Bên cạnh đó, cần hình thành hệ thống
các công ty đào tạo lao động có kỹ năng cao
thuộc các loại ngành nghề được ASEAN
công bố, mà giai đoạn trước mắt là tám
ngành nghề đã được các nước AEC thỏa
thuận tự do di chuyển gồm: y, nha khoa,
điều dưỡng, kế toán và kiểm toán, tư vấn kỹ
thuật, kiến trúc, khảo sát và du lịch; kết hợp
với các cơ sở đào tạo, cơ quan cấp chứng chỉ
hành nghề nhằm tạo môi trường tốt nhất cho
lao động Việt Nam khi tham gia thị trường
lao động trong AEC.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần đẩy mạnh
hợp tác quốc tế về dạy nghề, nhất là với
những nước thành công trong phát triển dạy
nghề ở khu vực ASEAN và trên thế giới;
tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ
phát triển chính thức ODA cho dạy nghề;
hợp tác với các nước ASEAN để tiến tới
công nhận kỹ năng nghề giữa các nước, tích
cực tham gia vào các hoạt động của khu vực
và thế giới để giao lưu và học hỏi kinh
nghiệm, như tham gia Hội thi tay nghề
ASEAN, Hội thi tay nghề thế giới. Đây là
những hoạt động tiếp thị rất hiệu quả về chất
lượng của lao động Việt Nam với các nước
trong khu vực
Đáng lý ra, nếu các tài sản gắn liền
với đất thuộc loại phải đăng ký (như nhà),
thì quyền sở hữu bề mặt xác lập đối với các
tài sản đó cũng phải được đăng ký. Trong
trường hợp tài sản gắn liền với đất không
thuộc loại phải đăng ký quyền sở hữu (như
vườn cây), thì quyền sở hữu bề mặt cũng
không cần được đăng ký. Thực ra, quyền sở
hữu bề mặt không đăng ký và nói chung, bất
động sản không đăng ký không phải là một
chế định cần được hoàn thiện, mà chỉ là một
hiện tượng phát sinh từ tình trạng chưa hoàn
thiện của pháp luật về tài sản. Việc xây dựng
một luật về đăng ký tài sản được kỳ vọng sẽ
khắc phục được tình trạng này
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tự do di chuyển lao động có tay nghề của Asean - Những thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngày 31/12/2015, Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC) được thành lập. Với tổng
GDP hơn 2.600 tỷ USD, AEC là nền kinh tế
đứng thứ 7 thế giới và kỳ vọng sẽ trở thành
nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới vào năm
20502. AEC mở ra triển vọng to lớn về sự
thay đổi và phát triển kinh tế của các quốc
gia thành viên, tạo cơ sở vững chắc để xây
dựng một ASEAN hòa bình và thịnh vượng.
Mục tiêu kinh tế của AEC là: (i) một
thị trường thống nhất và cơ sở sản xuất
chung, thông qua tự do lưu chuyển hàng
hoá, tự do lưu chuyển dịch vụ, tự do lưu
chuyển đầu tư, tự do lưu chuyển vốn, tự do
lưu chuyển lao động có tay nghề; (ii) một
khu vực kinh tế cạnh tranh, thông qua các
25
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
TÛÅ DO DI CHUYÏÍN LAO ÀÖÅNG COÁ TAY NGHÏÌ CUÃA ASEAN -
NHÛÄNG THUÊÅN LÚÅI VAÂ THAÁCH THÛÁC ÀÖËI VÚÁI VIÏåT NAM
Ngô Hữu Phước*
* TS. Phó trưởng Khoa Luật Quốc tế, Trưởng bộ môn Công pháp quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Tự do di chuyển
lao động.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 09/12/2016
Biên tập: 15/03/2017
Duyệt bài: 23/03/2017
Article Infomation:
Keywords: free movement
of labour.
Article History:
Received: 09 Dec. 2016
Edited: 15 Mar. 2017
Approved: 23 Mar. 2017
Tóm tắt:
Bài viết phân tích một số vấn đề về cơ sở pháp lý, những thuận lợi và thách
thức của Việt Nam trong quá trình thực thi cam kết tự do di chuyển lao động
có tay nghề của Cộng đồng Kinh tế ASEAN - AEC1, đồng thời đề xuất một
số kiến nghị nhằm phát huy lợi thế, vượt qua thách thức để thực hiện hiệu
quả nhất cam kết tự do di chuyển lao động tay nghề cao của AEC.
Abstract:
This article provides the analyses of the legal framework, the advantages and
challenges of Vietnam in the performance process of its commitments to free
movements of the skilled labour in the ASEAN Economic
Community - AEC. The article also gives out recommendations for the
Vietnamese Government, enterprises and labourers to promote the
advantages, overcome the challenges to effectively implement its
commitments to AEC free movements of the skilled labours.
1 Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community-AEC) là một trong 3 trụ cột tạo thành Cộng đồng
ASEAN; 2 trụ cột còn lại là: Cộng đồng an ninh - chính trị (ASEAN Security Community-ASC) và Cộng đồng văn
hóa - xã hội (ASEAN Socio-Cultural Community-ASCC).
2 Xem thêm “Cộng đồng ASEAN 2015 và đóng góp của Việt Nam”, trên
hinh-thanh-va-dong-gop-cua-viet-nam-post605756.html.
khuôn khổ chính sách về cạnh tranh, bảo hộ
người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát
triển cơ sở hạ tầng, thuế quan và thương mại
điện tử; (iii) phát triển kinh tế cân bằng,
thông qua các kế hoạch phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ, sáng kiến hội nhập nhằm
thu hẹp khoảng cách phát triển trong
ASEAN; (iv) hội nhập vào nền kinh tế toàn
cầu, thông qua tham vấn chặt chẽ trong đàm
phán đối tác kinh tế, nâng cao năng lực tham
gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu.
