Tác dụng TXA trong điều trị lão hóa da
TXA ức chế chuyển plasminogen thành
plasmin thông qua việc gắn cạnh tranh với lysin
trên plasminogen ở tế bào gai. Từ đó làm giảm
giải phóng arachidonic acid, giảm sản xuất
prostaglandin, giảm hoạt động tyrosinase và
giảm sinh tổng hợp melanin. TXA không có tác
động lên vùng da không tiếp xúc ánh sáng. Ngoài
ra TXA ức chế con đường Sc-uPA, làm giảm hiện
tượng gián đoạn màng đáy.
TXA còn được dùng như một chất điều hòa
hormonα-MSH, ACTH,β-endorphin (tiết ra từtếbào
hướng vỏ thượng thận). TXA làm giảm urocortin 2
(chất làm tăng giải phóng histamin ở tế bào mast),
giảm methionin-enkephalin, tăng β-endorphin và
receptor β-endorphin. β-endorphin đóng vai trò
qua trọng trong đáp ứng miễn dịch, tăng cường
hệ miễn dịch cho da. β-endorphin còn làm giảm
sản suất chất P, một chất trung gian thần kinh làm
tăng sản xuất histamin. Từ đó, TXA giám tiếp làm
giảm nồng độ histamin, ngăn ngừa quá trình lão
hóa da do ánh sáng.
TXA làm tăng bộc lộ receptor- estrogen
trên tế bào mast. Receptor này có vai trò chống
viêm, kết hợp với 17β-estradiol ức chế giải phóng
histamin từ tế bào mast. Tuy nhiên, mối liên quan
giữa receptor- estrogen và tế bào mast còn chưa
rõ ràng và cần nghiên cứu thêm.
TXA ức chế hình thành plasmin, làm giảm
bFGF, giảm tân tạo mạch máu và giãn mạch.
TXA không tác động đến TGF-β, ROS, MMPs.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tranexamic Acid trong điều trị lão hóa da, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
'IʁN Ĉ¬N
63Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
TRANEXAMIC ACID TRONG ÑIEÀU TRÒ LAÕO HOÙA DA
Vũ Nguyệt Minh*
Phản biện khoa học: GS.TS. Trần Hậu Khang
*Trường Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Da liễu Trung Ương
1. ĐẠI CƯƠNG VỀ LÃO HÓA DA
1.1. Cơ chế của lão hóa da
Hàng ngày, con người tiếp xúc liên tục với
cực tím (ultraviolet - UV) từ ánh nắng mặt trời.
Tiếp xúc tia UV trong thời gian ngắn có thể gây
bỏng nắng, rám nắng, ức chế miễn dịch ở da. Phơi
nhiễm trong thời gian dài sẽ gây ra lão hóa da do
ánh sáng và ung thư da. Có hai loại lão hóa da: lão
hóa da tự nhiên và lão hóa da do ánh sáng. Lão
hóa da tự nhiên đặc trưng bởi sự suy giảm chức
năng và cấu trúc da theo tuổi, như teo thượng bì,
phẳng cầu nối thượng bì - trung bì. Mặt khác, lão
hóa da do ánh sáng có triệu chứng lâm sàng đa
dạng hơn, là hậu quả của việc phơi nhiễm với ánh
sáng trong thời gian dài, đặc biệt là thành phần
tia UV trong ánh nắng.
Vùng da phơi nhiễm với ánh sáng nhiều, như
mặt và cổ, thể hiện rõ sự lão hóa sớm so với da thân
mình, đùi, đặc trưng bởi các dấu hiệu lâm sàng như
dày sừng tăng sắc tố, nếp nhăn, chảy xệ, giãn mạch.
Đặc điểm mô bệnh học là phẳng cầu nối thượng bì
- trung bì, xuất hiện tế bào bất thường, tăng sắc tố,
giảm collagen, thoái hóa sợi chun.
