Trên phương diện phòng ngừa tội phạm
mà cụ thể là các biện pháp phòng ngừa tình
hình tội phạm, loại tội phạm, phòng ngừa tội
phạm cụ thể đã được các nhà khoa học nghiên
cứu, đưa ra quan điểm và thừa nhận. Phòng
ngừa tái phạm tội, về bản chất gồm sử dụng các
biện pháp xã hội và nhà nước tác động vào
nguyên nhân và điều kiện của tái phạm tội, các
biện pháp xã hội nhằm nâng cao đời sống vật
chất tinh thần cho con người được ưu tiên áp
dụng trong trường hợp này. Việc sử dụng các
biện pháp nhà nước, xã hội tác động vào các
hiện tượng và quá trình xã hội có khả năng làm
phát sinh, thúc đẩy các tội phạm xuất hiện,
trong đó có phòng ngừa tái phạm tội. Bên cạnh
đó, phòng ngừa tái phạm tội còn được thực
hiện giữa các yếu tố thuộc về hoàn cảnh khách
quan bên ngoài với các đặc điểm nhân thân
của cá nhân dẫn đến việc hình thành động cơ
tái phạm tội, kế hoạch hóa hành vi phạm tội
và thực hiện hành vi tái phạm tội trên thực tế,
đồng thời áp dụng các biện pháp nhà nước và
xã hội tác động vào những yếu tố khách quan
bên ngoài, các đặc điểm nhân thân người
phạm tội nhằm ngăn ngừa việc hình thành
động cơ, lên kế hoạch hoặc thực hiện hành vi
tái phạm tội.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trao đổi một số vấn đề về phòng ngừa tái phạm tội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
66
Phòng ngừa tái phạm tội thực chất là một
bộ phận, nội dung của hoạt động phòng ngừa
tội phạm nói chung. Dưới góc độ tội phạm học
phòng ngừa tái phạm tội là tổng hợp các biện
pháp có quan hệ tác động lẫn nhau mang tính
hệ thống, đồng bộ và phối kết hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, cá
nhân nhằm mục đích ngăn chặn, hạn chế, loại
trừ những nguyên nhân, điều kiện làm phát
sinh tội phạm, vừa kịp thời phát hiện và xử lý
tội phạm.
Phòng ngừa tái phạm tội là hoạt động mang
tính phức tạp. Việc xây dựng chương trình
phòng ngừa tái phạm tội phải dựa trên các đặc
điểm về chính trị, kinh tế - xã hội, truyền thống
của từng địa phương, ngành lĩnh vực cụ thể.
Phòng ngừa tái phạm tội trước tiên phải sử
dụng tổng hợp các biện pháp về kinh tế - xã
hội, giáo dục, tổ chức và pháp luật... để xóa bỏ
các yếu tố có thể trở thành nguyên nhân, điều
kiện phát sinh, phát triển tội phạm, ngăn ngừa
không để tội phạm xảy ra. Đồng thời phải sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan
chuyên môn nhằm vào những tội phạm cụ thể
và các hành vi nguy hiểm cho xã hội của những
con người cụ thể cần phải phòng ngừa, những
đối tượng cụ thể cần phải tập trung phòng
ngừa. Đó là những người đã có hành vi vi
phạm pháp luật hình sự chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự, có điều kiện, khả năng
hoạt động phạm tội, những người có quá khứ
phạm tội, người đang chấp hành hình phạt tù
chưa thật sự tiến bộ, còn có điều kiện khả năng
tái phạm... Vì vậy, phòng ngừa tái phạm tội là
việc áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác
nhau như biện pháp nhà nước, biện pháp xã
hội, biện pháp nghiệp vụ, hướng vào việc thủ
tiêu nguyên nhân và điều kiện tái phạm tội
nhằm từng bước ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi
tái phạm tội trong xã hội.
