Đối với Việt Nam, mức độ mở cửa
ngành và các phân ngành của dịch vụ phân
phối qua các Gói cam kết theo lộ trình và
cho đến Gói cam kết cuối cùng thứ 10 vẫn
không mở hơn về mức độ cam kết. Mặc dù
có thể nhận thấy, trong một số gói cam kết
dịch vụ gần đây của AEC, mức độ cam kết
của Việt Nam đã bắt đầu cao hơn so với
WTO, phù hợp với mức độ mở cửa thực tế
về dịch vụ của đất nước nhưng dịch vụ phân
phối không nằm trong nhóm đó. Kết quả
trong AFAS chỉ tương tự như những gì đã
đàm phán đạt được trong WTO, nghĩa là vẫn
duy trì ở mức ngang bằng cam kết trong
WTO. Khi so sánh với một số nước khác
trong khu vực như Cambodia và Singapore,
nhất là Singapore hầu như không có hạn chế
nào về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia
ở cả 4 phân ngành trừ một số mặt hàng đối
với dịch vụ đại lý và bán buôn cũng như các
loại trừ các cam kết đã ký kết trong WTO
đối với cam kết chung, Việt Nam vẫn chưa
có sự cởi mở thị trường mang tính đột phá.
Từ đó, hệ thống pháp luật cũng chưa có sự
biến chuyển lớn nhằm tạo tiền đề và hành
lang pháp lý cho việc thực thi cam kết rộng
mở hơn. Mục tiêu mà các hiệp định thương
mại tự do hướng đến là nhằm giảm bớt và
loại bỏ rào cản thương mại; trong khi WTO
chỉ thành công trong việc giảm bớt chứ chưa
đạt được mức loại bỏ rào cản thương mại
như trong các FTA, thì lẽ ra đàm phán và
cam kết của các quốc gia thành viên AEC
phải đạt được mục tiêu bản chất đó. Như
vậy, trong nỗ lực mở cửa thị trường dịch vụ
của mình, với những quan điểm thống nhất
về hội nhập nói chung, Việt Nam cần tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tự
do hóa làm nền tảng cho những thay đổi về
tự do hóa dịch vụ phân phối về sau, nhằm
đạt được lợi ích lâu dài trong khu vực
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tự do hóa dịch vụ phân phối tại Việt Nam trong khuôn khổ cộng đồng kinh tế Asean, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Mở đầu
Trong số các lĩnh vực dịch vụ ở các gói
cam kết trong AFAS, dịch vụ phân phối
được cả 10 nước thành viên ASEAN đàm
phán và ký kết với những nội dung đáng chú
ý do tính chất quan trọng của lĩnh vực này
đối với kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia.
Phân phối là sự kết nối giữa nhà sản xuất với
người tiêu dùng cuối cùng, và nó có đóng
góp to lớn vào GDP các nước. Danh mục
phân loại các ngành dịch vụ của WTO chia
dịch vụ thành 11 ngành chính, mỗi ngành
chia thành nhiều ngành nhỏ, tổng cộng là
155 phân ngành. Trong đó, dịch vụ phân
phối, một trong những ngành dịch vụ chính
theo danh mục này, được xác định bao gồm
tỰ do hÓa dịch vỤ phÂn phối tẠi việt naM
trong khuÔn khỔ cỘng đỒng kinh tế aSEan
Nguyễn Lê Lý*
* ThS. Khoa kinh tế, Trường Đại học Bạc Liêu
Tóm tắt:
Theo danh mục phân loại các ngành dịch vụ của WTO, dịch vụ
phân phối được xác định bao gồm 5 phân ngành là dịch vụ bán
buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ đại lý uỷ quyền/ uỷ thác, nhượng
quyền/ cấp đặc quyền kinh doanh và “loại khác”. Khi thực hiện
đàm phán, ký kết và thực thi các gói cam kết trong Hiệp định
khung về dịch vụ AFAS, Việt Nam đã có những cam kết tự do
hóa dịch vụ trong lĩnh vực này. Mặc dù so với một số nước thành
viên ASEAN, mức độ mở cửa của Việt Nam là rộng mở nhưng so
với cam kết tương tự trong WTO vẫn chưa có sự đột phá sâu sắc
nào. Do vậy, vẫn còn trông đợi sự biến chuyển lớn trong hệ thống
pháp luật nhằm tạo tiền đề cho việc thực thi cam kết rộng mở hơn
để đạt được lợi ích lâu dài trong khu vực.