Cơ chế của sự lão hóa do ánh sáng, UVA (400
- 315 nm) tác động sâu xuống trung bì, làm tổn
thương da thông qua sinh các gốc tự do (ROS). UVB
(315 - 280 nm) tác động tác động đến nhú trung
bì, làm thương tổn da trực tiếp thông qua gây tổn
thương DNA trong tế bào thượng bì. Tia UV tác
động lên tế bào sừng và nguyên bào sợi gây oxy
hóa và bất hoạt men tyrosine phosphatase, làm
rối loạn chức năng chuyển hóa trong tế bào, kích
hoạt men tiêu hủy cấu trúc cấu trúc nền (matrix
metalloproteinase – MMP), tiết ra MMP-1, MMP-
3, MMP-4 và làm giáng hóa sợi collagen, sợi chun
(elastin) ở trung bì. Tia UV còn phá hủy DNA trực
tiếp và gián tiếp thông qua các gốc tự do, từ đó các
tế bào có DNA bị phá hủy tăng sản xuất yếu tố tăng
trưởng nội mô mạch máu (vascular endothelial
growth factor - VEGF), các cytokin viêm, như IL-1,
IL-6, yếu tố hoại tử u (tumor necrosis factor - TNF-α),
làm giáng hóa collagen.
Một đặc trưng quan trọng khác của lão hóa
da do ánh sáng là sự hình thành các đốm da, còn
gọi là đốm sắc tố lão hóa, ban đầu là màu nâu và
dần thành màu đen. Các tế bào gai tiếp nhận tín
hiệu từ tia UV, tương tác với tế bào hắc tố làm kích
thích hình thành melanin. Sau thời gian dài tiếp
xúc với tia UV, melanin hình thành nhiều hơn, tạo
các đốm da tối màu hơn. Ngoài ra, tia UV còn gây
rối loạn chuyển hóa ở lớp sừng, khiến lớp sừng
không bong ra theo chu kì, tích luỹ melanin ở
nhiều lớp của da.
1.2. MMP trong lão hóa da
Như đã trình bày ở trên, MMP có liên quan
đến lão hóa da do ánh sáng. Trong thí nghiệm
chiếu tia UV lên nguyên bào sợi và da người,
nồng độ MMP 1, 2, 3 và 9 tăng lên. Fisher và cộng
sự chứng minh rằng, phơi nhiễm với tia UV, thậm
chí là UVB cường độ nhỏ cũng làm tăng MMPs.
'IʁN Ĉ¬N
64 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
Nhiều nghiên cứu gần đây dùng mô hình
tương đương da (skin equivalent - SE) có gián
đoạn màng đáy cho thấy mẫu SE này tương tự với
quá trình lão hóa da do ánh sáng bởi đều thiếu
cấu trúc màng đáy ở cầu nối thượng - trung bì
và tồn tại số lượng lớn MMP (chủ yếu là MMP-2,
MMP-9). Một chất ức chế MMP là CGS27023A, có
tác dụng củng cố cấu trúc màng đáy ở cầu nối
thượng - trung bì trên mẫu SE. Từ đây, có thể kết
luận rằng, MMP có vai trò quan trọng trong thoái
hóa và gián đoạn màng đáy. Ở da tiếp xúc lâu dài
với ánh sáng, có thể quan sát thấy hiện tượng
tách màng đáy khỏi tế bào gai, phá hủy lá đục
trong màng đáy của da.
1.3. Plasmin trong lão hóa da
Tia UV làm tăng tổng hợp các yếu tố hoạt
hóa plasminogen, tăng hoạt động plasmin ở
tế bào gai, kích thích tế bào nội mô giải phóng
arachidonic acid thông qua phospholipase A2.
Arachidonic acid tự do kích thích sinh tổng hợp
melanin thông qua prostaglandin E2.
Plasmin tăng cũng làm tăng hormon kích
thích tế bào hắc tố (α-melanocyte stimulating
hormone - α-MSH), tăng tổng hợp melanin.
Plasmin còn làm tăng giải phóng yếu tố tăng
trưởng nguyên bào sợi cơ bản (basic fibroblast
growth factor - bFGF), một yếu tố tăng trưởng
của tế bào hắc tố. Tất cả các quá trình trên làm
tăng sản xuất melanin ở da.
Plasmin chuyển VEGF ở chất nền ngoại bào
thành dạng khuếch tán tự do, tăng hoạt tính
VEGF, góp phần làm giãn mạch da.
Mẫu SE được chiếu UVB làm uPA tăng lên,
nếu cho thêm plasminogen vào môi trường nuôi
cấy, thấy hiện tượng tăng thoái hóa màng đáy và
suy yếu các cấu trúc màng đáy ở cầu nối thượng
- trung bì.