1. Vấn đề phòng ngừa tội phạm theo
quan điểm chủ nghĩa Mác Lê Nin
Bản chất giai cấp của tội phạm có tính lịch
sử và tính giai cấp. Tội phạm không phải là
hiện tượng xã hội sinh ra từ khi có loài người
mà nó là sản phẩm xã hội phát triển đến một
TRAO ĐỔI MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÒNG NGỪA TÁI PHẠM TỘI
Lê Tuấn Anh1
1 Thạc sỹ, Nghiên cứu sinh khoá 7, Học viện Khoa học Xã hội
Tóm tắt: Phòng ngừa tái phạm tội là hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện làm
phát sinh tội phạm và kịp thời phát hiện xử lý tội phạm. Phòng ngừa tái phạm tội là hoạt động
mang tính phức tạp và cần thiết phải được tiến hành dựa trên những yếu tố cấu thành nhất định
nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Bài viết này tiếp cận phòng ngừa tái phạm tội dưới góc độ trao
đổi một số vấn đề về phòng ngừa tái phạm tội, từ đó xây dựng những biện pháp phòng ngừa tái
phạm tội.
Từ khóa: Tái phạm tội; Phòng ngừa tái phạm tội; Phòng ngừa tội phạm
Nhận bài: 28/10/2016; Hoàn thành biên tập: 25/11/2016; Duyệt đăng: 20/12/2016
Exchange some issues preventing recidivism
Abstract: Preventing recidivism is operational impact on the causes and conditions giving
rise to crime detection and timely treatment of crime. Preventing recidivism are complex
activities and need to be conducted on the basis of certain elements in order to achieve its
objectives. This article approaches recidivism prevention perspective exchanged some problems
preventing recidivism, thus building measures to prevent future crime.
Keywords: Reoffending; Preventing Reoffending; Crime Prevention
Received: Oct 28th, 2016; Editingcompleted: Nov 25th, 2016; Accepted for publication:
Dec 20 th, 2016.
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
67
giai đoạn nhất định và cũng chỉ tồn tại khi xã
hội còn giai cấp. Chính trong cuộc đấu tranh
để duy trì điều kiện tồn tại và địa vị thống trị
của mình mà giai cấp thống trị cần phải lấy
danh nghĩa Nhà nước tuyên bố những hành vi
nguy hại cho lợi ích của giai cấp mình là tội
phạm và dùng những biện pháp cưỡng chế về
hình phạt để đối phó với những hành vi đó.
Hành vi bị coi là tội phạm trong xã hội chính là
xâm phạm tới lợi ích của giai cấp thống trị
trong xã hội. Khi nghiên cứu về nguyên nhân
cơ bản làm phát sinh tội phạm, các yếu tố thất
nghiệp, bất bình đẳng về xã hội và chủng tộc,
sự không đảm bảo vật chất vốn gắn liền với
chủ nghĩa tư bản chính là nguồn gốc phát sinh
tội phạm.
Trong một thời gian dài, xã hội loài người
đã từng tồn tại quan điểm cho rằng, nếu Nhà
nước xây dựng pháp luật thật nghiêm khắc,
Toà án sử dụng hình phạt thật rộng rãi thì tội
phạm sẽ chấm dứt. Tuy nhiên thực tế lịch sử
đã chứng minh điều đó ngược lại, những hình
phạt đau đớn xúc phạm nghiêm trọng đến thể
xác của con người như trảm, thiêu, chặt đứt
tay, chân... không làm giảm được tội phạm,
mà nó còn ảnh hưởng một cách bất lợi trong
nhận thức xã hội. Quan điểm về phòng ngừa
tội phạm được thể hiện ở điểm xuất phát
trong phòng ngừa tội phạm là phải tổ chức lại
xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội vì con
người, giáo dục con người mới trong xã hội,
giải phóng con người ra khỏi các thói xấu của
những hình thái kinh tế - xã hội cũ thì sẽ giải
phóng tận gốc rễ nguyên nhân làm phát sinh
tội phạm. Không thể loại trừ tội phạm bằng
con đường cải cách những mặt riêng rẽ của
đời sống xã hội, mà chỉ bằng con đường thay
đổi toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội, cải
tạo những quan hệ xã hội. Về vấn đề này,
C.Mác nhấn mạnh rằng “người làm luật khôn
là hạn chế những gì cho phép các thành viên
của một giai cấp vượt qua những trở ngại để
vươn lên một trình độ pháp luật cao hơn.
