích,
làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn được giao và chịu hệ quả pháp lý
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó.
Theo chúng tôi, TNGT của CQĐP có
các đặc điểm sau:
i) Chủ thể thực hiện là các cơ quan nhà
nước ở địa phương được giao những nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
Đó là cơ quan dân cử và cơ quan hành chính
ở địa phương. Chủ thể thực hiện giải trình
có thể là người đứng đầu cơ quan dân cử,
cơ quan hành chính, hay người đại diện cho
các cơ quan nhà nước ở địa phương. Trong
trường hợp cụ thể, có thể là cá nhân trong
tổ chức liên quan đến việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
ii) Chủ thể yêu cầu CQĐP thực hiện
việc giải trình rất đa dạng. Đó có thể là cơ
quan nhà nước cấp trên, cơ quan nhà nước
cùng cấp, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội,
cơ quan tư pháp, cơ quan truyền thông đại
chúng, người dân địa phương...
iii) Nội dung giải trình liên quan đến
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền được giao, thực chất là việc tổ chức
thực hiện và kết quả thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền đã được pháp
luật quy định.
iv) TNGT được thực hiện thông qua
nhiều phương thức khác nhau: cung cấp thông
tin, giải thích, báo cáo, trả lời chất vấn, giám
sát, giải trình, thanh tra, kiểm tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, đối thoại, họp báo Tùy
thuộc vào phương thức giải trình mà CQĐP
giải trình theo cách thức khác nhau.
2. Nội dung, phương thức giải trình của
chính quyền địa phương
i) Nội dung giải trình: TNGT của
CQĐP tập trung vào việc thực thi nhiệm
vụ, quyền hạn, thẩm quyền của CQĐP được
pháp luật quy định, ngoại trừ các nội dung
có liên quan đến bí mật quốc gia hoặc những
trường hợp không thuộc phạm vi giải trình.
Tương ứng với từng nội dung giải trình, chủ
thể giải trình và chủ thể yêu cầu giải trình
có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Nội
dung giải trình của CQĐP ở các quốc gia là
khác nhau, vì nó phụ thuộc vào cách thức
tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương,
nguyên tắc phân định thẩm quyền được áp
dụng và sự cụ thể hóa của pháp luật. Đối
với Việt Nam, nội dung giải trình của CQĐP
là những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn,
thẩm quyền được pháp luật quy định, ngoài
ra, còn phải giải trình về nguồn gốc tài sản,
thu nhập xuất phát từ yêu cầu của công tác
phòng, chống tham nhũng. Trọng tâm nội
dung giải trình của CQĐP là việc tổ chức và
bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật
tại địa phương; quyết định các vấn đề của
địa phương do luật định (Khoản 1, Điều 112
Hiến pháp năm 2013). Thực tiễn cho thấy, ở
hầu hết các quốc gia, nhiệm vụ, quyền hạn
của CQĐP ngày càng được mở rộng, tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự quản ngày
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 20(396) T10/2019
càng cao, do đó, CQĐP và cá nhân có thẩm
quyền phải thực hiện TNGT đối với các nội
dung thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình
là yêu cầu cấp thiết luôn được đặt ra. Sự thay
đổi về nội dung giải trình của CQĐP, cùng
với xu hướng dân chủ hóa trong xã hội ngày
càng cao đòi hỏi cơ chế thực hiện TNGT
của CQĐP cần có cách tiếp cận mới, theo
đó, tăng cường TNGT đối với các chủ thể
bên ngoài, đặc biệt là đối với nhân dân cần
được xác lập một cách khoa học hơn.
ii) Phương thức giải trình: Ứng với
các kênh giải trình khác nhau sẽ hình thành
các phương thức giải trình tương ứng, các
phương thức giải trình của CQĐP rất đa dạng
và có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động của
CQĐP trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn được pháp luật quy định. Đa số các quốc
gia đều xem TNGT gắn liền với quyền của
công dân được cung cấp thông tin về hoạt
động của các cơ quan nhà nước. Do đó, hầu
hết các quốc gia đều khẳng định quyền này
của công dân trong Hiến pháp và cụ thể hóa
nó bằng các văn bản luật. Ví dụ như Luật về
quyền tiếp cận thông tin, Luật Thủ tục hành
chính (Nhật Bản, Canada, Thụy Điển, New
Zealand), Luật Tự do thông tin (Hoa Kỳ)4
3. Quy định của pháp luật Việt Nam về
trách nhiệm giải trình của chính quyền
địa phương
Nhìn tổng thể, các quy định của pháp
luật Việt Nam về TNGT của CQĐP luôn có
sự kế thừa và vận động theo hướng ngày càng
được quy định rõ ràng hơn. Hiện nay, cơ sở
pháp lý về TNGT của CQĐP được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, tập
trung chủ yếu vào các văn bản như: Hiến
pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm
4 Nguyễn Đăng Dung (2014), Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ
quan hành chính nhà nước, Báo cáo tập hợp chuyên đề đề tài khoa học cấp Bộ, Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành
chính nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp.