1.4. Tế bào mast trong lão hóa da
Gần đây, các nhà khoa học bắt đầu chú ý
nhiều hơn đến vai trò của tế bào mast trong quá
trình lão hóa da. Tế bào mast tồn tại chủ yếu ở
những mô tiếp xúc trực tiếp với môi trường như
da, đường hô hấp, đường tiêu hóa. Ở mô da, tế
bào mast cư trú ở nhú trung bì, quanh mạch máu,
tận cùng thần kinh, hiếm khi thấy ở trung bì sâu
và hầu như không thấy ở thượng bì.
Tế bào mast giải phóng các hạt chứa nhiều
thành phần gây độc và chất trung gian hoạt động,
gồm có chymase, tryptase, TNF-α, histamin. Các
chất trung gian này có vai trò trong giai đoạn sớm
của quá trình viêm, thay đổi mạch máu và phá
hủy chất nền ngoại bào dẫn đến tái cấu trúc da.
Tế bào mast có nguồn gốc từ tế bào gốc sinh
máu vạn năng ở tủy xương, biệt hóa phụ thuộc
các yếu tố môi trường và yếu tố tế bào gốc (stem
cell factor - SCF). Một nghiên cứu trên chuột cho
thấy chiếu tia UV kéo dài làm tăng sản xuất SCF ở
thượng bì, dẫn đến tăng số lượng tế bào mast ở
trung bì.
Tế bào mast cư trú ở trung bì, nơi tia UVB
không tác động đến. Tuy nhiên, có nhiều bằng
chứng chỉ ra có hiện tượng tăng thoái hóa tế bào
mast ở trung bì khi tiếp xúc với ánh sáng. Điều
này được giải thích rằng, mặc dù tia UVB không
xuyên sâu xuống trung bì nhưng lại kích thích tế
bào gai ở thượng bì giải phóng ra các chất trung
gian (SCF, VEGF), kích thích thần kinh cảm giác
có nhiều ở trung bì giải phóng ra peptide thần
kinh. Các chất này di chuyển xuống trung bì, kích
thích làm tăng số lượng tế bào mast đồng thời
'IʁN Ĉ¬N
65Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
kích hoạt từng bước thoái hóa tế bào mast và giải
phóng ra các chất trung gian.
1.4.1. Tế bào mast và tái cấu trúc chất nền ngoại
bào (extracellular matrix - ECM)
Tryptase là một men mới được phát hiện, giải
phóng từ tế bào mast và có vai trò quan trọng
trong khởi phát quá trình giáng hóa chất nền ở
trung bì. Khác với những trypsin khác có khả năng
kích hoạt quá trình tái cấu trúc mô, tryptase có
thể kích hoạt MMPs gây giáng hóa ECM, phá hủy
trực tiếp protein ECM, đặc biệt là collagen type I và
type III, hai thành phần quan trọng của ECM trung
bì. Ngoài ra, tryptase còn làm giảm lực liên kết của
tế bào gai ở thượng bì và tách fibronectin, một
protein dính quan trọng trong ECM trung bì khỏi
chất nền gian bào của nguyên bào sợi. Bởi vậy,
tryptase có liên quan đến hiện tượng phân tách
trung bì - thượng bì - một dấu hiệu lão hóa da.
Tuy nhiên, một số y văn báo cáo rằng, sự tăng lên
và hoạt hóa tế bào mast bởi tia UV có vai trò quan
trọng trong duy trì thăng bằng cấu trúc da, giúp
mô da tự phục hồi sau tổn thương do ánh sáng.
Tế bào mast hoạt hóa có khả năng khởi phát
quá trình thoái hóa các tế bào mast xung quanh
qua cơ chế cận tiết (paracrine). Tryptase giải phóng
từ tế bào mast hoạt hóa, làm các tế bào mast
chưa được hoạt hóa cũng giải phóng histamin.
Histamin kích thích tế bào gai giải phóng MMP-9,
thúc đẩy giáng hóa collagen type IV.
1.4.2. Tế bào mast và phản ứng viêm
Nguyên bào sợi tổng hợp hầu hết tất cả các
loại chất nền ngoại bào như collagen, sợi chun,
proteoglycan. Nguyên bào sợi ở trung bì giảm số
lượng theo tuổi tác, do vậy khả năng đổi mới của
da cũng giảm. Ngược lại, số lượng tế bào mast ở
da lại tăng lên theo tuổi. Hiện tượng này được giải
thích dựa trên quá trình viêm liên tục ở trung bì
trong suốt cuộc đời. Các yếu tố bên trong và bên
ngoài như tia UV, độ ẩm không khí, nhiệt độ,
gây ra vòng xoắn phản ứng viêm tái đi tái lại, làm
tăng số lượng tế bào mast.