Hơn thế nữa, người làm luật phải tạo ra cho
chính giai cấp này một khả năng hiện thực sử
dụng các quyền của mình”2 . Đó chính là nội
dung cơ bản của vấn đề phòng ngừa tội
phạm.
Có thể khái quát quan điểm về vấn đề này
như sau:
Trước hết, muốn phòng ngừa tội phạm
phải tăng cường công tác giáo dục và nâng
cao đời sống vật chất, văn hoá cho nhân dân,
tạo điều kiện cho việc thủ tiêu tội phạm. Đây
là một quá trình phức tạp, lâu dài, gay go và
đầy gian khổ. Phòng ngừa đối với tội phạm
phải được thực hiện bằng việc nâng cao phúc
lợi vật chất, nâng cao tính tích cực của quẩn
chúng; hình thành những con người được đào
tạo và phát triển toàn diện.
Phòng ngừa xã hội với nhiệm vụ là loại
trừ điều kiện dẫn đến việc thực hiện tội phạm,
loại trừ những ảnh hưởng xấu của môi trường
xã hội tác động đến con người, đó là con
đường thực tế để đạt được mục đích loại trừ
tận gốc tình trạng phạm tội và không thể thủ
tiêu, xoá bỏ nguyên nhân gốc rễ của tình
trạng phạm tội bằng sự tác động tuyệt đối của
hình phạt.
Công tác phòng ngừa xã hội phải được
thực hiện bởi các biện pháp tổng thể của các
chủ thể tham gia phòng ngừa tình trạng tội
phạm ở nhiều cơ quan, nhiều ngành, của tất
cả quần chúng nhân dân và không chỉ bó hẹp
trong phạm vi các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Cơ sở của việc giải quyết vấn đề loại trừ tội
phạm ra khỏi đời sống xã hội dựa trên luận
điểm“quy luật biến mất của tội phạm liên quan
chặt chẽ với việc thực hiện tốt các chính sách
xã hội, các bảo đảm xã hội, kinh tế, tổ chức và
giáo dục văn hoá xã hội”. Với luận điểm này,
tội phạm sẽ biến mất trong xã hội khi của cải
vật chất trong xã hội dồi dào, con người có thể
sống theo nhu cầu mà xã hội mang lại.
Như vậy, phòng ngừa tái phạm tội về cơ
sở lý luận và thực tiễn, hoàn toàn có thể thực
2 C. Mác – Anghen, Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 1, Matxcơva 1954, tr.131 (tiếng Nga)
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
68
hiện nếu xác định đúng nguyên nhân, điều
kiện tác động và thúc đẩy kết quả xảy ra tái
phạm tội trên thực tế.
2. Vấn đề phòng ngừa tội phạm trong
khoa học Tội phạm học Việt Nam
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm được các nhà khoa học lý giải dựa trên
những hiện tượng và tiến trình xã hội còn
nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể
lại được tiếp cận thông qua cơ chế tâm lý xã
hội của hành vi phạm tội. PGS.TS Phạm Văn
Tỉnh đã xây dựng mô hình S – X – R dựa vào
cơ chế hành vi của con người trong tâm lý học
và mô hình này được thừa nhận trong khoa học
tội phạm học hiện nay tại Việt Nam, trong đó
S là các yếu tố môi trường bên ngoài (kích
thích khách thể), X là con người với những
đặc điểm nhân thân đặc trưng (kích thước,
phương tiện) và R là sự trả lời các kích thích
bao gồm ba khâu: động cơ hóa hành vi, kế
hoạch hóa hành vi và hiện thực hóa hành vi
theo mô hình cơ chế tâm lý – xã hội của hành
vi phạm tội cụ thể như sau:
Với sơ đồ này có thể lý giải nguyên nhân
và điều kiện của tội phạm cụ thể đó là sự
tương tác giữa các yếu tố thuộc về cá nhân
con người với môi trường sống, bao gồm tình
huống khách quan. Với cách tiếp cận này,
việc xác định các đặc điểm thuộc về nhân
thân con người cụ thể và sự tương tác giữa
các đặc điểm nhân thân này với môi trường
sống của con người giữ vai trò quan trọng
trong việc xác định nguyên nhân và điều kiện
của tội phạm cụ thể chứ không phải là xác
định sự tương tác giữa những hiện tượng và
quá trình xã hội như khi lý giải nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm.