2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015,
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015, Luật Hoạt động giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2012 (sửa
đổi, bổ sung năm 2018), Luật Cán bộ, công
chức năm 2008, Luật Tiếp công dân năm
2013, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016
và một số văn bản dưới luật như: Nghị định
số 90/2013/NĐ-CP, Thông tư 02/2014/
TTCP quy định chi tiết, hướng dẫn một số
điều của Nghị định số 90/2013/NĐ-CP
Nội dung của các văn bản nêu trên cho thấy,
quy định của pháp luật về TNGT của CQĐP
đã có bước phát triển mới, xác định rõ hơn
về nội dung, phương thức, chủ thể giải
trình. Các quy định này đã tạo cơ sở pháp lý
quan trọng để CQĐP thực hiện giải trình có
trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn được giao, là công cụ pháp
lý quan trọng tăng cường sự giám sát của
người dân đối với các cơ quan nhà nước ở
địa phương.
Bên cạnh đó, các quy định của pháp
luật về TNGT của CQĐP hiện nay còn có
những hạn chế, bất cập sau đây:
i) Các quy định của pháp luật chủ yếu
hướng đến việc xem TNGT là trách nhiệm
giải thích việc thực thi nhiệm vụ, công vụ
hay các vấn đề liên quan đến trách nhiệm
quản lý của mình khi được yêu cầu. Tuy
nhiên, trên thực tế, nội dung về trách nhiệm
giải trình rộng hơn, không chỉ thực hiện khi
có yêu cầu, mà còn được thực hiện ngay cả
khi không có yều cầu, nhưng chủ thể thấy
đó là việc làm cần thiết để tìm kiếm sự ủng
hộ, đồng thuận về những vấn đề đã, đang, sẽ
được thực hiện, bảo đảm tính khả thi của các
quyết định hay việc làm của mình trên thực
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 20(396) T10/2019
tế5 Trong một số trường hợp, giải trình
không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền
của một chủ thể nào đó được phát biểu, nói
lên ý kiến, giải thích cho việc làm của mình
là đúng đắn, hợp pháp. Do đó, trách nhiệm
giải trình trước hết phải dựa trên “nhu cầu”
thấy “cần” phải giải thích của cá nhân người
có trách nhiệm, không chỉ là thực hiện do
quy định của pháp luật6.
ii) Các quy định hiện hành chủ yếu đề
cập và nhấn mạnh đến trách nhiệm tuân thủ
các quy định về thực hiện đúng thẩm quyền,
đúng trách nhiệm được giao, trong khi đó,
cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình gắn
với trách nhiệm thực hiện hiệu quả công
việc lại chưa được pháp luật đề cập đến.
Trong bối cảnh hiện nay, khi yêu cầu dân
chủ trong đời sống xã hội ngày càng cao, sự
chủ động tham gia của người dân vào hoạt
động quản lý nhà nước ngày càng sâu rộng,
TNGT của CQĐP cần phải gắn với trách
nhiệm thực hiện công việc một cách có hiệu
quả, thỏa mãn ngày càng tốt hơn sự hài lòng
của người dân.
iii) TNGT của CQĐP được quy định
tản mạn trong nhiều văn bản luật và dưới luật
khác nhau, điều này đã tạo khó khăn trong
quá trình nhận thức, năm bắt các quy định
của pháp luật về TNGT đối với các chủ thể,
đặc biệt là quá trình tổ chức thực hiện và xác
định trách nhiệm của các bên.
iv) Quy định của pháp luật về TNGT
đối với người đứng đầu các cơ quan của
CQĐP chưa đầy đủ, rõ ràng; phạm vi chủ thể
thực hiện trách nhiệm giải trình còn hẹp, chưa
xác định rõ trách nhiệm giải trình cá nhân;
phương thức giải trình chưa phong phú, chủ
5 Đinh Văn Minh (2012), Bàn về trách nhiệm giải trình, truy cập ngày 12/1/2018.
6 Lưu Kiếm Anh, Lê Thị Hương (2016), Trách nhiệm giải trình trong khu vực công ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà
nước, số 245, tr. 30-34.