Đặc biệt, với một thị trường chung có
dân số hơn 600 triệu, trong đó 300 triệu
người tham gia lực lượng lao động3, sự ra
đời của AEC sẽ làm cho thị trường lao động
trong ASEAN sôi động hơn và thúc đẩy tạo
việc làm cho từng quốc gia thành viên. Tuy
nhiên, tự do di chuyển lao động cũng đặt ra
cho các nước trong khu vực, đặc biệt là Việt
Nam, nhiều khó khăn thách thức không dễ
giải quyết như: sự chênh lệch về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ và các kỹ năng mềm
của người lao động; sự khác biệt về văn hóa,
tôn giáo; sự chênh lệch về trình độ phát triển
kinh tế, xã hội của các nước ASEAN 4 và
ASEAN 6
1. Cơ sở pháp lý về di chuyển lao động có
tay nghề của ASEAN
Tự do di chuyển lao động có tay
nghề là một trong năm yếu tố cốt lõi nhằm
xây dựng một thị trường lao động thống nhất
nằm trong nội dung liên kết của AEC, có
nền tảng từ Hiệp định Khu vực tự do thương
mại ASEAN4. Tuy nhiên, Hiệp định này
không quy định cụ thể về di chuyển lao động
mà chỉ ghi nhận trong phạm vi thương mại
dịch vụ nói chung. Cơ sở pháp lý của tự do
di chuyển lao động có tay nghề của ASEAN
được ghi nhận cụ thể trong các văn bản pháp
lý sau đây:
(i) Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ
năm 1995 (AFAS) và Nghị định thư năm
2003
Thông qua các kết cấu và phương
pháp tiếp cận của Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ (GATS), Hiệp định
AFAS đưa ra nguyên tắc chung để thiết lập
các thoả thuận công nhận tay nghề tương
đương cụ thể, nhằm tập trung và hài hòa hóa
các ngành dịch vụ5. Điều 5(1) Hiệp định xác
định nguyên tắc: “Mỗi quốc gia có thể công
nhận trình độ giáo dục, kinh nghiệm, các
yêu cầu, giấy phép và chứng nhận được cấp
ở một nước khác với mục đích cấp phép và
chứng nhận cho người cung cấp dịch vụ”.
Tuy nhiên, do Hiệp định AFAS chỉ
cho phép một số bên cung cấp dịch vụ cá
nhân di chuyển tạm thời, nên các cam kết
thường bị giới hạn dẫn đến kết quả đạt được
còn rất khiêm tốn. Chính vì vậy, ASEAN đã
quyết định sửa đổi Hiệp định AFAS bằng
Nghị định thư năm 2003. Nghị định thư năm
2003 đã chấp nhận Công thức ASEAN - X6;
theo đó, mỗi quốc gia, trên tinh thần tự
nguyện, có thể cho phép hai hay nhiều quốc
gia thành viên tiến hành đàm phán, chấp
thuận tự do hóa thương mại dịch vụ trong
những lĩnh vực cụ thể mà các nước khác có
26
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3 Ba quốc gia có số lao động chiếm tỷ trọng hơn 70% là Indonesia (40%), Philippines (16%) và Việt Nam (15%).
4 Xem
ity-romeo-a-reyes-2.
5 Đến nay, các nước thành viên ASEAN đã đàm phán 09 gói cam kết theo Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ, bao
gồm: các dịch vụ kinh doanh, dịch vụ chuyên gia, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường, vận chuyển hàng hải,
viễn thông, du lịch. Xem Bộ Ngoại giao vụ ASEAN, Ban thư ký ASEAN quốc gia Việt Nam (2014), Cộng đồng Kinh
tế ASEAN (AEC), trên
6 Công thức -X (hay ASEAN-X hoặc 10-X) cho phép các quốc gia chưa đủ điều kiện có thể thực hiện những cam kết
kinh tế chậm hơn so với lộ trình chung và không được hưởng các ưu đãi mở cửa từ những quốc gia thực hiện đúng
theo lộ trình chung. Công thức này phản ánh quá trình hội nhập đi từ số nhiều, trong đó những nước chậm trễ có khả
năng sẽ bị đặt ra ngoài quá trình hội nhập chung của ASEAN đã được xác định trong Hiến chương ASEAN, cụ thể tại
thể tham gia theo các thỏa thuận sau đó khi
phù hợp với điều kiện gia nhập7.
(ii) Hiệp định khung ASEAN về hội
nhập các ngành ưu tiên năm 2003
Hiệp định này được ký kết nhằm tạo
điều kiện cho quá trình hội nhập từng bước,
nhanh chóng và có hệ thống. Theo đó,
những ngành ưu tiên được xác định là du
lịch hàng không, công nghệ thông tin điện
tử, y tế, du lịch và logistics. ASEAN cam kết
tự do hóa đầy đủ các lĩnh vực ưu tiên vào
cuối năm 2010, ngành dịch vụ logistics vào
năm 2013, tất cả các dịch vụ khác - cuối
năm 2015.
(iii) Hiến chương ASEAN năm 2007
Với Hiến chương năm 2007, ASEAN
khẳng định quyết tâm “xây dựng một thị
trường và cơ sở sản xuất duy nhất với sự ổn
định, thịnh vượng, khả năng cạnh tranh và
liên kết kinh tế cao, tạo thuận lợi cho thương
mại và đầu tư, bao gồm sự chu chuyển tự do
hàng hóa, dịch vụ và dòng đầu tư; di chuyển
thuận lợi của các doanh nhân, những người
có chuyên môn cao, những người có tài
năng và lực lượng lao động và sự di chuyển
tự do hơn các dòng vốn”8.