Bên cạnh đó, lý luận phòng ngừa tái
phạm tội đã chỉ ra rằng phòng ngừa tái phạm
tội có thể thực hiện được dưới hai mức độ
phòng ngừa tình hình tội phạm chung và
phòng ngừa tội phạm cụ thể. Liên quan đến
vấn đề này, GS.TS Võ Khánh Vinh đã cho
rằng “các biện pháp phòng ngừa chung
hướng đến việc khắc phục hoặc làm mất hiệu
lực các nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm nói chung (trong cả nước và
trong một địa bàn). Việc phòng ngừa cá nhân
hướng đến việc khắc phục hoặc phong tỏa
các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
cụ thể”3.
Đối với những vấn đề phòng ngừa tái phạm
tội trên địa bàn cụ thể, với các đặc trưng, các
nguyên nhân và điều kiện chung phổ biến trong
cả nước còn có những nguyên nhân và điều
kiện xuất phát chính trong nội tại xã hội của
khu vực, địa phương, bao gồm những nguyên
nhân khách quan bên ngoài tác động và những
nguyên nhân chủ quan phát sinh trong quá
trình điều hành, quản lý xã hội. Trên cơ sở
nhận thức các nguyên nhân và điều kiện làm
phát sinh tội phạm trên địa bàn, các chủ thể
phòng ngừa tội phạm sẽ thiết kế nhưng biện
pháp phòng ngừa bằng cách tác động nhằm hạn
chế tiến tới triệt tiêu những nguyên nhân và
3 Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề Tội phạm học Việt Nam, sách do Bộ Công an phát hành, Hà Nội, tr.191
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
69
điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm nói
chung và nguyên nhân và điều kiện của tái
phạm tội nói riêng.
Phòng ngừa tái phạm tội trên một địa bàn
không chỉ dựa vào tình hình tội phạm và phân
tích những nguyên nhân và điều kiện của tái
phạm tội mà còn phải dựa vào thực trạng
phòng ngừa tái phạm tội trên địa bàn.
Thực trạng này bao gồm thực trạng về hệ
thống lý luận trang bị cho hoạt động phòng
ngừa; thực trạng cơ sở chính trị - pháp luật;
thực trạng tổ chức, phối hợp lực lượng, các tổ
chức phòng ngừa; thực trạng giáo dục, cải tạo
phạm nhân và quản lý tại xã, phường, trị trấn
dân cư; thực trạng triển khai, áp dụng các biện
pháp phòng ngừa trong thực tế và trong những
năm gần đây. Sau khi đánh giá thực trạng
phòng ngừa, các chủ thể phòng ngừa sẽ dự báo
tình hình trong tương lai, từ đó kiến nghị các
biện pháp nhằm tăng cường các hoạt động
phòng ngừa, nâng cao hiệu quả của hoạt động
phòng ngừa tái phạm tội trong thời gian tới.
Khái niệm và bản chất phòng ngừa tái
phạm tội vừa nêu ở trên cho thấy vấn đề quan
trọng và mang tính quyết định đến phòng ngừa
tái phạm tội là xác định nguyên nhân và điều
kiện của tái phạm tội.
