Điều khoản cho phép loại trừ mọi trách
nhiệm pháp lý của thương nhân ngay cả
trong trường hợp gây tổn hại sức khoẻ và
tính mạng người tiêu dùng;
Điều khoản cho phép loại trừ quyền
khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng;
Điều khoản cho phép thương nhân có
độc quyền trong việc giải thích các điều
khoản của hợp đồng.
Các loại điều khoản khác của Điều 16
chỉ nên đưa vào danh mục suy đoán là bất
công để cho phép thương nhân được quyền
chứng minh tính hữu ích và công bằng của
nó trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Tóm lại, sự kết hợp giữa quy định chung
có vai trò định nghĩa thế nào là điều khoản
bất công, với danh mục các điều khoản
đương nhiên vô hiệu (a blacklist) và điều
khoản được suy đoán là vô hiệu (a greylist)
sẽ tạo nên cơ chế ba tầng để kiểm soát tính
công bằng của điều khoản mẫu. Ưu thế của
cơ chế này sẽ cho phép kết hợp ưu điểm của
quy định chung định nghĩa điều khoản bất
công là tính linh hoạt và đồng thời giảm thiểu
tính bất định của nó thông qua danh mục các
điều khoản bị suy đoán là bất công
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 303 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ công bằng thủ tục đến công bằng nội dung: Thành tựu và thách thức của chế định kiểm soát điều khoản mẫu trong pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
15Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Từ công bằng Thủ Tục đến công bằng nội dung:
Thành Tựu và Thách Thức của chế định kiểm soáT
điều khoản mẫu Trong pháp luậT việT nam
Đỗ Giang Nam*
* TS. Bộ môn Luật Dân sự - Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Hợp đồng theo mẫu, điều
kiện giao dịch chung, điều khoản bất
công, công bằng thủ tục, công bằng
nội dung.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/02/2020
Biên tập : 07/03/2020
Duyệt bài : 11/03/2020
Article Infomation:
Keywords: Standard contract forms,
general conditions, unfair terms,
procedural fairness, substantive
fairness.
Article History:
Received : 26 Feb. 2020
Edited : 07 Mar. 2020
Approved : 11 Mar. 2020
Tóm tắt:
Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 và Bộ luật Dân sự năm 2015
đã đưa ra các cơ chế kiểm soát hình thức và nội dung của điều khoản
mẫu trong hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung với chủ
đích là “bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên”. Mặc dù vậy, các cơ chế
kiểm soát này một mặt chưa thực sự phát huy hiệu quả, mặt khác luôn
hàm chứa rủi ro là sự can thiệp thái quá của Nhà nước vào quan hệ
hợp đồng dẫn đến kìm hãm, thậm chí triệt tiêu những giá trị nền tảng
của quá trình cải cách pháp luật hướng tới tự do hợp đồng ở Việt Nam.
Vì vậy, bài viết đề xuất tiếp nhận học thuyết công bằng để luận giải
không chỉ nhu cầu kiểm soát điều khoản mẫu mà còn cho phép đánh
giá mức độ cần thiết và tương xứng của các cơ chế can thiệp vào
quyền tự do hợp đồng để đảm bảo sự công bằng (bao gồm công bằng
thủ tục và công bằng nội dung) trong quan hệ hợp đồng.
Abstract:
The Consumer Protection Law of 2010 and the Civil Code of 2015
provide legal mechanisms for controlling the form and substance of
the standard terms in standard contract form and general conditions
with an aim of “ensuring the equality between contracting parties”.
However, the current mechanisms, on one hand are not really effective
and on the other hand, there is always a risk that the state’s excessive
interference in the contractual relationship, which leads to inhibiting
or even eliminating the fundamental values of the legal reform process
towards the freedom of contract in Vietnam. Therefore, this article is
proposed to adopt the theory of fairness not only to justify the
necessity for controlling standard terms, but also to assess the
adequacy and proportionality of the mechanisms that interfere with
contractual freedom to ensure the fairness (including procedural and
substantive fairness) in contracting relations.
Số 6(406) - T3/202016 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Nguyên tắc tự do hợp đồng và nhu
cầu kiểm soát tính công bằng của điều
khoản mẫu
1.1. Tự do hợp đồng
Với tư cách là nguyên tắc nền tảng của
pháp luật hợp đồng, tự do hợp đồng được thể
hiện dưới hai khía cạnh. Một mặt, các bên
được quyền tự mình mưu cầu lợi ích từ quan
hệ hợp đồng thông qua việc (i) tự do quyết
định có giao kết hay không giao kết hợp
đồng, (ii) tự do quyết định giao kết hợp đồng
với bất kỳ chủ thể nào và (iii) tự do thoả
thuận thiết kế các điều khoản ràng buộc các
bên. Mặt khác, tự do hợp đồng còn được
nhấn mạnh khía cạnh loại trừ sự can thiệp
của Nhà nước vào nội dung của hợp đồng.
Về nguyên tắc, khi xem xét liệu hợp đồng có
hiệu lực giữa các bên hay không, Toà án sẽ
đánh giá quá trình thoả thuận liệu hai bên đã
thực sự đạt được sự thống nhất ý chí hay
chưa, thay vì việc đánh giá xem liệu các kết
quả của sự thoả thuận đó có công bằng và
hợp lý hay không1.
Lý thuyết luật hợp đồng cổ điển phương
Tây được xây dựng dựa trên hai giả thiết cơ
bản phản ánh thực tiễn giao kết hợp đồng
vào thế kỷ thứ 192. Giả thiết thứ nhất là việc
các bên tham gia quan hệ hợp đồng được cho
là có năng lực đàm phán và ký kết hợp đồng
ngang bằng nhau (“equal bargaining power”
assumption). Ngoại trừ một số trường hợp
liên quan đến học thuyết bảo vệ người chưa
thành niên, hoặc người có năng lực hành vi
dân sự hạn chế... luật hợp đồng về nguyên
tắc phản ánh ý niệm cơ bản của pháp luật
dân sự là các cá nhân bình quyền dân sự có
địa vị pháp lý ngang nhau. Giả thiết thứ hai
là việc xem xét quá trình xác lập hợp đồng
là quá trình đàm phán, thương lượng; trong
đó, các bên có cơ hội mặc cả với nhau về
từng điều khoản hợp đồng (“individually
negotiated term” assumption). Dựa trên hai
giả thiết đó, luật hợp đồng cổ điển cho rằng,
tự do hợp đồng sẽ tự động dẫn tới công bằng
trong nội dung hợp đồng: một khi các bên
tham gia có năng lực đàm phán ngang bằng
nhau đã thực sự thương lượng, thoả hiệp với
nhau về từng điều khoản của hợp đồng, thì
kết quả của sự thoả thuận đó phải được suy
đoán là kết quả công bằng cho cả hai bên.