Sau đó, với Kế hoạch tổng thể xây
dựng AEC và Lộ trình chiến lược AEC năm
2007, Hiến chương ASEAN năm 2007 đã cụ
thể hóa các mục tiêu nêu trên thành một
trong bốn nội dung tự do hóa các yếu tố sản
xuất nhằm xây dựng một thị trường và cơ sở
sản xuất thống nhất, trong đó có yếu tố tự
do di chuyển lao động có tay nghề. Đồng
thời, Hiến chương nêu ra các hành động cần
phải thực hiện hướng tới sự hài hòa và tiêu
chuẩn hóa tạo điều kiện cho di chuyển lao
động có tay nghề trong khu vực9.
(iv) Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và
thúc đẩy các quyền của người lao động di
trú Cebu năm 2007
Tuyên bố Cebu năm 2007 đã trao
quyền cho các thành viên trong việc thúc
đẩy việc bảo vệ lao động một cách công
bằng và thích hợp, về tiền lương và sự tiếp
cận hợp lý các điều kiện lao động và đời
sống cho lao động di trú.
(v) Hiệp định ASEAN về di chuyển thể
nhân năm 2012
Dựa trên Kế hoạch tổng thể xây dựng
AEC, Hiệp định năm 2012 tạo ra cơ chế hiệu
quả để tiếp tục tự do hóa và tạo thuận lợi cho
sự di chuyển thể nhân hướng tới tự do lưu
thông của lao động có tay nghề trong
ASEAN thông qua hợp tác chặt chẽ giữa các
cơ quan liên quan không giới hạn đối với
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ,
đầu tư, xuất nhập cảnh và lao động10. Theo
Hiệp định này, thể nhân là người mang quốc
tịch hoặc thường trú tại một nước thành viên
theo pháp luật, quy tắc hoặc chính sách quốc
gia11. Hiệp định chỉ cho phép nhập cảnh và
lưu trú tạm thời cho lao động kỹ năng, các
chuyên gia và lãnh đạo, không quy định về
lao động phổ thông12. Các thể nhân bao gồm:
27
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Điều 21 (thực hiện và thủ tục): “1. Mỗi Hội đồng Cộng đồng ASEAN sẽ quy định quy chế hoạt động riêng của mình.
2. Trong khi thực hiện các cam kết kinh tế, có thể áp dụng công thức tham gia linh hoạt, trong đó có công thức ASEAN
- X trong trường hợp có sự đồng thuận như vậy”. AEC áp dụng công thức này để tăng tính linh hoạt, năng động và đẩy
nhanh tiến độ hội nhập kinh tế của công đồng ASEAN, không bắt buộc các quốc gia phải tham gia những cam kết kinh
tế chung khi tình hình kinh tế - xã hội của quốc gia chưa sẵn sàng hoặc chưa đủ khả năng thực hiện theo cam kết.
7 Xem thêm Điều 21.2 Hiến chương ASEAN và Nghị định thư sửa đổi Hiệp định AFAS được ký bởi các Bộ trưởng
Kinh tế các nước ASEAN ngày 02/09/2003.
8 Mục 5 Điều 1 Các mục tiêu, Hiến chương ASEAN năm 2007.
9 Mục A5 Dòng chảy Tự do lao động kỹ năng, Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.
10 Xem Lời nói đầu Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân năm 2012. Việt Nam đã phê duyệt nội dung và ký Hiệp
định vào tháng 11/2012 cùng với những cam kết cụ thể của Việt Nam tại Biểu cam kết kèm theo Hiệp định nhằm đảm
bảo tính minh bạch và khả thi của Hiệp định.
11 Điều 3 (f) Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân năm 2012.
12 Các đối tượng bị hạn chế không được thường trú: du khách kinh tế, lưu chuyển nhân sự trong doanh nghiệp và các
nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng. Xem Điều 3 và Điều 4 Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân năm 2012.
du khách kinh doanh; người lưu chuyển
trong nội bộ doanh nghiệp; các nhà cung cấp
dịch vụ theo hợp đồng; các thể nhân khác có
thể được quy định trong Danh mục cam kết
cho tạm nhập cảnh và tạm trú13.
(vi) Các thoả thuận công nhận tay
nghề tương đương của ASEAN về lao động
kỹ năng (ASEAN Mutual Recognition
Arrangements) trong một số lĩnh vực dịch vụ
Thoả thuận công nhận tay nghề tương
đương tạo điều kiện cho việc tuyển dụng của
các chuyên gia từ nước ngoài trên cơ sở
ngắn hạn và dài hạn. Theo đó, mỗi quốc gia
có thể công nhận giáo dục, kinh nghiệm, các
yêu cầu, giấy phép và chứng nhận được cấp
ở một nước khác14. Thoả thuận công nhận
tay nghề tương đương là công cụ chính để
di chuyển lao động có tay nghề trong
ASEAN, các quốc gia có thể yêu cầu các
ứng viên phải đạt được các tiêu chuẩn tối
thiểu về kinh nghiệm hoặc hoàn thành một
cuộc kiểm tra để có hiểu biết đầy đủ các quy
tắc bản xứ. Tuy nhiên, việc thực hiện có hiệu
quả các thoả thuận công nhận tay nghề
tương đương sẽ đặt ra các vấn đề sau đó do
có sự khác biệt về trình độ phát triển giữa
các nước ASEAN15.