Nguyên nhân và điều kiện của tái phạm tội
được nhận thức ở hai cấp độ:
Thứ nhất, xác định nguyên nhân và điều
kiện làm phát sinh tình hình tội phạm nói
chung, đó là sự tác động qua lại giữa các hiện
tượng và quá trình xã hội làm phát sinh hoặc
thúc đẩy sự xuất hiện của tình hình tội phạm.
Thứ hai, xác định nguyên nhân và điều kiện
của tội phạm cụ thể (tái phạm tội), đó là sự
tương tác giữa các yếu tố về cá nhân người
phạm tội với những tình huống khách quan bên
ngoài nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện
của tội phạm cụ thể theo cơ chế hành vi phạm
tội với mô hình S-X-R (như trên đã nêu)
Do nhiều nguyên nhân và điều kiện khác
nhau, tội phạm nói chung và tái phạm tội nói
riêng đã gây ra nhiều khó khăn trong công cuộc
phát triển kinh tế xã hội. Bản thân tính nguy
hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả thiệt hại
gây ra và tình hình biến động phức tạp của tái
phạm tội trong thời gian qua đã làm cho hoạt
động phòng ngừa tái phạm tội trở thành yêu
cầu thiết yếu trong công cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm đảm bảo an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự an toàn xã hội, đồng thời làm rõ tình
hình, cơ cấu, tính chất, diễn biến, đặc điểm,
nguyên nhân và điều kiện của phòng ngừa tái
phạm tội tại từng thời điểm trong những giai
đoạn nhất định ở một ngành, lĩnh vực, một địa
phương hoặc trên phạm vi toàn quốc. Trên cơ
sở đó bằng nhiều biện pháp, phương tiện khác
nhau phát hiện nguyên nhân, điều kiện của
phòng ngừa tái phạm tội để làm hạn chế và làm
mất tác dụng của nó.
Biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung,
tái phạm tội nói riêng có thể khái quát lại ở hai
nhóm cơ bản là: biện pháp phòng ngừa xã hội
(phòng ngừa chung) và biện pháp phòng ngừa
riêng (phòng ngừa nghiệp vụ; phòng ngừa
chuyên môn). Trong đó, biện pháp phòng ngừa
xã hội bao gồm: biện pháp kinh tế - xã hội;
biện pháp tổ chức, quản lý xã hội; biện pháp
chính trị, tư tưởng, văn hóa; biện pháp giáo
dục, đào tạo; biện pháp pháp luật. Trong các
biện pháp phòng ngừa riêng phải kể đến là:
biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ của lực lượng
công an nhân dân (CAND) như: điều tra cơ
bản; sưu tra; xây dựng, sử dụng mạng lưới bí
mật; đấu tranh chuyên án; biện pháp pháp luật,
giáo dục, cải tạo phạm nhân; biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, cộng đồng dân cư
do lực lượng CAND tiến hành; những biện
pháp mang tính chuyên môn, nghề nghiệp gắn
liền với chắc năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân, Tòa án nhân dân.