Bởi lẽ, các chủ thể tư, hơn ai hết, là người
hiểu rõ nhất nhu cầu và lợi ích của bản thân,
một hợp đồng công bằng là hợp đồng, theo
đó các bên đã tự do thoả hiệp và thoả thuận
-“qui dit contratuel, dit juste”3.
Nhu cầu kiểm soát tính công bằng của
điều khoản mẫu
Thách thức cơ bản đối với lý thuyết cổ
điển về tự do hợp đồng là thực tiễn giao kết
hợp đồng trong xã hội hiện nay đã có sự thay
đổi đáng kể so với mô hình trước đây. Quá
trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã
thúc đẩy việc sử dụng các điều khoản mẫu
trong các hợp đồng theo mẫu và điều kiện
giao dịch chung do một bên soạn thảo4, bên
đối tác chỉ có thể thể hiện ý chí bằng việc
chấp nhận hoặc từ chối giao kết thay vì
thương lượng, thoả hiệp từng điều khoản của
1 See P.S Atiyah, An Introduction to the Law of Contract, 5th edn (Clarendon Press, Oxford, 1995), 282.
2 M Chen-Wishart, ‘Regulating Unfair Terms’ in L Gullifer and S Vogenauer (eds), English and European
Perspectives on Contract and Commercial Law Essays in Honour of Hugh Beale (Hart Publishing Oxford
2014) 107.
3 Châm ngôn này được cho rằng gắn liền với Fouillée, La science sociale contemporaine (1880), 410 theo
Abegg, Andreas, and Annemarie Thatcher, ‘Review Essay–Freedom of Contract in the 19th Century:
Mythology and the Silence of the Sources–Sibylle Hofer’s Freiheit ohne Grenzen? Privatrechtstheoretische
Diskussionen im 19 Jahrhundert’ (2004) 5.1 German Law Journal 5.
4 Hiện nay, trong pháp luật Việt Nam tồn tại các quy định riêng rẽ về hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao
dịch chung. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng mặc dù có sự khác biệt giữa khái niệm Hợp đồng theo mẫu và
17Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
hợp đồng5. Trong xã hội Việt Nam ngày nay,
điều kiện giao dịch chung đã phổ biến đến
mức một cá nhân hầu như không thể tham
gia đời sống dân sự bằng cách giao kết các
hợp đồng trong lĩnh vực ngân hàng, bảo
hiểm, dịch vụ vận tải, viễn thông, truyền
hình... nếu không chấp nhận các điều kiện
giao dịch chung do một bên thương nhân
soạn sẵn.
Sự phổ biến của các điều khoản mẫu
trong hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao
dịch chung thực tế đã làm biến đổi căn bản
các giả thiết nền tảng của luật hợp đồng cổ
điển. Thứ nhất, trái với giả thiết quá trình
xác lập hợp đồng là quá trình đàm phán,
thương lượng; trong đó, các bên có cơ hội
mặc cả với nhau về từng điều khoản hợp
đồng; đặc trưng của điều khoản mẫu là nó
được đơn phương soạn thảo bởi một bên,
bên đối tác không thể có ảnh hưởng, tác
động đáng kể đến nội dung của hợp đồng.
Thứ hai, điều khoản mẫu được sử dụng chủ
yếu trong quan hệ tiêu dùng; trong đó, tồn
tại sự bất cân xứng về năng lực đàm phán và
ký kết hợp đồng giữa thương nhân và bên
yếu thế hơn là người tiêu dùng. Do đó,
chúng ta có quyền hoài nghi rằng, liệu châm
ngôn ‘qui dit contratuel, dit juste’ của luật
hợp đồng cổ điển có còn hợp lý và phù hợp
đối với thực tiễn giao kết hợp đồng hiện nay
hay không. Trên thực tế, không khó để nhận
ra, ngày càng phổ biến các hợp đồng theo
mẫu và điều kiện giao dịch chung chứa đựng
các điều khoản mẫu bất công thái quá với
người tiêu dùng.
Xuất phát từ lý do trên, nhiều hệ thống
tài phán trên thế giới, trong đó có Việt Nam,
đã xây dựng những cơ chế pháp lý để kiểm
soát điều khoản mẫu. Chẳng hạn, kế thừa các
cơ chế kiểm soát hình thức và nội dung điều
kiện giao dịch chung trong Luật Bảo vệ
người tiêu dùng năm 2010 (Luật BVNTD
2010), Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS
2015) đã lần đầu tiên ghi nhận quy định
chung tại Điều 406 mang tính nguyên lý
rằng “Điều kiện giao dịch chung phải bảo
đảm sự bình đẳng giữa các bên”. Đây là
tuyên ngôn pháp lý hết sức quan trọng nhấn
mạnh chủ đích lập pháp rõ ràng của BLDS
2015 là Bộ luật này ghi nhận và sẽ đảm bảo
Điều kiện giao dịch chung (trong đó các điều kiện giao dịch chung, thông thường không nằm trong bản hợp
đồng, nó có thể được quy định trong các văn bản riêng miễn là được bên cung cấp dịch vụ công bố công
khai), nhưng, điều quan trọng hơn cần nhấn mạnh là cả hai khái niệm này đều cùng chỉ đến một hiện tượng
khi mà các điều khoản mẫu do một bên đơn phương soạn thảo hoặc công bố và được sử dụng trên thực tế
với đối tác mà không cần có sự thoả thuận, mặc cả về nội dung của điều khoản mẫu đó. Bình luận số 2 của
Điều 2.1.19 của Bộ nguyên tắc UNIDROIT về Hợp đồng Thương mại quốc tế đã miêu tả một cách chính
xác đặc trưng đó như sau: “Yếu tố quyết định không phải là hình thức trong đó các điều khoản này được
trình bày (ví dụ: các điều khoản này được chứa đựng trong văn bản riêng hay trong chính hợp đồng; các
điều khoản này được ban hành dưới dạng bản in sẵn hay chỉ được lưu trữ online), cũng không phải người
soạn thảo các điều khoản mẫu (chính là một trong các bên, hay hiệp hội thương mại hay nghề nghiệp),
hay số lượng (bao gồm toàn bộ các điều khoản liên quan đến tất cả các khía cạnh liên quan của hợp đồng
hay chỉ một hay hai điều khoản, chẳng hạn điều khoản miễn trừ trách nhiệm hoặc điều khoản trọng tài).