Theo mục tiêu của AEC, tám ngành
nghề chuyên môn ưu tiên tạo thuận lợi tự do
di chuyển và quyền tự do làm việc tại các
nước trong khu vực ASEAN là: thực hành y
tế16, thực hành nha khoa17, điều dưỡng18, tư
vấn kỹ thuật19, kiến trúc 20, kế toán, kiểm
toán21, khảo sát, chuyên gia và du lịch22. Do
mỗi ngành nghề chuyên môn có những đặc
điểm và tính độc đáo của riêng mình nên cơ
chế thực hiện khác nhau, thông qua 8 Thỏa
thuận là: thỏa thuận khung ASEAN thừa
nhận lẫn nhau về hành nghề y, thỏa thận
khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về hành
nghề nha khoa, thỏa thuận khung ASEAN
thừa nhận lẫn nhau về hành nghề điều
dưỡng, thỏa thận khung ASEAN thừa nhận
lẫn nhau về hành nghề tư vấn kỹ thuật, thỏa
thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau
về hành nghề kiến trúc, thỏa thuận khung
ASEAN thừa nhận lẫn nhau về hành
nghề kế toán và kiểm toán, thỏa thuận khung
ASEAN thừa nhận lẫn nhau về hành
nghề khảo sát, thỏa thuận thừa nhận lẫn
nhau về hành nghề du lịch.
Ngoài ra, ASEAN cũng đã ký Thỏa
thuận khung thừa nhận lẫn nhau về trình
độ khảo sát được ký ngày 19/11/2011 tại
Singapore nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn
khổ cho các nước ASEAN đã sẵn sàng tham
gia vào các cuộc đàm phán song phương và
đa phương về thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh
vực này, cũng như thúc đẩy trao đổi thông
tin, kỹ năng và các thực tiễn tốt. Tuy nhiên,
28
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13 Theo Điều 2 và 3 Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân năm 2012.
14 Điều 5 Hiệp định Khung ASEAN về dịch vụ (AFAS).
15 Chia, Siow Yue (2011), Free Flow of Skilled Labor in the AEC, in Urata, S. and M. Okabe (eds.), Toward a Compet-
itive ASEAN Single Market: Sectoral Analysis. ERIA Research Project Report 2010-03, pp. 225-226.
16 Ủy ban điều phối chung về người thực hành y tế (ASEAN Joint Coordinating Committee on Medical Practitioners-
AJCCM). Xem
17 Ủy ban điều phối chung về người thực hành nha khoa (The ASEAN Joint Coordinating Committee on Dental Prac-
titioners-AJCCD),
ajccd
18 Ủy ban điều phối chung về điều dưỡng (The ASEAN Joint Coordinating Committee on Nursing -AJCCN),
19 Ủy ban điều phối chung về kỹ sư chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN (the ASEAN Chartered Professional Engineer
Coordinating Committee -ACPECC),
20 Hội đồng Kiến trúc sư ASEAN (ASEAN Architect Council -AAC),
21 Liên đoàn Kế toán ASEAN (ASEAN Federation of Accountants -AFA),
22 Ủy ban điều phối chung về chuyên gia du lịch (ASEAN Tourism Professional Monitoring Committee-ATPMC).
cho tới nay vẫn chưa có một thỏa thuận thừa
nhận lẫn nhau song phương hay đa phương
nào được đưa ra trong lĩnh vực này.
Với những cơ sở pháp lý nêu trên, có
thể khẳng định rằng, tự do di chuyển lao
động tại ASEAN chỉ bao gồm tự do lưu
thông lao động có kỹ năng mà không bao
gồm lao động không lành nghề hay lao động
phổ thông.
2. Thuận lợi và thách thức đối với Việt
Nam trong thực hiện tự do di chuyển lao
động có tay nghề của ASEAN
2.1 Theo chúng tôi, đối với Việt Nam
thì việc thực hiện tự do di chuyển lao động
có tay nghề của ASEAN sẽ có một số thuận
lợi sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam đã hợp tác khá
chặt chẽ với các quốc gia trong khu vực về
di chuyển lao động có tay nghề.
Là một thành viên của AEC, Việt Nam
và các nước trong khu vực đã có những biện
pháp và chương trình hợp tác nhất định
nhằm thực hiện thành công mục tiêu của
AEC, phát triển kinh tế khu vực, khuyến
khích tự do di chuyển lao động có tay nghề
giữa các nước thành viên như: hợp tác bốn
nước Campuchia, Lào, Myanmar và Việt
Nam thuộc tiểu vùng Mê Công mở rộng
(GMS)23; Khu vực phát triển Đông Nam Á
gồm Brunei, Indonesia, Malaysia,
Philippines (BIMP-EAGA)24.
Chương trình Bộ trưởng Lao động
ASEAN-ALMs25 đã thiết lập hai cơ quan là:
Ủy ban ASEAN thực hiện Tuyên bố
ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của
lao động di cư (ACMW) 26 và Nhóm đặc
trách về Khung tham khảo trình độ chuyên
môn ASEAN (TF-AQRF)27. Việt Nam đã
cùng với các nước thành viên AEC ký kết các
thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương,
bước đầu tạo điều kiện cho tự do di chuyển
lao động có tay nghề thuộc tám ngành nghề
chuyên môn và hướng tới tự do di chuyển cho
các loại lao động khác. Đây là những cơ sở
pháp lý quan trọng để người lao động có tay
nghề của Việt Nam có thể di chuyển sang các
nước AEC khác, đặc biệt là các nước ASEAN
6 để lao động trong một môi trường làm việc
tốt hơn và thu nhập cao hơn.
Thứ hai, Việt Nam đang có lực lượng
lao động trẻ và năng động.
Trong khu vực ASEAN hiện nay, Việt
Nam là nước có dân số đông thứ 3 sau
Indonesia và Philippines. Chính vì vậy, với
chính sách thu hút lao động có tay nghề của
các nước ASEAN 6 thì lao động có tay nghề
29
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23 Hiện có 7 nhóm công tác chuyên ngành do các nước thành viên điều phối, cụ thể Việt Nam điều phối nhóm công tác
về thương mại - đầu tư, công nghệ thông tin và phát triển nguồn nhân lực. Xem Bộ Ngoại giao (2012), Các khuôn
khổ hợp tác trong tiểu vùng Mê Công, trên
VietNam/quanhevoicactochucquocte?categoryId=100002827&articleId=10050403.