7 Nguyễn Hoàng Anh (2018), Phân cấp, phân quyền và thực tiễn triển khai theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN: Luật học, Tập 34, Số 4 (2018), tr. 41-50.
yếu giải trình trong nội bộ CQĐP và giải trình
đối với cấp trên, TNGT đối với người dân
chưa được chú trọng; hệ quả pháp lý của giải
trình chưa rõ ràng, mang tính dẫn chiếu
Để khắc phục hạn chế, bất cập nêu
trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau:
i) Hoàn thiện các quy định trong Luật
Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
- Khoản 1 và khoản 2 Điều 112 Hiến
pháp năm 2013 ghi nhận thẩm quyền riêng
của địa phương. Đây là thẩm quyền riêng
biệt, độc lập so với thẩm quyền của các cơ
quan nhà nước cấp trên và thừa nhận khả năng
phân cấp, phân quyền cho mỗi địa phương7.
Tuy nhiên, các quy định về phân quyền, phân
cấp, ủy quyền trong Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 mới dừng lại
quy định ở nguyên tắc chung, cần tiếp tục
được cụ thể hóa, theo đó: Nghiên cứu sửa
đổi điểm c, khoản 2, Điều 11 về thẩm quyền
giải quyết vấn đề phân quyền thuộc phạm
vi từ hai đơn vị hành chính trở lên. Bởi lẽ,
khoản 1 Điều 12 của Luật đã quy định việc
phân quyền cho mỗi cấp CQĐP phải được
quy định trong các luật, nên CQĐP không có
thẩm quyền giải quyết vấn đề này, chỉ luật
mới có thể xác định và thay đổi thẩm quyền
đã được phân quyền, nếu không quy định rõ
vấn đề này sẽ dẫn đến mâu thuẫn trong chính
các quy định của Luật;
- Sửa đổi, bổ sung Điều 11 của Luật
theo hướng quy định rõ việc đảm bảo các
nguồn lực của cấp trên để CQĐP thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền,
phân cấp, cơ chế kiểm tra, giám sát, TNGT
trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 20(396) T10/2019
- Sửa đổi, bổ sung Điều 12 của Luật
theo hướng quy định cụ thể các nguyên tắc
khi phân quyền cho mỗi cấp CQĐP. Mặc dù,
khoản 4 Điều 12 của Luật có quy định phải
bảo đảm các nguyên tắc quy định tại khoản
2 Điều 11 của Luật nhưng các quy định này
còn rất chung và quy định cụ thể các nhiệm
vụ, quyền hạn mà CQĐP được phân quyền
có được phân cấp hay ủy quyền cho CQĐP
cấp dưới và cơ quan, tổ chức khác không;
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 14
của Luật theo hướng: làm rõ “trường hợp
cần thiết” cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân
dân cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác là
trường hợp nào, các cơ quan, tổ chức khác
được cơ quan hành chính nhà nước cấp trên
ủy quyền là những cơ quan nào;
- Sửa đổi khoản 4, Điều 104 của Luật
theo hướng quy định cụ thể về giải trình tại
phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân
trên các nội dung: quyết định vấn đề cần
phải giải trình, trách nhiệm của chủ thể được
yêu cầu giải trình, trách nhiệm phối hợp
giữa các cơ quan trước, trong và sau khi giải
trình, trình tự thủ tục thực hiện, hình thức
văn bản về kết luận phiên giải trình, hệ quả
pháp lý;
- Sửa đổi, bổ sung Điều 18, Điều 25,
Điều 32, Điều 39, Điều 46, Điều 53, Điều 60
và Điều 67 của Luật theo hướng quy định số
lượng đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên
trách theo tỷ lệ % trên tổng số đại biểu của
từng cấp Hội đồng nhân dân, tăng số lượng
đại biểu hoạt động chuyên trách tại các Ban
của Hội đồng nhân dân các cấp;
- Sửa đổi điểm c, khoản 4, Điều 87
của Luật theo hướng quy định rõ hơn thế
nào là trường hợp cần thiết khi HĐND ra
nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách
nhiệm của người bị chất vấn, đặc biệt là
quy định chế tài đối với người bị chất vấn
và những người có liên quan đến nội dung
chất vấn trong việc không thực hiện, thực
hiện không đúng, không đầy đủ các kết
luận tại phiên chất vấn hoặc đã nêu ra trong
Nghị quyết;
- Bổ sung quy định về việc HĐND
phải đảm bảo số lượng thời gian họp chất
vấn phù hợp (có thể không dưới 1/3 tổng số
thời gian của kỳ họp HĐND). Bên cạnh đó,
tiếp tục hoàn thiện các quy định trong Nghị
quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014
về lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức
danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê
chuẩn, theo đó, chỉ nên đặt ra việc lấy phiếu
tín nhiệm khi có “vấn đề” mà không phải
theo định kỳ, thông qua đó đánh giá mức độ
tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội
đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
ii) Hoàn thiện Luật tiếp cận thông tin
- Sửa đổi khoản 1 và khoản 3 Điều
18 của Luật theo hướng quy định rõ các
hình thức cung cấp thông tin đối với người
khuyết tật. Bởi lẽ, mặc dù Điều 3 Nghị định
số 13/2018 đã quy định. Tuy nhiên, Luật và
Nghị định mới tiếp cận ở khía cạnh chung
của người khuyết tật, mà chưa tiếp cận ở góc
độ dạng tật của người khuyết tật như: khuyết
tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật
nhìn, khuyết tật thần kinh, tâm thần, khuyết
tật trí tuệ, khuyết tật khác và có 03 mức độ
khuyết tật: người khuyết tật đặc biệt nặng,
người khuyết tật nặng và người khuyết tật
nhẹ, đối với mỗi đối tượng cần có hình thức
tiếp cận thông tin phù hợp và được pháp luật
quy định cụ thể.