Yếu tố quyết định là việc thực tế các điều khoản này đã được soạn sẵn để sử dụng chung, nhiều lần lặp đi
lặp lại và trong trường hợp đó, được sử dụng thực sự bởi một bên không dựa trên sự thương lượng với phía
bên kia”. Xem nguyên bản tiếng Anh tại
principles-2010/415-chapter-2-formation-and-authority-of-agents-section-1-formation/897-article-2-1-19-
contracting-under-standard-terms, truy cập 14.2.2020.
5 Về lịch sử ra đời và phát triển của điều khoản mẫu, xem Friedrich Kessler, ‘Contracts of Adhesion-Some
Thoughts About Freedom of Contract’ (1943) 43 Colum. L. Rev. 630; Nguyễn Như Phát, Một số vấn đề lý
luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
1289&CateID=80, truy cập ngày 14/2/2020.
Số 6(406) - T3/202018 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
thi hành các điều kiện giao dịch chung cho
đến chừng nào các điều kiện giao dịch chung
bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên.
Tuy nhiên, với tư cách là quy tắc pháp lý,
quy định chung này cũng tạo ra các thách
thức lớn về giải thích pháp luật trong việc
đánh giá thực tế khi nào điều kiện giao dịch
chung đã thoả mãn yêu cầu “bảo đảm sự bình
đẳng giữa các bên”? Điều này đặc biệt quan
trọng trong bối cảnh Việt Nam, khi mà chúng
ta có thể phải đối diện với việc giải thích quá
rộng quy phạm này, dẫn đến việc can thiệp
thái quá vào quyền tự do hợp đồng của các
bên. Hoặc ngược lại, chúng ta sẽ vấp phải vấn
đề giải thích quá hẹp quy phạm đến mức làm
suy giảm hiệu quả của cơ chế kiểm soát tính
công bằng của điều kiện giao dịch chung.
Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên,
chúng tôi đề xuất áp dụng cách tiếp cận học
thuyết công bằng (fairness-based approach)
để luận giải nhu cầu kiểm soát điều kiện giao
dịch chung và đánh giá tính tương xứng và
hợp lý của các cơ chế kiểm soát6. Học thuyết
này nhấn mạnh triết lý của việc kiểm soát
điều kiện giao dịch chung là để hướng tới
đảm bảo tính công bằng trong quan hệ hợp
đồng, trong đó bao gồm cả công bằng thủ tục
(procedural fairness) và công bằng nội dung
(substantive fairness)7.
Công bằng nội dung quan tâm trực tiếp
đến các nội dung của các điều khoản của hợp
đồng, nó đặt câu hỏi liệu các quyền và nghĩa
vụ phát sinh từ hợp đồng có thể hiện sự bất
cân xứng thái quá, bất lợi cho bên yếu thế
trong quan hệ hợp đồng hay không8.
Công bằng thủ tục, trái lại không quan
tâm trực tiếp đến nội dung của hợp đồng mà
quan tâm đến hoàn cảnh, quy trình, thủ tục
các bên giao kết hợp đồng; nó đặt câu hỏi
liệu các bên có được trao cơ hội để biết, để
hiểu và để đánh giá được hậu quả pháp lý
trước khi thể hiện ý chí giao kết hợp đồng
hay không9.
Căn cứ vào mức độ tác động của Nhà
nước vào quan hệ hợp đồng, việc đảm bảo
công bằng thủ tục chỉ đòi hỏi tác động ở mức
độ thấp hơn thông qua áp đặt các nghĩa vụ
liên quan đến thông tin giữa các bên; trong
khi đó, việc đảm bảo công bằng nội dung đòi
hỏi tác động ở mức độ cao hơn, đòi hỏi xem
xét trực tiếp nội dung của các điều khoản của
hợp đồng. Bởi lẽ sự can thiệp trực tiếp của
Nhà nước vào đánh giá nội dung hợp đồng
luôn hàm chứa rủi ro của sự can thiệp thái
quá là Nhà nước “viết hợp đồng thay cho các
bên”, nên các giải pháp hướng tới công bằng
thủ tục sẽ được ưu tiên áp dụng trước các
giải pháp hướng tới công bằng nội dung.
2. Công bằng thủ tục
Thách thức đầu tiên nảy sinh cùng việc
áp dụng các điều khoản mẫu liên quan đến ý
chí đích thực của người tiêu dùng khi họ gia
nhập vào các hợp đồng vốn được soạn sẵn
bởi bên thương nhân. Cụ thể, có hai quan
ngại về “chất lượng” của sự thể hiện ý chí
người tiêu dùng với tư cách là bên gia nhập
6 Mặc dù các tranh luận về tính công bằng trong quan hệ hợp đồng có lịch sử lâu đời, nhưng CHRIS WILLET
và THOMAS WILHELMSSON có vai trò quan trọng nền tảng trong việc phát triển học thuyết công bằng
trong kiểm soát điều kiện giao dịch chung. Xem Wilhelmsson, T., ‘Control of unfair contract terms and
social values: EC and Nordic approaches’ (1993) 16.3 Journal of Consumer Policy 435; Willett C, Fairness
in Consumer Contracts: The Case of Unfair Terms (Ashgate Publishing, 2007); Wilhelmsson T and Willett
C, ‘Unfair terms and standard form contracts’ G. Howells, I. Ramsay, T. Wilhelmsson and D. Kraft (eds),
Handbook of Research on International Consumer Law (Edward Elgar Publishing 2010) 158.