24 Ishak Yussof and Mohd Yusof Kasim (2003), Human resource development and regional cooperation within BIMP-
EAGA: issues and future directions, Asia-Pacific Development Journal Vol. 10, No. 2, December 2003.
25 Hội nghị các Bộ trưởng Lao động ASEAN bắt đầu từ năm 1975, gần đây nhất là Hội nghị các Bộ trưởng Lao động
ASEAN lần thứ 23 ngày 19-23/05/2014 tại Myanmar. Xem thêm ASEAN labour ministers’ work programme 2010-
2015 (2013), Asean Secretariat Jakarta.
26 Ủy ban ASEAN thực hiện Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di trú (ASEAN Committee
on the Implementation of the Declaration on the Protection and Promotion of the Rights of Migrant Workers - ACMW).
Đây là một cơ quan đầu mối phối hợp việc thực hiện các cam kết trong Tuyên bố kể trên. Cơ quan này cũng thúc đẩy
sự phát triển của một văn kiện ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di trú thông qua việc hỗ trợ
trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong khu vực ASEAN và những hoạt động hợp tác song phương, khu vực khác trong
các vấn đề liên quan đến người lao động di trú. Xem Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Bảo vệ và thúc
đẩy quyền con người trong khu vực ASEAN, Nxb. Lao động - xã hội, H., tr. 92.
27 ASEAN Secretariat News (2013), ASEAN develops framework to facilitate movement of skilled labour and profes-
sionals, Xem
ment-of-skilled-labour-and-professionals, cập nhật ngày 19/04/2014.
của Việt Nam có nhiều cơ hội việc làm tại
các nước này. Đặc biệt, các chuyên gia trẻ
và sinh viên Việt Nam là một lực lượng với
tiềm năng lớn sẽ tham gia vào thị trường lao
động chung của AEC trong thời gian dài.
Phân tích của Liên hiệp quốc về nguồn nhân
lực Việt Nam cho thấy, Việt Nam đang ở
trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng - giai
đoạn 2010 - 2040 (tương tự như Indonesia
và Malaysia). Đây là giai đoạn nền kinh tế
có khả năng cất cánh để trở thành nước công
nghiệp. Có thể nói, đây là thời điểm tốt nhất
để nguồn nhân lực Việt Nam có thể tham gia
vào thị trường lao động AEC.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê,
quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên
ở Việt Nam là khoảng 70 triệu người, trong
đó số người ở tuổi lao động là 55 triệu
người28. Đây là nhóm tuổi tiềm năng để tiếp
thu được tri thức, kỹ năng mới để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao
động ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo dự báo
của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), mức
di chuyển lao động ban đầu của Việt Nam
sẽ dừng ở lại mức 1% nguồn nhân lực và chỉ
tập trung vào số nhân lực có kỹ năng và
trình độ ngoại ngữ29.
Thứ ba, hệ thống giao thông của Việt
Nam đã và sẽ kết nối rộng rãi với các nước
thành viên của AEC.
Hệ thống giao thông (đường bộ,
đường thủy, đường sắt, đường hàng không)
được coi là “cơ sở hạ tầng cứng” phát triển
hiện đại tạo nên sự liên kết chặt chẽ và thuận
tiện cho di chuyển lao động. Việt Nam đã
cùng với các nước ASEAN từng bước thúc
đẩy xây dựng một hệ thống giao thông hiệu
quả, an toàn và kết nối như các dự án đường
Bắc - Nam nối Nam Trung Quốc qua
Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam;
đường Hành lang Đông/Tây nối liền Myan-
mar, Thái Lan, Lào, và Việt Nam; dự án
đường kết nối các tỉnh miền trung của Lào
và Việt Nam; dự án đường kết nối Thủ đô
Viên Chăn với Thủ đô Hà Nội Bên cạnh
đó, với các dự án giao thông kết nối các
nước trong khu vực như: Đường ke
Nam/Nam nối cảng nước sâu Dawei của
Myanmar, Laem Chabang của Thái Lan và
Campuchia; dự án đường sắt cao tốc nối liền
Lào và Noọng Khai đến biên giới phía Nam
của Thái Lan và Malaysia sẽ từng bước
đẩy mạnh tính cạnh tranh của ASEAN với
mục tiêu kết nối kinh tế trong khu vực,
hướng tới tầm nhìn sau năm 2015 và lộ trình
hợp tác kết nối ASEAN trong tương lai.
Với sự kết nối về giao thông của Việt
Nam với các nước trong khu vực, trong
tương lai gần, người lao động Việt Nam sẽ
dễ dàng, thuận lợi hơn trong việc di chuyển
đến các nước trong khu vực để lao động,
góp phần thực hiện thành công mục tiêu một
thị trường chung, một cơ sở sản xuất thống
nhất của AEC. Bởi lẽ, kết nối giao thông
chính là điều kiện để kết nối con người nói
chung và kết nối người lao động với thị
trường lao động nói riêng.
2.2 Bên cạnh những thuận lợi nêu
trên, Việt Nam sẽ gặp một số thách thức khi
thực hiện quyền di chuyển lao động trong
AEC sau đây:
Một là, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ và ngoại ngữ, kỹ năng mềm của người
lao động Việt Nam còn thấp
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê
năm 201230, ở nước ta, lao động phổ thông
không có chuyên môn kỹ thuật chiếm
83,28% tổng số lao động; lao động đã qua
đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao
động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là
30
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Xem
viet-20160902142422208.chn.
29 Xem thêm
start-up-viet-20160902142422208.chn.