Abstract:
According to the services sectoral classification list of the World
Trade Organization, the distribution services comprise five
sub-sectors: commission agents; wholesale trade; retailing;
franchising; and a residual category “other”. In complying with
the ASEAN Framework Agreement on Services (AFAS)
commitment’s schedule through the 10 packages of those,
Vietnam has committed on liberalization of this field. In
comparison with some other ASEAN countries, the Vietnam’s
level of opening market is high with some effort to liberalize
distribution services within the region. However, there has been
no any breakthrough when being compared to its commitments
in WTO. Therefore, it is expected on the significant alternative in
the law system as a premise for the higher level of openness
market in the future.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: dịch vụ phân phối; tự do
thương mại; cộng đồng kinh tế ASEAN
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 24/12/2019
Biên tập : 05/01/2020
Duyệt bài : 07/01/2020
Article Infomation:
Keywords:distribution services; free
trade; ASEAN economics community
Article History:
Received : 24 Dec. 2019
Edited : 05 Jan. 2020
Approved : 07 Jan. 2020
Số 4(404) - T2/202022 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
5 phân ngành là dịch vụ bán buôn, dịch vụ
bán lẻ, dịch vụ đại lý uỷ quyền/ uỷ thác,
nhượng quyền/ cấp đặc quyền kinh doanh và
“loại khác”1. Ngành phân phối là đối tượng
của nhiều quy định có tác động hạn chế kinh
doanh và hạn chế thương mại ở các cấp độ
khác nhau2. Do vậy, các cam kết của các
quốc gia trong các hiệp định thương mại đa
phương hay song phương sẽ có ý nghĩa lớn
trong việc thực hiện quyền kiểm soát quốc
gia trong lĩnh vực này, thể hiện những xu
hướng quản lý dịch vụ phân phối thông qua
những quy định hay cam kết về hạn chế tiếp
cận thị trường, điều kiện hoạt động sau khi
đã thiết lập hiện diện thương mại và nhiều
quy định khác.
Trong làn sóng hội nhập với rất nhiều
Hiệp định thương mại tự do (FTA) được đàm
phán và ký kết ở cấp độ quốc gia hay khu
vực, tiến trình AFAS cùng với các Gói cam
kết đã hoàn thành và có hiệu lực thi hành,
những cam kết của Việt Nam về dịch vụ phân
phối đã được xác định và thực thi, thể hiện
mức độ mở cửa thị trường, khả năng tiếp
nhận đầu tư nước ngoài, năng lực cạnh tranh,
sự đáp ứng nhu cầu và quyền lợi của người
tiêu dùng trong lĩnh vực này của Việt Nam.
2. Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ
phân phối của Việt Nam trong cộng đồng
kinh tế ASEAN – đối sánh với các quốc
gia thành viên ASEAN và với WTO
Tương tự như WTO, kết quả đàm phán
của Việt Nam qua 10 Gói cam kết chung
theo AFAS thể hiện qua Biểu cam kết bao
gồm phần cam kết chung, phần cam kết cụ
thể và danh mục các biện pháp miễn trừ đối
xử tối huệ quốc. Phần cam kết chung bao
gồm các cam kết áp dụng cho tất cả các
ngành dịch vụ xuất hiện trong Biểu cam kết
dịch vụ, áp dụng cho tất cả các ngành được
đưa vào cam kết, trừ khi có quy đinh khác
tại cam kết ngành. Phần cam kết cụ thể bao
gồm các cam kết áp dụng cho từng dịch vụ
đưa vào Biểu cam kết dịch vụ, với mỗi dịch
vụ được liệt kê đều có cam kết cụ thể đi kèm,
qua đó thể hiện mức độ mở cửa thị trường
đối với từng dịch vụ cho các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài. Danh mục các biện pháp
miễn trừ đối xử tối huệ quốc (MFN) liệt kê
các biện pháp các thành viên đàm phán cho
phép duy trì3.