7 Willett C, Fairness in Consumer Contracts: The Case of Unfair Terms (Ashgate Publishing, 2007), 50.
8 Ibid; SA Smith ‘In Defence of Substantive Fairness’ (1996) 112 Law Quarterly Review 138.
9 Willett C, Fairness in Consumer Contracts: The Case of Unfair Terms (Ashgate Publishing, 2007), 55.
19Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
hợp đồng: Thứ nhất, liệu họ có thực sự ý
thức được sự tồn tại của các điều khoản mẫu
hay không; Thứ hai, gắn liền với hiện tượng
phổ biến là do tính phức tạp, đa dạng, phổ
biến của hợp đồng theo mẫu và điều kiện
giao dịch chung trong đời sống, người tiêu
dùng thường ký nhưng không đọc hợp đồng
theo mẫu và điều kiện giao dịch chung (sign-
ing-without-reading phenomenon)10. Cả hai
trường hợp này đều dẫn đến tình trạng bất
công bằng trong quá trình giao kết hợp đồng.
Vì vậy, học thuyết công bằng đòi hỏi:
Bên soạn thảo các điều khoản mẫu phải
áp dụng các biện pháp cần thiết và hợp lý để
tạo cho bên gia nhập có cơ hội nhận biết
được các điều khoản đó;
Điều khoản mẫu phải được soạn thảo và
trình bày theo ngôn ngữ và thể thức đơn giản
mà người tiêu dùng bình thường có thể hiểu
được ý nghĩa pháp lý của nó.
2.1. Yêu cầu về việc trao cơ hội hợp lý
cho bên đối tác nhận biết điều khoản mẫu
Hiển nhiên, các điều khoản mẫu do một
bên đơn phương ban hành không đương
nhiên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ hợp
đồng ràng buộc bên đối tác. Theo nguyên tắc
truyền thống về giao kết hợp đồng, để một
điều khoản mẫu do một bên đơn phương
soạn thảo trở thành một phần của hợp đồng
thì điều khoản đó phải được chấp nhận bởi
phía bên kia. Tuy nhiên, thực tế trong rất
nhiều tình huống, người tiêu dùng mặc dù
chấp nhận lời đề nghị, nhưng không có khả
năng biết đến sự tồn tại của tất cả các điều
khoản mẫu, bởi các điều khoản này không
nhất thiết hiện diện trong văn bản hợp đồng,
hoặc các điều khoản mẫu được trình bày
dưới dạng thức mà bên được đề nghị bình
thường không thể ngờ tới.
Pháp luật Việt Nam đã bước đầu xây
dựng cơ chế để đảm bảo cho bên giao kết có
cơ hội được tiếp cận và tìm hiểu nội dung
của các điều khoản mẫu trước khi thể hiện ý
chí chấp nhận hợp đồng. Kế thừa các quy
định của Luật BVNTD 201011, ngay tại định
nghĩa của hợp đồng theo mẫu, BLDS 2015
đã quy định rằng, bên đề nghị phải trao cho
bên kia một “thời gian hợp lý” để cân nhắc,
trước khi chấp nhận đề nghị hợp đồng12,
đồng thời nhấn mạnh “điều kiện giao dịch
chung chỉ có hiệu lực với bên xác lập giao
dịch trong trường hợp điều kiện giao dịch
này đã được công khai để bên xác lập giao
dịch biết hoặc phải biết về điều kiện đó”13.
Đặc điểm của cách tiếp cận này là ở chỗ, nó
cho rằng bên sử dụng điều khoản theo mẫu
chỉ cần phải “công khai hoá” điều kiện giao
dịch chung, và khi đó người tiêu dùng phải
có nghĩa vụ tự mình tìm hiểu về nội dung
của điều kiện giao dịch chung đó.
Về cơ bản, cách tiếp cận này về cơ bản
cũng tương tự các thông lệ được thừa nhận
rộng rãi trên thế giới. Chẳng hạn Điều
2:104(1) Bộ nguyên tắc luật hợp đồng châu
Âu (PECL)14 quy định: “Các điều khoản
mẫu chỉ có thể được viện dẫn chống lại
bên đối tác nếu bên viện dẫn các điều khoản
mẫu đó đã tiến hành các biện pháp hợp lý để
làm cho bên đối tác nhận biết được các điều
khoản đó trước hoặc trong khi giao kết hợp
đồng”.
10 De Geest, Gerrit, ‘Signing Without Reading’ in Encyclopedia of Law and Economics: Basic Areas of Law,
Springer, (2015).
11 Điều 17 và Điều 18 của Luật BVNTD 2010.
12 Điều 405 BLDS 2015.
13 Điều 406 BLDS 2015.
14 Về chức năng, sứ mệnh và cấu trúc của PECL xem Ole Lando and Hugh Beale (eds), Principles of European
Contract Law, Parts I and II Combined and Revised, The Hague etc. 2000.
Số 6(406) - T3/202020 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Bên cạnh đó, Điều 2:104(2) Bộ nguyên
tắc luật hợp đồng châu Âu nhấn mạnh rằng
việc một bên đơn thuần đề cập tới các điều
kiện giao dịch chung trong hợp đồng (chẳng
hạn thông qua đường hyperlink) là không đủ
để cấu thành các biện pháp hợp lý để làm
cho bên đối tác nhận biết được các điều
khoản đó.
Như vậy, theo thông lệ quốc tế, việc một
bên chỉ dẫn chiếu đến sự tồn tại của điều
khoản mẫu không được coi là đủ để biến điều
khoản đó trở thành một phần của hợp đồng.
Thay vì vậy, để đảm bảo công bằng thủ tục
trong giao kết đồng, bên đưa ra điều khoản
mẫu đó cần phải đáp ứng nghĩa vụ tích cực
thông qua việc trao cho bên đối tác một “cơ
hội hợp lý” để hiểu biết và đánh giá về nội
dung của điều khoản mẫu đó. Các quy định
trong BLDS 2015 dường như tiệm cận phản
ánh triết lý trên, nhưng với cách thiết kế như
hiện nay, có thể dẫn đến cách giải thích rất
hẹp là việc coi “công khai hoá” điều kiện
giao dịch chung là biện pháp duy nhất cần và
đủ để bảo vệ bên đối tác; trong khi đó, đòi
hỏi của công bằng thủ tục không chỉ dừng lại
ở đó, mà phải hướng đến việc bên đối tác
thực sự có cơ hội nhận diện được các quyền
và nghĩa vụ của mình khi giao kết hợp đồng.