Về mô bệnh học, lão hóa da giống hệt với
phản ứng viêm mạn tính ở da là đều tăng số
lượng tế bào mast, mặc dù lão hóa da không có
triệu chứng viêm ngoài da nào. Phản ứng viêm là
yếu tố chìa khóa trong lão hóa da.
Cơ chế của bỏng nắng do UVB có liên quan
đến tế bào mast. UVB hoạt hóa tế bào mast, giải
phóng tức thì TNF-α, kích hoạt tăng sinh mạch
máu ở da. TNF-α là một cytokin xúc tác sinh ra
MMP-9, thông qua điều hòa sự bộc lộ gen MMP.
TNF-α làm tăng tổng hợp các yếu tố phiên mã
MMP-9 như protein hoạt hóa 1 (activating protein
1 - AP-1), yếu tố nhân kappa B (NF-κB) gắn chuỗi
DNA MMP-9, dẫn đến sự quá sản MMP-9. MMP-9
gây tổn thương da, ức chế quá trình tự sửa chữa
của mô.
1.4.3. Tế bào mast và giãn mạch
Chất trung gian như bFGF, yếu tố tăng trưởng
chuyển dạng beta (transforming growth factor -
TGF-β), TNF-α, tryptase và heparin giải phóng từ
tế bào mast vào mạch máu đóng vai trò chính
trong tân tạo mạch máu ở da. Tia UV, tia hồng
ngoại, nhiệt, kích thích tạo mạch máu mới, các
mạch này thường chưa trưởng thành và có tính
thấm cao. Từ đó, tế bào viêm thoát mạch, tạo
phản ứng viêm, giáng hóa và tái cấu trúc ECM da,
chất gây độc thoát ra từ mạch máu mới gây ra tổn
thương da và lão hóa da. Giãn mạch là một đặc
điểm của lão hóa da do ánh sáng, có liên quan
đến việc hình thành nếp nhăn.
'IʁN Ĉ¬N
66 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
Tia UV làm tăng nồng độ VEGF trong tế bào
mast. Ngoài ra, các chất trung gian giải phóng từ
tế bào mast hoạt hóa có thể kích thích tế bào gai
giải phóng ra số lượng lớn VEGF. VEGF làm tăng
mật độ mao mạch ở trung bì, khiến tế bào mast
di chuyển và tăng khoảng 35% tỷ lệ tế bào mast
ở nhú trung bì.
2. TRANEXAMIC ACID
2.1. Lịch sử, dược học của tranexamic
Tranexamic acid (trans-4-aminomethylcycl
ohexanecarboxylic acid - TXA) là một chất tổng
hợp, có cấu trúc tương tự lysin, gắn cạnh tranh với
lysin trên phân tử plasminogen. Tranexamic được
sử dụng như một thuốc cầm máu, có tác dụng
chống tiêu sợi huyết. TXA đã được phê duyệt để
điều trị rong kinh từ năm 1970 với liều 2 - 4,5 g/
ngày trong cả chu kì kinh. Chưa có tác dụng phụ
nghiêm trọng nào được báo cáo ở liều dùng lên
đến 4 - 4,5g/ngày. TXA dạng uống còn được dùng
để điều trị dự phòng phù mạch di truyền trong
8 - 34 tháng liên tục mà không gây ra tác dụng
phụ nghiêm trọng.
TXA được dùng để điều trị rám má báo cáo
lần đầu tiên vào năm 1979 bởi Nijo, phát hiện tình
cờ qua một bệnh nhân điều trị mày đay mạn tính
bằng TXA. Từ đó, có một vài báo cáo về điều trị
rám má bằng TXA, chủ yếu bằng liều thấp 250
mg, 2 lần mỗi ngày, bằng 1/6 liều chống chảy
máu. Đường bôi tại chỗ và tiêm trong da cũng
được ứng dụng rộng rãi trong điều trị rám má.
Năm 2016, Hiramoto nghiên cứu mô hình
TXA điều trị lão hóa da trên chuột về cơ chế phân
tử của TXA trong ức chế quá trình lão hóa da do
ánh sáng.