30 Xem
3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng,
đại học trở lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, lao động qua
đào tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy
và thường xuyên, phi chính quy, dạy nghề
dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp)
chiếm khoảng 34% tổng số lao động trong
cả nước31.
Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân
lực của nước ta có khoảng cách khá lớn so
với các nước trong khu vực. Ngân hàng Thế
giới đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động
có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc
cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng
nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm,
xếp thứ 11/12 nước châu Á (trong khi Hàn
Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm;
Malaysia đạt 5,59 điểm...) Do vậy, năng suất
lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở
châu Á - Thái Bình Dương (thấp hơn
Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11
lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần). Năng
suất lao động của Việt Nam bằng 1/5
Malaysia và 2/5 Thái Lan32.
Mặt khác, ngôn ngữ được xem là “cơ
sở hạ tầng mềm” có thể đem lại cho người
lao động một số quyền, lợi ích; Hiện nay, tại
các nước ASEAN, ngôn ngữ được sử dụng
khá đa dạng33, nhưng tiếng Anh được sử
dụng phổ biến nhất. Người lao động các
nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan
và Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn các
công dân của một số nước nói tiếng Anh như
Singapore, Malaysia và Philippines34.
Theo số liệu khảo sát của các công ty
việc làm thì Việt Nam chỉ đứng hạng 4/5 về
tiếng Anh so với các nước trong khu vực.
Trong khảo sát đối với lao động mới ra
trường, chỉ có 5% tự tin về khả năng tiếng
Anh và 27% thừa nhận mình kém toàn diện
về ngoại ngữ35. Do đó, dù có lợi thế về sự
hiểu biết về thị trường nội địa, năng suất lao
động nhưng việc thiếu kỹ năng hoàn thiện,
đặc biệt là ngoại ngữ, cũng là một trong
những yếu tố cần lưu tâm để lao động Việt
Nam có thể cạnh tranh với lao động các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, trước
khi nghĩ đến việc di chuyển sang các nước
thành viên AEC khác để lao động36.
Trước thực tế đó, các trường đại học,
cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy
nghề của Việt Nam cần phải có những thay
đổi nhanh chóng và mạnh mẽ cả về nội dung
và hình thức đào tạo, theo hướng chú trọng
đào tạo cả về trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, tay nghề, ngoại ngữ, tin học và văn hóa
các nước ASEAN để công dân Việt Nam
sớm trở thành “công dân khu vực” trước khi
trở thành “công dân toàn cầu”.
Hai là, chính sách bảo vệ lao động
trong nước của các nước thành viên AEC
Nhằm mục đích bảo vệ lao động trong
nước, một số nước thành viên của AEC đã
thiết lập các “rào cản kỹ thuật” để hạn chế
lao động nhập cư. Ví dụ, Thái Lan đã liệt kê
khoảng 40 nghề cấm người nước ngoài làm
việc, trong đó có những nghề thuộc nhóm tự
do dịch chuyển của ASEAN37; Singapore
quy định bên sử dụng lao động phải đăng
tuyển dụng tại ngân hàng việc làm của
Chính phủ ít nhất 14 ngày trước khi lao
động nước ngoài được phép dự tuyển; tại
Maylaysia, nếu một kỹ sư nước ngoài muốn
đến làm việc ở nước này, thì cơ quan nhập
cư sẽ yêu cầu người đó phải chứng minh
mình đang làm một công việc hoặc dự án mà
31
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
31 Xem
32 Xem
33 Ngôn ngữ của các nước ASEAN: Malay, Anh, Khmer, Indonesia, Lao, Vietnam, Tây Ban Nha, Myanma, Phillipine,
Tamil, Trung Quốc, Thái. Xem:
34 Chia, Siow Yue (2011), ‘Free Flow of Skilled Labor in the AEC’, in Urata, S. and M. Okabe (eds.), Toward a Com-
petitive ASEAN Single Market: Sectoral Analysis. ERIA Research Project Report 2010-03, pp.227-230. Jakarta:
ERIA.
35 Xem
36 Xem thêm
37 Xem thêm
trong đó không có người Maylaysia nào đủ
năng lực38
Chính vì vậy, bên cạnh những rào cản
tự nhiên như ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa thì
các rào cản kỹ thuật sẽ làm cho lao động
Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn để tìm
kiếm cơ hội việc làm tại các các nước như
Singapore, Thái Lan và Malaysia.
Ba là, chênh lệch giữa Việt Nam với
các nước thành viên ASEAN 6 về phát triển
kinh tế - xã hội
Do sự gia tăng dân số nhanh chóng
với cấu trúc trẻ nên Việt Nam đang phải
đương đầu với tình trạng “thừa lao động phổ
thông, thiếu lao động có trình độ, lành
nghề”. Bên cạnh đó, một bộ phận lao động
có chuyên môn đang có xu hướng di chuyển
đến các nước phát triển trong nhóm
ASEAN-6 để tìm kiếm việc làm với điều
kiện lao động và thu nhập tốt hơn. Điều này,
một mặt, sẽ thúc đẩy tính cạnh tranh của thị
trường lao động; mặt khác, sẽ kiến cho tình
trạng chảy máu chất xám lao động Việt Nam
ngày càng khốc liệt hơn. Theo số liệu của
Tổ chức Di cư quốc tế của Liên hiệp quốc
(IOM) năm 2016, khoảng 87% lao động di
cư ở ASEAN là người có tay nghề thấp hoặc
có trình độ thấp. Trong đó, 91% công nhân
trong khu vực ASEAN tìm việc làm ở
Malaysia, Thái Lan hoặc Singapore39.