2.2. Yêu cầu về ngôn ngữ và thể thức
trình bày điều khoản mẫu
Học thuyết công lý thủ tục không chỉ
quan tâm đến việc người tiêu dùng “biết”
đến nó mà còn đòi hỏi hợp đồng theo mẫu
và điều kiện giao dịch chung phải được soạn
thảo và trình bày theo ngôn ngữ và cách thức
thân thiện để họ có thể “hiểu” được nội dung
của chúng một cách tốt nhất. Trong đó, đặc
biệt quan trọng là thúc đẩy việc sử dụng các
ngôn ngữ đơn giản, hạn chế tối đa việc sử
dụng các thuật ngữ pháp lý hàn lâm, phức
tạp hàm chứa những ẩn ý pháp lý khó hiểu
đối với người tiêu dùng. Yêu cầu trên được
thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Chẳng hạn,
phản ánh thực tiễn chung ở các quốc gia
châu Âu, Điều II.9:402 của Bộ khung tham
chiếu chung15 (hướng tới hài hoà hoá luật tư
ở châu Âu) với tiêu đề sự minh bạch của các
điều khoản hợp đồng mẫu quy định rằng
“các điều khoản mẫu phải được soạn thảo và
trình bày dưới một ngôn ngữ đơn giản và dễ
hiểu (plain and intelligible language)16. Triết
lý của quy định này nhằm hướng tới tạo cơ
hội cho người tiêu dùng có thể nhận thức đầy
đủ và chính xác được nội dung của các
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các điều
khoản mẫu và qua đó đưa ra các lựa chọn
duy lý quyết định giao kết hay không giao
kết hợp đồng17.
Ở Việt Nam, mặc dù BLDS 2015 không
trực tiếp điều chỉnh vấn đề này, nhưng Luật
BVNTD 2010 nhấn mạnh rằng, hợp đồng
theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải
thể hiện bằng văn bản, ngôn ngữ của hợp
đồng phải rõ ràng, dễ hiểu18. Tiếp đó, Nghị
định số 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ
hướng dẫn thi hành Luật BVNTD quy định
chi tiết rằng, ngôn ngữ hợp đồng theo mẫu
và điều kiện giao dịch chung sử dụng bằng
tiếng Việt, nội dung phải rõ ràng, dễ hiểu; cỡ
15 Về chức năng, sứ mệnh và cấu trúc của DCFR, xem Von Bar, Christian, Eric Clive, and Hans Schulte-
Nölke. Principles, definitions and model rules of European private law: draft common frame of reference
(DCFR). Walter de Gruyter, 2009.
16 Xem Điều II.9:402 Von Bar, Christian, Eric Clive, and Hans Schulte-Nölke. Principles, definitions and model
rules of European private law: draft common frame of reference (DCFR). Walter de Gruyter, 2009, 658.
17 Von Bar, Christian, Eric Clive, and Hans Schulte-Nölke. Principles, definitions and model rules of European
private law: draft common frame of reference (DCFR). Walter de Gruyter, 2009, 659.
18 Xem Điều 14 LBVNTD 2010.
21Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
chữ ít nhất là 12; nền giấy và màu mực thể
hiện nội dung phải tương phản nhau19.
Hiển nhiên, các quy định trên sẽ không
có hiệu quả trên thực tế nếu không đi kèm
với hệ thống chế tài hiệu lực. Trên thế giới,
về cơ bản, có thể nhận diện hai cách thức
tiếp cận để xứ lý vi phạm nghĩa vụ soạn thảo
và trình bày điều khoản mẫu dưới một ngôn
ngữ đơn giản và dễ hiểu. Cách tiếp cận thứ
nhất mang tính truyền thống là viện dẫn học
thuyết cổ điển “contra proferentem”; theo
đó, khi điều khoản không có nội dung rõ
ràng, thì được ưu tiên giải thích theo hướng
ngược lại với lợi ích của bên soạn thảo ra
điều khoản đó20. Cách tiếp cận thứ hai xem
xét yêu cầu về sự “ không minh bạch”
(non-transparency) của điều khoản mẫu là một
trong những yếu tố cấu thành các điều khoản
mẫu bất công (unfair terms); và như vậy, nó có
thể dẫn đến hậu quả là tuyên vô hiệu điều
khoản đó21. Trong bối cảnh pháp luật thực định
hiện nay ở Việt Nam, phương án khả dĩ nhất là
hình dung học thuyết “contra proferentem”
như chế tài để khuyến khích việc soạn thảo
các điều khoản mẫu theo ngôn ngữ đơn giản
và dễ hiểu. Tuy nhiên, trong tương lai, nếu
chúng ta hoàn thiện học thuyết về công bằng
nội dung, cách tiếp cận thứ hai sẽ đóng vai
trò quan trọng tạo ra sự liên hệ hữu cơ giữa
công bằng thủ tục và công bằng nội dung
trong kiểm soát điều khoản mẫu.
3. Công bằng nội dung
Mặc dù các biện pháp hướng tới đảm
bảo công bằng thủ tục đóng vai trò quan
trọng giúp người tiêu dùng “hiểu biết” sự tồn
tại và nội dung của các điều khoản mẫu để
đưa ra các quyết định duy lý về việc gia nhập
hay không gia nhập hợp đồng, các biện pháp
này rõ ràng là không đủ hiệu lực để loại bỏ
các điều khoản mẫu bất công - điều khoản
tạo ra sự bất cân xứng thái quá về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên. Nhiều nghiên cứu đã
chứng minh rằng, bởi lẽ các điều kiện giao
dịch chung đã trở nên quá phổ biến trong đời
sống hàng ngày, nên người tiêu dùng thông
thường đưa ra sự lựa chọn là không đọc các
điều khoản mẫu ngay cả khi chúng được
soạn thảo và trình bày theo cách đơn giản22.
Thêm vào đó, ngay cả số ít người tiêu dùng
đọc các điều khoản đó, họ cũng thường
không thực sự hiểu được hệ quả pháp lý ẩn
đằng sau chúng23.
Vì thế, bên cạnh yếu tố công bằng thủ
tục, công bằng nội dung nhấn mạnh sự cần
thiết của các cơ chế cho phép kiểm soát trực
tiếp nội dung của hợp đồng theo mẫu và điều
kiện giao dịch chung để vô hiệu hoá các điều
khoản bất công (nếu có). Về cơ bản, có thể
19 Xem Điều 7 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành LBVNTD 2010.
2 0 Xem thêm Boardman, Michelle E. Contra Proferentem: The Allure of Ambiguous Boilerplate. Michigan
Law Review (2006): 1105-1128; Horton, David. Flipping the Script: Contra Proferentem and Standard
Form Contracts. U. Colo. L. Rev. 80 (2009): 431.