iii) Hoàn thiện Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
- Sửa đổi Điều 30 của Luật theo hướng
bổ sung quy định về trách nhiệm, cũng như
chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc xem xét, tiếp thu, giải quyết kiến
nghị sau giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 20(396) T10/2019
- Sửa đổi khoản 3 Điều 36 của Luật
theo hướng bổ sung quy định về trách nhiệm
đối với cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo dự
thảo văn bản được phản biện về việc tiếp thu
ý kiến phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, đặc biệt bổ sung chế tài đối với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiếp thu,
xử lý các ý kiến phản biện của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, sau phản biện các chủ thể có
thể tiếp thu hoặc không tiếp thu, nhưng cần
có cơ sở để công khai cho nhân dân biết tại
sao lại có cách xử lý như vậy.
iv) Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 90/
NĐ-CP về trách nhiệm giải trình của các cơ
quan nhà nước trong thi nhiệm vụ, quyền
hạn được giao
- Sửa đổi Điều 1 của Nghị định theo
hướng mở rộng phạm vi TNGT, không chỉ
thực hiện khi có yêu cầu mà còn được thực
hiện khi các chủ thể thấy cần thiết, dựa trên
nhu cầu;
- Sửa đổi khoản 1 Điều 2 của Nghị
định về chủ thể thực hiện giải trình theo
hướng không giới hạn là cơ quan hành chính
nhà nước mà các cơ quan nhà nước khác, kể
cả cơ quan hưởng lương từ ngân sách nhà
nước cũng cần thực hiện việc giải trình;
- Sửa đổi khoản 3, Điều 3 của Nghị
định theo hướng bổ sung TNGT đối với
nhóm chủ thể là cán bộ, công chức, người có
thẩm quyền quản lý mà việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ liên quan trực tiếp đến các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Sửa đổi này
phù hợp với quy định về TNGT trong các văn
bản pháp luật khác như: Luật Phòng, chống
tham nhũng, Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân;
- Sửa đổi khoản 2 Điều 6 của Nghị định
theo hướng không quy định, nội dung yêu
cầu giải trình liên quan trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có yêu cầu giải trình. Bởi lẽ, quy định
này dẫn đến những nội dung thuộc lợi ích
của cộng đồng khó xác định được người yêu
cầu giải trình hay chứng mình được có liên
quan trực tiếp đến lợi ích của một cá nhân;
- Bổ sung quy định về trách nhiệm
phối hợp trong việc giải trình các nội dung
liên quan đến nhiều cơ quan, giám sát đối
với việc thực hiện TNGT của các cơ quan
nhà nước, các chế tài khi chủ thể vi phạm
trong thực hiện TNGT theo quy định.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật nêu trên sẽ góp phần tăng cường TNGT
của CQĐP trong thời gian đến, đây cũng là
đòi hỏi chính đáng của Nhân dân - chủ thể
cơ bản mà CQĐP phải thực hiện TNGT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh (2018), Các lý thuyết, mô hình, cách tiếp cận
về quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng, Nxb., Hồng Đức.
2. Jairo Acunã-Alfaro và Đỗ Thanh Huyền (2014), Công khai, minh bạch và giải trình: Vai trò của chính
quyền địa phương? Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 19.
3. Ngân hàng thế giới và các nhà tài trợ, Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2010: Các thể chế hiện đại.
4. Ngân hàng thế giới, Bộ Kế hoạch và đầu tư (2017), Báo cáo Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng,
sáng tạo, công bằng và dân chủ.
5. Quản trị nhà nước hiện đại: Những vấn đề lý luận, thực tiễn, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội,
tháng 7/2017.
6. S. Chiavo – Campo và P.S.A. Sundaram (2003), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một
thế giới cạnh tranh của, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 20(396) T10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trach_nhiem_giai_trinh_cua_chinh_quyen_dia_phuong.pdf