Một dòng chảy tự do lao động có tay
nghề được dự kiến trong cộng đồng ASEAN
hiện nay đang tạo ra nhiều cơ hội và thách
thức mới cho cả khu vực, trong đó có Việt
Nam. Ở các nước như Campuchia, Lào,
Malaysia và Philippines, lực lượng lao động
sẽ tiếp tục tăng trưởng tương đối nhanh
chóng và cao hơn 1,5% mỗi năm, trong khi
các nước như Myanmar, Singapore, Thái
Lan và Việt Nam sẽ phải đối mặt với suy
thoái đáng kể về lực lượng lao động ít hơn
1% mỗi năm40. Điều này dẫn đến sự khác
nhau đáng kể về tỷ lệ thất nghiệp giữa các
nước: từ năm 2005 - 2013, tỷ lệ thất nghiệp
ở các nước Indonexia và Phiplippines cao
nhất lên đến 7%, tiếp đến là Brunei,
Myanmar, Malaysia, Singapore trong khi
Campuchia, Thái Lan, Lào, Việt Nam có tỷ
lệ thất nghiệp thấp41; tỷ lệ dân số có việc làm
tại Singapore cao nhất 63,5% (năm 2010)42.
Sự chênh lệch giữa sự phát triển lực lượng
lao động và cơ hội việc làm cộng thêm sự
khác biệt về thu nhập và một số yếu tố khác
giữa các quốc gia, đã dẫn đến việc một
nhóm các quốc gia sẽ “kéo” còn một nhóm
các quốc gia sẽ “đẩy” người lao động có kỹ
năng di chuyển qua biên giới. Hiện nay, các
nước phát triển trong khu vực ASEAN ngày
càng thu hút lao động nhập cư có tay nghề
cao từ các nước khác, tạo ra những thách
thức của quá trình hội nhập kinh tế không
phải là chỉ quốc gia, mà còn cả khu vực.
Sự chênh lệch về thu nhập bình quân
đầu người giữa các nước ASEAN-6 và
ASEAN 4 cũng là một thách thức đặt ra đối
với tự do di chuyển lao động có tay nghề.
Năm 2012, thu nhập bình quân đầu người
của Singapore là 51.162 USD/người, của
Burnei là 41.703 USD/người, còn
Campuchia và Myanmar có mức thu nhập
bình quân đầu người tương ứng là 934 và
835 USD/người43. Do vậy, chảy máu “lao
động tay nghề cao” từ các nước ASEAN 4 -
trong đó có Việt Nam - sang các nước
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
38 Xem
39 Xem Institutions and Economies, Vol 8,No.4, october 2016, pp.59-76, trên
ers%20in%20ASEAN%20Social%20Security%20Systems.pdf.
40 International Labour Organization (2014), “Global Employment Trends 2014 Risk of a jobless recovery?”, ILO,p.58.
41 Bảng 4.3 Tỷ lệ thất nghiệp tại các nước ASEAN từ 2005-2013.
42 Bảng 4.2 Tỷ lệ người có việc làm so với tổng số dân tại các nước Singpore, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonexia
(ASEAN-5).
ASEAN 6 là điều không thể tránh khỏi và
không dễ khắc phục nếu nước ta không có
những nỗ lực vượt bậc để kinh tế - xã hội
của đất nước tiệm cận và ngang bằng với các
nước thành viên ASEAN 6.
Hiện nay, ba quốc gia ASEAN đang là
điểm đến chính của lao động nhập cư là
Malaysia, Singapore và Thái Lan (chiếm gần
90%). Trong đó, Malaysia có 42,6% lao
động nhập cư từ Indonesia; Singapore có
45% lao động nhập cư từ Malaysia; Thái Lan
có 50,8% lao động nhập cư từ Myanmar44.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam đang có
nguy cơ phải đối mặt với hiện tượng thất
nghiệp, mất việc làm “trên sân nhà”. Theo
đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam
đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề,
công nhân kỹ thuật bậc cao. Chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam còn hạn chế,
có khoảng cách khá lớn so với các nước phát
triển trong khu vực. Nếu lấy thang điểm là
10, Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm - xếp thứ
11/12 nước châu Á45. Việc thiếu hụt lao
động lành nghề, nhân lực qua đào tạo sẽ dẫn
đến hệ quả là, lao động có tay nghề cao, kỹ
năng mềm tốt của các nước khác sẽ vào Việt
Nam, dẫn đến là tình trạng thất nghiệp ở
Việt Nam sẽ tăng lên.
3. Một số kiến nghị
Đứng trước những thách thức nêu
trên, nhằm bảo đảm cho Việt Nam thực hiện
tốt những cam kết về tự do di chuyển lao
động của AEC, chúng tôi đề xuất một số
kiến nghị sau đây:
- Chính phủ cần đẩy mạnh công tác
thông tin, tuyên truyền về AEC, đặc biệt về
lao động có tay nghề, các tiêu chuẩn cụ thể
được các nước ASEAN khác công bố và áp
dụng, tránh tình trạng doanh nghiệp và
người lao động Việt Nam “mù mờ” về
AEC46; tổng kết kinh nghiệm thích nghi và
sẵn sàng của các quốc gia khác để làm bài
học tham chiếu cho Việt Nam; công bố công
khai thông tin về tình hình lao động các
nước để các doanh nghiệp, người lao động
tiếp cận thuận lợi; các thỏa thuận được ký
kết cần thông báo cụ thể đến từng doanh
nghiệp và người lao động, đặc biệt tới đội
ngũ sinh viên các trường đại học, cao đẳng,
phổ thông trung học, trung tâm dạy nghề
chuẩn bị tốt nghiệp; tổ chức nhiều hội thảo,
diễn đàn, mở nhiều trang thông tin điện tử
để thông tin hiệu quả hơn nữa về AEC.