21 Cách tiếp cận này được đề xuất trong DCFR, xem Điều II.-9:407 (Factors to be taken into account in
assessing unfairness), Von Bar, Christian, Eric Clive, and Hans Schulte-Nölke. Principles, definitions
and model rules of European private law: draft common frame of reference (DCFR). Walter de Gruyter,
2009, 679.
22 Trong một nghiên cứu khảo sát 48154 lượt người tiêu dùng giao kết hợp đồng theo mẫu ở trên thị trường
lixang phần mềm ở Mỹ, Marrota-Wurgler chỉ ra rằng chỉ 0.2% người dùng đọc điều khoản mẫu trong đó.
Xem Yannis Bakos, Florencia Marotta-Wurgler and David R. Trossen, ‘Does Anyone Read the Fine Print?
Consumer Attention to Standard-Form Contracts’ (2014) 43 J. Legal Stud. 1 (2014).
23 Shmuel Becher and Esther Unger-Aviram, ‘The Law of Standard Form Contracts: Misguided Intuitions
and Suggestions for Reconstruction’ (2010) 8(3) DePaul Business and Commercial Law Journal 199, 214;
Russell Korobkin, ‘Bounded Rationality, Standard Form Contracts, and Unconscionability’ (2003) 70 The
University of Chicago Law Review 1203, 1220.
Số 6(406) - T3/202022 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
hình dung hai cách tiếp cận hướng tới bảo
đảm công bằng nội dung trong việc kiểm
soát các điều khoản mẫu. Thứ nhất, đưa ra
một điều khoản chung mang tính nguyên lý
định nghĩa thế nào là điều khoản bất công
(unfair terms). Thứ hai, đưa ra một danh
mục mang tính liệt kê những điều khoản nào
sẽ đương nhiên vô hiệu. Trong nhiều hệ
thống pháp luật, để đảm bảo hiệu quả kiểm
soát điều khoản bất công, có sự kết hợp của
cả hai cách tiếp cận trên24.
Đối với hệ thống pháp luật Việt Nam,
nhà làm luật dường như đã có những bước
đi thận trọng để kiểm soát tính công bằng nội
dung điều khoản mẫu. Luật BVNTD 2010
đã liệt kê chín loại điều khoản mẫu mang
tính bất công sẽ đương nhiên không có hiệu
lực nếu được áp dụng với người tiêu dùng25.
Tiếp đó, Điều 406 BLDS 2015 với tiêu đề
“Điều kiện giao dịch chung trong giao kết
hợp đồng” đã quy định: “Điều kiện giao dịch
chung phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các
bên. Trường hợp điều kiện giao dịch chung
có quy định về miễn trách nhiệm của bên
đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách
nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của
bên kia thì quy định này không có hiệu lực,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Quy định này lại có hai điểm cải cách
đáng kể so với cơ chế kiểm soát tính công
bằng của hợp đồng theo mẫu và điều kiện
giao dịch chung trong Luật BVNTD. Thứ
nhất, với tư cách là Bộ luật gốc của hệ thống
luật tư, có phạm vi điều chỉnh tất cả các quan
hệ dân sự theo nghĩa rộng, nên quy định này
của BLDS có thể được áp dụng cho tất cả
các loại hợp đồng. Điều đó có nghĩa là ngay
cả giao dịch giữa thương nhân với nhau, nếu
có sử dụng các điều khoản mẫu, thì cũng
phải chịu sự kiểm soát về tính công bằng đối
với nội dung điều khoản đó. Thứ hai, BLDS
2015 đã lần đầu tiên quy định chung mang
tính nguyên lý “Điều kiện giao dịch chung
phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên”.
Mặc dù đây là quy định phần nhiều mang
tính tuyên ngôn pháp lý, nhưng việc thiết lập
một yêu cầu chung để định hình chuẩn mực
pháp lý cho các bên như quy định trên là chỉ
dấu cần thiết cổ vũ cho nỗ lực xây dựng cơ
chế kiểm soát điều kiện bất công hoàn hảo
hơn trong tương lai.
3.1. Mô hình kiểm soát nội dung điều
khoản mẫu trong pháp luật Việt Nam hiện
hành
Quy định quan trọng nhất của pháp luật
Việt Nam hiện nay điều chỉnh việc kiểm soát
nội dung của điều khoản mẫu chính là Đều
16 Luật BVNTD 2010, trong đó liệt kê chín
loại điều khoản hợp đồng sẽ không có hiệu
lực với người tiêu dùng nếu được đưa vào
hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch
chung. Có thể phân loại các điều khoản đó
vào ba nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất bao gồm các điều khoản
cho phép loại trừ hoặc giới hạn trách nhiệm của
thương nhân đối với người tiêu dùng. Cụ thể:
Điều 16.1.(a) Loại trừ trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ đối với người tiêu dùng theo quy định của
pháp luật;
Điều 16.1.(b) Hạn chế, loại trừ quyền
khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng;
Điều 16.1.(g) Loại trừ trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh
24 Chẳng hạn Điều BLDS Đức (Điều 307-309), xem bản dịch tiếng Anh trên
internet.de/englisch_bgb/index.html; truy cập ngày 14/2/2020; BLDS Hà Lan (Điều 6:233- 6:237), xem
bản dịch tiếng Anh trên truy cập ngày
20/1/2015, truy cập ngày 14/2/2020.
25 Điều 16 Luật BVNTD 2010.
23Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
doanh hàng hóa, dịch vụ bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ thông qua bên thứ ba.
Nhóm thứ hai bao gồm các điều khoản
trao cho thương nhân quyền đơn phương
quyết định:
Điều 16.1.(c) cho phép tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương
thay đổi điều kiện của hợp đồng đã thỏa
thuận trước với người tiêu dùng hoặc quy
tắc, quy định bán hàng, cung ứng dịch vụ áp
dụng đối với người tiêu dùng khi mua, sử
dụng hàng hóa, dịch vụ không được thể hiện
cụ thể trong hợp đồng;
Điều 16.1.(d) cho phép tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương
xác định người tiêu dùng không thực hiện
một hoặc một số nghĩa vụ;
Điều 16.1.(đ) cho phép tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quy định hoặc
thay đổi giá tại thời điểm giao hàng hóa,
cung ứng dịch vụ;
Điều 16.1.(e) cho phép tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ giải thích hợp
đồng trong trường hợp điều khoản của hợp
đồng được hiểu khác nhau;
Điều 16.1.(i) cho phép tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chuyển giao
quyền, nghĩa vụ cho bên thứ ba mà không
được người tiêu dùng đồng ý.