Về cấu trúc, Biểu cam kết dịch vụ gồm
4 cột: i) Cột mô tả ngành/phân ngành thể
hiện tên và mã số của dịch vụ cụ thể được
đưa vào cam kết; ii) Cột hạn chế tiếp cận thị
trường liệt kê các biện pháp hạn chế mà
thành viên đưa ra cam kết muốn áp dụng cho
các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài4; iii)
Cột hạn chế đối xử quốc gia liệt kê các biện
pháp mà thành viên đưa ra cam kết muốn
duy trì để phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp
dịch vụ trong nước với nhà cung cấp dịch vụ
1 World Trade Organization (1991), Services Sectoral Classification List, MTN.GNS/W/120.
2 Dự án hỗ trợ thương mại đa biên MUTRAP III (2011), Báo cáo rà soát khuôn khổ pháp lý về dịch vụ phân
phối ở Việt Nam và những khuyến nghị về sự phù hợp của quy định chuyên ngành với cam kết WTO.
3 Nguyên tắc MFN là nguyên tắc quan trọng của WTO; theo đó, các thành viên không được phân biệt đối xử
giữa dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của thành viên này với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của thành
viên khác. Tuy nhiên, GATS cho phép một thành viên được vi phạm nguyên tắc MFN nếu thành viên này
đưa biện pháp vi phạm vào danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc và được các thành viên
khác chấp thuận.
4 GATS quy định 6 loại biện pháp hạn chế bao gồm: 1) hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ; 2) hạn chế
về tổng giá trị của các giao dịch hoặc tài sản; 3) hạn chế về tổng số hoạt động dịch vụ hoặc số lượng dịch
vụ cung cấp; 4) hạn chế về số lượng lao động; 5) hạn chế hình thức thành lập doanh nghiệp; và 6) hạn chế
vốn góp của nước ngoài. Cách tiếp cận của AFAS tương tự như vậy.
23Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
nước ngoài; iv) Cột cam kết bổ sung liệt kê
các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động
cung cấp và tiêu dùng dịch vụ nhưng không
thuộc về hạn chế tiếp cận thị trường hay hạn
chế về đối xử quốc gia.
Đối với phương thức cung cấp dịch vụ,
về cơ bản cũng được thực hiện theo các
phương thức cung cấp dịch vụ như trong
WTO cũng như các yêu cầu đặt ra về tự do
hóa của AEC Blueprint. Tuy nhiên, các Gói
cam kết trong khuôn khổ Hiệp định AFAS
chỉ đề cập đến 3 phương thức là cung cấp
dịch vụ qua biên giới (phương thức 1), tiêu
dùng ngoài lãnh thổ (phương thức 2), hiện
diện thương mại của các nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài (phương thức 3); riêng hiện
diện thể nhân (phương thức 4) được tách ra
đàm phán riêng trong Hiệp định về di
chuyển thể nhân ASEAN (MNP).
Căn cứ Biểu cam kết trong Gói cam kết
thứ 9 bao gồm phần cam kết chung, phần
cam kết cụ thể và danh mục các biện pháp
miễn trừ đối xử tối huệ quốc nêu trên, cam
kết của Việt Nam trong dịch vụ phân phối cụ
thể như sau5:
2.1. Về phương thức 1 và phương
thức 2
Phần cam kết chung không đề cập tới
phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới
và phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ.
Như vậy, Việt Nam hiện không duy trì các
quy định hoặc biện pháp hạn chế áp dụng
chung cho 2 phương thức này. Ngoài ra, Việt
Nam cam kết không hạn chế đối với tiếp cận
thị trường và đối xử quốc gia đối với phương
thức 1 trong việc phân phối các sản phẩm sử
dụng cá nhân và phân phối phần mềm hợp
pháp để sử dụng cá nhân và sử dụng thương
mại. Các nước Brunei, Indonesia, Lao,
Myanmar, Malaysia, Philippines, Thailand
cũng không duy trì các quy định hoặc biện
pháp hạn chế áp dụng chung cho phương
thức 1 và 2.