Chính phủ cần tổ chức lại và phát triển
các cơ sở đào tạo và trung tâm đào tạo nghề
nghiệp nhằm thích nghi với điều kiện thành
lập AEC, trong đó cần chú ý đào tạo ngôn
ngữ các nước ASEAN47; công bố chứng chỉ
của các cơ quan được ASEAN thừa nhận để
doanh nghiệp và người lao động có thể tiếp
cận cũng như yêu cầu các nước ASEAN
khác công bố thông tin này trên cổng thông
tin điện tử của Việt Nam; cần xây dựng và
thực hiện chính sách bảo vệ người lao động
trong nước như Singapore, Thái lan hay
Maylaysia đã và đang thực hiện.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
cần xây dựng một cổng thông tin điện tử
quốc gia về thị trường lao động trong AEC
hoặc sàn giao dịch, chợ việc làm trong AEC
với thông tin thiết thực về chính sách, tiêu
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
43 Xem Bảng 2. Thu nhập bình quân đầu người tại các quốc gia thành viên ASEAN và EU-EFTA.
44 Xem them
start-up-viet-20160902142422208.chn.
45
Nam-khi-gia-nhap-cong-dong-kinh-te-ASEAN/Default.aspx.
46 Số liệu khảo sát tháng 01/2016 cho thấy, khoảng 60% doanh nghiệp Việt Nam không biết gì về AEC. Phần lớn thanh
niên, trí thức trẻ của Việt Nam - đối tượng bị tác động trực tiếp từ thị trường lao động chung - cũng khá mù mờ về
AEC. Xem thêm
47 Từ ngày 1/1/2017, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ quản lý nhà nước lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, trừ các
trường sư phạm, ngành đào tạo giáo viên.
chuẩn, mức tiền lương, điều kiện sinh hoạt
để người dân dễ dàng tiếp cận.
- Các doanh nghiệp cần tích cực, chủ
động nghiên cứu thị trường ASEAN, trong
đó có thị trường lao động để có thể hiểu rõ
hơn các tiêu chuẩn nghề nghiệp, nhằm có kế
hoạch thích nghi; tổ chức các khóa đào tạo
kỹ năng, tay nghề, rèn luyện thể lực, cường
độ và năng suất lao động - có thể thực hiện
trong vòng 6 tháng đến 12 tháng - nhằm rèn
luyện các loại kỹ năng cần thiết và cập nhật
thông tin để thích nghi với thị trường các
nước ASEAN; xây dựng kế hoạch đưa lao
động Việt Nam tham gia vào các dự án đầu
tư, dịch vụ hoặc hoạt động thương mại để
nâng cao kiến thức, tích lũy kinh nghiệm,
rèn luyện kỹ năng chuyên nghiệp cao nhằm
đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thị trường
ASEAN48.
Bên cạnh đó, cần hình thành hệ thống
các công ty đào tạo lao động có kỹ năng cao
thuộc các loại ngành nghề được ASEAN
công bố, mà giai đoạn trước mắt là tám
ngành nghề đã được các nước AEC thỏa
thuận tự do di chuyển gồm: y, nha khoa,
điều dưỡng, kế toán và kiểm toán, tư vấn kỹ
thuật, kiến trúc, khảo sát và du lịch; kết hợp
với các cơ sở đào tạo, cơ quan cấp chứng chỉ
hành nghề nhằm tạo môi trường tốt nhất cho
lao động Việt Nam khi tham gia thị trường
lao động trong AEC.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần đẩy mạnh
hợp tác quốc tế về dạy nghề, nhất là với
những nước thành công trong phát triển dạy
nghề ở khu vực ASEAN và trên thế giới;
tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ
phát triển chính thức ODA cho dạy nghề;
hợp tác với các nước ASEAN để tiến tới
công nhận kỹ năng nghề giữa các nước, tích
cực tham gia vào các hoạt động của khu vực
và thế giới để giao lưu và học hỏi kinh
nghiệm, như tham gia Hội thi tay nghề
ASEAN, Hội thi tay nghề thế giới... Đây là
những hoạt động tiếp thị rất hiệu quả về chất
lượng của lao động Việt Nam với các nước
trong khu vực n
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
48 Xem thêm
viet-nam-khi-tham-gia-cong-dong-kinh-te-asean-%28aec%29-125973.tld.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. J. Carbonnier, Droit civil – Les biens, Presse Universitaire de France, Paris, 2000.
2. F. Lawson và B. Rudden, The Law of Property, Oxford University Press, London, 2002.
3. S. Normand, Du droit de superficie à la propriété superficiaire, Revue générale de droit, Québec, 2008.
4. F. Terré và Ph. Simler, Droit civil – Les biens, Précis Dalloz, Paris, 2006.
5. Trường Đại học Mở, Giáo trình Luật Dân sự - Tập 1, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2016.
6. Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, Tập 2 - Di sản, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1966.
Đáng lý ra, nếu các tài sản gắn liền
với đất thuộc loại phải đăng ký (như nhà),
thì quyền sở hữu bề mặt xác lập đối với các
tài sản đó cũng phải được đăng ký. Trong
trường hợp tài sản gắn liền với đất không
thuộc loại phải đăng ký quyền sở hữu (như
vườn cây), thì quyền sở hữu bề mặt cũng
không cần được đăng ký. Thực ra, quyền sở
hữu bề mặt không đăng ký và nói chung, bất
động sản không đăng ký không phải là một
chế định cần được hoàn thiện, mà chỉ là một
hiện tượng phát sinh từ tình trạng chưa hoàn
thiện của pháp luật về tài sản. Việc xây dựng
một luật về đăng ký tài sản được kỳ vọng sẽ
khắc phục được tình trạng này n
NHÛÄNG ÀIÏÍM MÚÁI ...
(TiÕp theo trang 19)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_do_di_chuyen_lao_dong_co_tay_nghe_cua_asean_nhung_thuan_l.pdf