Nhóm thứ ba bao gồm các điều khoản
ngăn cản các bên được hưởng quyền tương
xứng:
Điều 16.1.(h) bắt buộc người tiêu dùng
phải tuân thủ các nghĩa vụ ngay cả khi tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
không hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Trong cơ chế kiểm soát hiện hành, Điều
16 Luật BVNTD 2010 mang tính chất là
điều cấm của luật. Từ góc độ pháp luật dân
sự, điều này có nghĩa là khi bên thương nhân
sử dụng một trong số điều khoản này trong
hợp đồng, điều khoản đó sẽ đương nhiên vô
hiệu (vô hiệu tuyệt đối) do có nội dung vi
phạm điều cấm của luật26. Về nguyên tắc,
cách tiếp cận này của Luật BVNTD 2010 sẽ
có tác dụng tạo nên cơ chế kiểm soát điều
khoản mẫu nhanh chóng và hiệu quả, giảm
chi phí tiếp cận cho người tiêu dùng hay giúp
người ban hành điều khoản mẫu có thể tự
kiểm soát tính công bằng của các điều khoản
do mình đưa ra; qua đó thúc đẩy một cơ chế
ngăn chặn việc áp dụng các điều khoản
không công bằng mà không cần đợi có sự
can thiệp của toà án hay cơ quan hành chính.
Về lý thuyết, một điều khoản sẽ bị cấm
hoàn toàn nếu hình dung được trong mọi
trường hợp, điều khoản đó rõ ràng là bất
công, không đem lại bất kỳ lợi ích nào cho
người tiêu dùng. Ngược lại, nếu không suy
xét một cách thận trọng, việc cấm đoán hoàn
toàn việc sử dụng một điều khoản mà không
đánh giá đúng mức vai trò của các điều
khoản đó để điều tiết quan hệ hợp đồng giữa
các bên sẽ tạo ra hiệu ứng ngược, phản tác
dụng. Đáng tiếc, trong một số trường hợp,
quy định của Điều 16 Luật BVNTD 2010 đã
không hình dung hết các tính năng của một
số điều khoản mẫu và can thiệp thái quá vào
quyền tự do hợp đồng. Điển hình là các quy
định tại nhóm thứ hai cấm việc sử dụng các
điều khoản mẫu trao cho thương nhân quyền
đơn phương quyết định trong một số trường
hợp. Hiển nhiên, các điều khoản trao quyền
đơn phương quyết định một số nội dung vào
tay thương nhân tự thân tiềm ẩn những bất
công cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, một số
loại điều khoản này, chẳng hạn điều khoản
cho phép điều chỉnh một số nội dung hợp
đồng (variation clause) lại đóng vai trò quan
trọng trong rất nhiều loại hợp đồng có đặc
tính là quá trình thực hiện hợp đồng diễn ra
26 Xem Điều 117 BLDS 2015.
Số 6(406) - T3/202024 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
lâu dài, chịu sự chi phối của biến động thị
trường ví dụ hợp đồng viễn thông27. Trong
những tình huống biến động của thị trường,
rõ ràng là bất khả thi cho thương nhân nếu
buộc họ phải liên hệ và đàm phán lại với từng
khách hàng để sửa đổi hợp đồng. Vì thế,
trong những trường hợp này, thay vì cấm
hoàn toàn các điều khoản trên, phương án tối
ưu hơn sẽ là trao cho thương nhân sự linh
hoạt để sửa đổi nội dung hợp đồng mà vẫn
bảo vệ người tiêu dùng bằng cách trao cho
họ một khoản thời gian hợp lý để xem xét các
sửa đổi và quyền được huỷ bỏ hợp đồng nếu
họ cảm thấy quyền lợi của họ bị giảm sút do
sự sửa đổi hợp đồng28. Tóm lại, bên cạnh ưu
điểm nổi trội là tính xác định, việc sử dụng
cách tiếp cận cấm đoán hoàn toàn như Điều
16 LBVNTD 2010 có hạn chế cố hữu là sự
thiếu linh hoạt, quá cứng nhắc, không cho
phép tính toán đến hoàn cảnh, lĩnh vực kinh
doanh đặc thù của từng loại thị trường.
Hạn chế thứ hai của cơ chế hiện hành là
việc thiếu quy định chung mang tính khái
quát để định hình chuẩn mực kiểm soát tính
bất công bằng của các điều khoản mẫu. Hiển
nhiên, danh mục cấm tại Điều 16 Luật
BVNTD 2010 không thể bao quát tất cả các
dạng thức mới của các điều khoản bất công
trên thị trường. Do đó, trong trường hợp xuất
hiện các điều khoản mới bất công thái quá
cho người tiêu dùng, nhưng lại nằm ngoài
danh mục liệt kê tại Điều 16 Luật BVNTD
2010, chúng ta sẽ không có cơ sở pháp lý để
kiểm soát điều khoản đó. Việc thiếu vắng
một điều khoản quy định chung đồng nghĩa
với việc thiếu vắng một công cụ quan trọng
để thiết lập một chuẩn mực về tính công
bằng trong pháp luật hợp đồng Việt Nam,
cũng như đảm bảo tính linh hoạt của cơ chế
kiểm soát trước sự thay đổi nhanh chóng của
đời sống kinh tế - xã hội.
Hướng tới hệ thống kiểm soát ba tầng
đảm bảo công bằng nội dung của điều
khoản mẫu
Nhu cầu cấp thiết để hoàn thiện chế định
kiểm soát tính công bằng của điều khoản mẫu
ở Việt Nam hiện nay là xây dựng quy định
chung định nghĩa về điều khoản bất công để
làm cơ sở pháp lý cho việc đánh giá tính công
bằng của tất cả các điều khoản mẫu.