Trên phương diện phòng ngừa tội phạm
mà cụ thể là các biện pháp phòng ngừa tình
hình tội phạm, loại tội phạm, phòng ngừa tội
phạm cụ thể đã được các nhà khoa học nghiên
cứu, đưa ra quan điểm và thừa nhận. Phòng
ngừa tái phạm tội, về bản chất gồm sử dụng các
biện pháp xã hội và nhà nước tác động vào
nguyên nhân và điều kiện của tái phạm tội, các
biện pháp xã hội nhằm nâng cao đời sống vật
chất tinh thần cho con người được ưu tiên áp
70
dụng trong trường hợp này. Việc sử dụng các
biện pháp nhà nước, xã hội tác động vào các
hiện tượng và quá trình xã hội có khả năng làm
phát sinh, thúc đẩy các tội phạm xuất hiện,
trong đó có phòng ngừa tái phạm tội. Bên cạnh
đó, phòng ngừa tái phạm tội còn được thực
hiện giữa các yếu tố thuộc về hoàn cảnh khách
quan bên ngoài với các đặc điểm nhân thân
của cá nhân dẫn đến việc hình thành động cơ
tái phạm tội, kế hoạch hóa hành vi phạm tội
và thực hiện hành vi tái phạm tội trên thực tế,
đồng thời áp dụng các biện pháp nhà nước và
xã hội tác động vào những yếu tố khách quan
bên ngoài, các đặc điểm nhân thân người
phạm tội nhằm ngăn ngừa việc hình thành
động cơ, lên kế hoạch hoặc thực hiện hành vi
tái phạm tội./.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Mác - Ăng-ghen (1978), Toàn tập (I),
Nxb Sự thật, Hà Nội
2. V.I.Lê-Nin (1970), Toàn tập, (30).Nxb
Sự thật, Hà Nội
3. C. Mác – Anghen, Toàn tập, xuất bản lần
thứ 2, tập 1, Matxcơva 1954, (tiếng Nga)
4. Từ điển Triết học (1975), NXB Tiến Bộ
Matxcơva
5. GS.TS Võ Khánh Vinh (1999), Giáo trình
Tội phạm học, Đại học Huế, Nxb Giáo dục
6. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật
(1995), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội
7. Trường đại học Luật Hà Nội (2000),
Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội
8. Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề
Tội phạm học Việt Nam, sách do Bộ Công an
phát hành, Hà Nội
9. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học
hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội
Trong Bộ luật dân sự 2015 có đề cập đến
thuật ngữ “nắm giữ” trong biện pháp cầm cố
và “chiếm giữ” trong biện pháp cầm giữ tài
sản, và nếu rơi vào một trong các trường hợp
này thì hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba
sẽ phát sinh hiệu lực mà không cần đăng ký
giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, tại sao cầm cố
lại dùng thuật ngữ nắm giữ, trong khi cầm giữ
lại dùng thuật ngữ chiếm giữ, hai thuật ngữ này
có khác nhau hay không và khác nhau như thế
nào. Thiết nghĩ các văn bản về giao dịch bảo
đảm nên có bổ sung khái niệm của các thuật
ngữ này khi sửa đổi.
Về trường hợp đặt cọc, ký cược, ký quỹ:
Nội dung của các biện pháp này theo Bộ luật
dân sự 2015 vẫn giữ nguyên như quy định của
Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên xét dưới góc
độ là đối tượng của hoạt động đăng ký, thì đây
lại thuộc trường hợp không cần phải đăng ký
giao dịch bảo đảm. Bởi vì bản chất của các
biện pháp này là một bên giao cho bên kia
một khoản tiền hoặc kim khí, đá quý, hoặc
vật, giấy tờ có giá để bảo đảm thực hiện một
nghĩa vụ, như vậy, kể từ thời điểm bên kia
(bên nhận đặt cọc, bên thuê, tổ chức tín dụng)
nhận tài sản đặt cọc, ký cược, ký quỹ đồng
nghĩa với việc nắm giữ tài sản, là đã phát sinh
hiệu lực đối kháng đối với bên thứ ba. Tuy
nhiên, trong Bộ luật Dân sự năm 2015 lại
không đề cập đến hiệu lực đối kháng của các
biện pháp này phát sinh từ thời điểm nào bằng
một điều luật cụ thể. Vì vậy, vấn đề này cần
được bổ sung trong các văn bản dưới luật về
giao dịch bảo đảm./.
Danh mục tài liệu tham khảo
Bộ luật Dân sự năm 2015.
Hồ Quang Huy (2010), Đăng ký và cung
cấp thông tin về giao dịch bảo đảm ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp”, đề tài
nghiên cứu cấp cơ sở của Cục đăng ký quốc
gia giao dịch bảo đảm.
Nguyễn Quang Hương Trà (2016), Một số
điểm mới của chế định bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ của Bộ luật dân sự 2015.
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN...
(Tiếp theo trang 65)
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trao_doi_mot_so_van_de_ve_phong_ngua_tai_pham_toi.pdf