Chống chỉ định của TXA gồm có tình trạng
tăng đông máu, quá mẫn với TXA, Thận trọng
trên bệnh nhân có bệnh mạch vành, mạch não,
dùng chất tăng đông. Một số xét nghiệm nên
được thực hiện trước khi bắt đầu điều trị bằng
TXA như thời gian prothrombin (PT), thời gian
hoạt hóa thomboplastin từng phần (APTT). Tác
dụng phụ thường gặp chủ yếu trên đường tiêu
hóa (nôn, tiêu chảy, đau bụng), hạn chế bằng
cách uống sau ăn. Những tác dụng phụ khác như
thiểu kinh xảy ra sau khi dừng TXA; huyết khối,
nhồi máu cơ tim, tắc mạch phổi cũng được báo
cáo. Nguy cơ huyết khối thấp nhưng có thể tăng
lên khi có các yếu tố khác như tuổi cao, liều cao
kéo dài TXA, dùng đồng thời nhiều thuốc tăng
đông khác
TXA có thể dùng uống, bôi tại chỗ, tiêm trong
da (liều 4 mg/ml), hoặc kết hợp với lăn kim, laser
Nd-YAG, IPL. Nhiều công thức thuốc bôi đã được sử
dụng như nhũ tương 2%, kem 3%, dung dịch 5%.
2.2. Tác dụng TXA trong điều trị lão hóa da
TXA ức chế chuyển plasminogen thành
plasmin thông qua việc gắn cạnh tranh với lysin
trên plasminogen ở tế bào gai. Từ đó làm giảm
giải phóng arachidonic acid, giảm sản xuất
prostaglandin, giảm hoạt động tyrosinase và
giảm sinh tổng hợp melanin. TXA không có tác
động lên vùng da không tiếp xúc ánh sáng. Ngoài
ra TXA ức chế con đường Sc-uPA, làm giảm hiện
tượng gián đoạn màng đáy.
TXA còn được dùng như một chất điều hòa
hormon α-MSH, ACTH, β-endorphin (tiết ra từ tế bào
hướng vỏ thượng thận). TXA làm giảm urocortin 2
(chất làm tăng giải phóng histamin ở tế bào mast),
giảm methionin-enkephalin, tăng β-endorphin và
'IʁN Ĉ¬N
67Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
receptor β-endorphin. β-endorphin đóng vai trò
qua trọng trong đáp ứng miễn dịch, tăng cường
hệ miễn dịch cho da. β-endorphin còn làm giảm
sản suất chất P, một chất trung gian thần kinh làm
tăng sản xuất histamin. Từ đó, TXA giám tiếp làm
giảm nồng độ histamin, ngăn ngừa quá trình lão
hóa da do ánh sáng.
TXA làm tăng bộc lộ receptor- estrogen
trên tế bào mast. Receptor này có vai trò chống
viêm, kết hợp với 17β-estradiol ức chế giải phóng
histamin từ tế bào mast. Tuy nhiên, mối liên quan
giữa receptor- estrogen và tế bào mast còn chưa
rõ ràng và cần nghiên cứu thêm.
TXA ức chế hình thành plasmin, làm giảm
bFGF, giảm tân tạo mạch máu và giãn mạch.
TXA không tác động đến TGF-β, ROS, MMPs.
3. KẾT LUẬN
TXA có tiềm năng trở thành một thuốc chống
lão hóa da do ánh sáng. Thuốc dễ dung nạp, ít
tác dụng phụ, giá thành rẻ. Cần có thêm nhiều
nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn cơ chế chống lão
hóa da do ánh sáng của TXA.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Keiichi Hiramoto, et al (2018). Tranexamic
acid inhibits the plasma and non-irradiated skin
markers of
photoaging induced by long-term
UVA eye irradiation in female mice. Biomedicine &
Pharmacotherapy; 107: 54-58.
2. Petra Larsson, Eva Andersson et al (2005).
Ultraviolet A and B affect human melanocytes
and keratinocytes differently. A study of
oxidative alterations and apoptosis. Experimental
Dermatology; 14: 117-123.
3. Satoshi Amano, (2016). Characterization
and mechanisms of photoageing-related changes
in skin. Damages of basement membrane and
dermal structures. Experimental Dermatology; 25
(Suppl. 3): 14-19.
4. Yang-lin Hua, Wei Gao, et al (2016). The
Role of the Mast Cell in Skin Aging. J Dermatol Res
Ther; 2:035.
5. Shital Poojary, Khushboo Minni (2015).
Tranexamic Acid in Melasma: A Review.
Pigmentary Disorders; 2:12.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tranexamic_acid_trong_dieu_tri_lao_hoa_da.pdf