Hầu hết các mô hình kiểm soát tính bất
công của các điều khoản mẫu đều chịu ảnh
hưởng đáng kể của Chỉ thị số 93/13/EEC của
Uỷ ban châu Âu năm 1993 về các điều
khoản không công bằng29. Chỉ thị này không
chỉ dẫn tới sự hài hoà hoá pháp luật ở các
quốc gia châu Âu mà dần trở thành một
trong những đạo luật nổi tiếng nhất về kiểm
soát tính công bằng của các điều khoản mẫu,
và do đó, chí ít nên được xem xét như là xuất
phát điểm cho tranh luận về một cơ chế hoàn
hảo hơn trong việc kiểm soát hợp đồng mẫu
trong pháp luật Việt Nam30. Trọng tâm của
Chỉ thị này là Điều 3(1), định nghĩa khái
quát tiêu chí công bằng như sau:“Điều
khoản mẫu31 là bất công [và vô hiệu] nếu
27 Simon Whittaker, ‘Variation and Termination of Consumer Contracts’ in Louise Gullifer and Stefan
Vogenauer (eds) English and European Perspectives on Contract and Commercial Law: Essays in Honour
of Hugh Beale (Bloomsbury Publishing, 2014) 199-225.
28 Ibid.
29 Council Directive 93/13/EEC of 5 April 1993 on unfair terms in consumer contracts, OJ L 95, 21/04/1993.
30 Về tầm ảnh hưởng của Chỉ thị 93/13/EEC, xem Hugh Collins (ed), Standard Contract Terms In Europe: A
Basis For And A Challenge To European Contract Law, Vol. 15 (Kluwer Law International, 2008).
31 Tuy nhiên cần lưu ý rằng, theo quy định của Chỉ thị 93/13/EEC, hai loại điều khoản mẫu liên quan trực
tiếp đến giá cả và đối tượng của hợp đồng sẽ không thuộc phạm vi đánh giá tính công bằng của Chỉ thị
93/13/EEC. Triết lý của cách tiếp cận trên là ở chỗ, đây được coi là điều khoản quan trọng đến mức mà
25Số 6(406) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
điều khoản đó đi ngược lại với yêu cầu về sự
thiện chí, dẫn đến một sự bất cân xứng đáng
kể đối với quyền và nghĩa vụ của các bên
phát sinh từ hợp đồng, gây bất lợi cho người
tiêu dùng”.
Theo đó, tiêu chí chung để đánh giá tính
công bằng của điều khoản mẫu là: (i) sự bất
cân xứng đáng kể đối với quyền và nghĩa vụ
của các bên gây bất lợi cho người tiêu dùng;
(ii) đi ngược lại với yêu cầu về sự thiện chí.
Mặc dù lợi thế lớn nhất của điều khoản
chung này là tính linh hoạt giúp thích nghi
với sự thay đổi của đời sống xã hội, nhưng
đồng thời, do các quy tắc pháp lý phải đảm
bảo tính xác định, bất cứ một điều khoản
chung nào cũng đòi hỏi sự cụ thể hoá thông
qua án lệ hoặc các công cụ hỗ trợ khác. Vì
vậy, chúng tôi cho rằng, để bổ sung cho điều
khoản chung đó, cần phải đưa ra một danh
mục các điều khoản mẫu mà thông thường
sẽ được suy đoán là bất công cho người tiêu
dùng, trừ khi bên thương nhân chứng minh
được ngược lại (greylist). Bên cạnh đó, việc
quy định một danh mục các điều khoản mẫu
đương nhiên được coi là bất công trong mọi
trường hợp (blacklist) như cách tiếp cận hiện
hành của Luật BVNTD 2010 sẽ có tác dụng
thúc đẩy hiệu quả quá trình kiểm soát tính
công bằng kiểm soát điều kiện mẫu, không
cần đợi có sự đánh giá của toà án hay cơ
quan hành chính. Tuy nhiên, như đã phân
tích, việc ban hành danh mục này sẽ có rủi
ro là không xem xét hết vai trò của một số
điều khoản mẫu trong các lĩnh vực đặc thù.
Vì vậy, phương án an toàn là cần phải thu
hẹp đáng kể danh mục các điều khoản đương
nhiên vô hiệu tại Điều 16 Luật BVNTD
2010. Chẳng hạn, chỉ một số loại điều khoản
xâm phạm trực tiếp đến quyền luật định mới
nên được coi là bất công (và do đó vô hiệu)
trong mọi hoàn cảnh, mọi lĩnh vực:
Điều khoản cho phép loại trừ mọi trách
nhiệm pháp lý của thương nhân ngay cả
trong trường hợp gây tổn hại sức khoẻ và
tính mạng người tiêu dùng;
Điều khoản cho phép loại trừ quyền
khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng;
Điều khoản cho phép thương nhân có
độc quyền trong việc giải thích các điều
khoản của hợp đồng.
Các loại điều khoản khác của Điều 16
chỉ nên đưa vào danh mục suy đoán là bất
công để cho phép thương nhân được quyền
chứng minh tính hữu ích và công bằng của
nó trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Tóm lại, sự kết hợp giữa quy định chung
có vai trò định nghĩa thế nào là điều khoản
bất công, với danh mục các điều khoản
đương nhiên vô hiệu (a blacklist) và điều
khoản được suy đoán là vô hiệu (a greylist)
sẽ tạo nên cơ chế ba tầng để kiểm soát tính
công bằng của điều khoản mẫu. Ưu thế của
cơ chế này sẽ cho phép kết hợp ưu điểm của
quy định chung định nghĩa điều khoản bất
công là tính linh hoạt và đồng thời giảm thiểu
tính bất định của nó thông qua danh mục các
điều khoản bị suy đoán là bất công n
người tiêu dùng không thể không biết về nó; đồng thời, cơ chế cạnh tranh trên thị trường sẽ tự động điều
tiết và đào thải các điều khoản đó nếu nó bất công mà không cần sự can thiệp của Nhà nước. Cách tiếp cận
này phần nào chứng tỏ sự dung hoà giữa nguyên tắc tự do hợp đồng và nguyên tắc công bằng trong kiểm
soát điều khoản mẫu ở châu Âu. Xem thêm Brandner and Ulmer, ‘The Community Directive on Unfair
Terms in Consumer Contracts: Some Critical Remarks on the Proposal Submitted by the EC Commission’
(1991) 28 Common Market Law Review 647, 656; Michael Schillig, ‘Directive 93/13 and the “Price Term
Exemption”: A Comparative Analysis in the Light of the “Market for Lemons” Rationale’ (2011) 60(4)
International and Comparative Law Quarterly 933.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_cong_bang_thu_tuc_den_cong_bang_noi_dung_thanh_tuu_va_tha.pdf