2.2. Về phương thức 3
Đây là cam kết về mở cửa cho đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong dịch vụ phân phối
thông qua các hình thức pháp lý mà tổ chức,
cá nhân cung cấp dịch vụ nước ngoài có thể
thành lập để hoạt động ở Việt Nam. Theo
Biểu cam kết, về nguyên tắc không có hạn
chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia
đối với phương thức 3, ngoại trừ những hạn
chế được liệt kê tại Biểu cam kết. Điều này
có nghĩa là Việt Nam chấp nhận các cam kết
chung về tiếp cận thị trường đối với phương
thức 3 dưới đây:
- Các doanh nghiệp nước ngoài có thể
thiết lập hiện diện thương mại dưới hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài;
- Cho phép thành lập các văn phòng đại
diện của các nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài, nhưng không được tham gia vào các
hoạt động sinh lợi nhuận; về thành lập chi
nhánh áp dụng đối với dịch vụ nhượng
quyền;
- Điều kiện sở hữu vốn, hoạt động, hình
thức pháp nhân và phạm vi hoạt động được
quy định tại giấy phép thành lập hoặc cho
phép hoạt động và cung cấp dịch vụ, hoặc
các hình thức chấp thuận tương tự khác, của
các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài hiện
5 Gói cam kết thứ 9 ký kết ngày 27/11/2015 tại Makati City, Philippines, có hiệu lực sau 180 ngày để các
quốc gia thành viên phê duyệt/ phê chuẩn. Gói cam kết thứ 10 ký kết ngày 11/11/2018 tại Singapore, có
hiệu lực sau 90 ngày để các quốc gia thành viên phê duyệt/ phê chuẩn. Nội dung cam kết được phân tích
trong bài viết này là các cam kết trong Gói cam kết thứ 9 đang có hiệu lực thi hành, có so sánh với Gói cam
kết thứ 10.
Số 4(404) - T2/202024 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
tại sẽ không bị hạn chế hơn so với mức thực
tế đang áp dụng;
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài được cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam cho phép thuê đất để thực hiện dự án
đầu tư của mình. Thời hạn thuê đất phải phù
hợp với thời hạn hoạt động của các doanh
nghiệp này, được quy định trong giấy phép
đầu tư. Thời hạn thuê đất sẽ được gia hạn khi
thời gian hoạt động của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài được cơ quan có thẩm
quyền gia hạn.
2.3. Về phạm vi sản phẩm được quyền
phân phối theo lộ trình
Theo Biểu cam kết, nhà phân phối có
vốn đầu tư nước ngoài được phép phân phối
các sản phẩm tại Việt Nam theo lộ trình thời
gian sau đây:
Từ ngày 11/01/2007 được quyền phân
phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt
Nam và các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp
vào Việt Nam, ngoại trừ xi măng và clinke;
lốp (trừ lốp máy bay); giấy; máy kéo;
phương tiện cơ giới; ô tô con và xe máy; sắt
thép; thiết bị nghe nhìn; rượu và phân bón.
Từ ngày 01/01/2009, bổ sung thêm quyền
phân phối thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng,
bán buôn và bán lẻ đối với các sản phẩm
máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con và xe
máy. Từ ngày 11/01/2010, hay nói cách khác
là tính đến thời điểm Gói cam kết có hiệu
lực, không có bất kỳ hạn chế nào về sản
phẩm được phép phân phối miễn là các sản
phẩm đó được sản xuất tại Việt Nam hoặc
được nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.
Cần lưu ý, các sản phẩm loại trừ khỏi
Biểu cam kết dịch vụ phân phối (với tên gọi
“các biện pháp áp dụng đối với mọi phân
ngành trong lĩnh vực dịch vụ phân phối”)
bao gồm thuốc lá và xì gà, sách, báo và tạp
chí, vật phẩm đã ghi hình, kim loại quý và
đá quý, dược phẩm, thuốc nổ, dầu thô và dầu
đã qua chế biến, gạo, đường mía và đường
củ cải. Đây là những sản phẩm nhạy cảm mà
Chính phủ không muốn cho phép nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài phân phối tại Việt
Nam. Nhà phân phối nước ngoài cũng không
được phép bán lẻ tất cả những sản phẩm này.
Ở cơ sở bán lẻ tại Việt Nam, chẳng hạn như
liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài, cũng như không được phân
phối trực tuyến hoặc bằng bất kỳ hình thức
thương mại điện tử nào khác.
Đối với phạm vi sản phẩm được quyền
phân phối, một số nước luôn có sự loại trừ
tùy thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội cũng
như mục tiêu quản lý nên các hạn chế này
trở nên phổ biến, đa dạng trong nội dung
Biểu cam kết WTO. Chẳng hạn, Úc và
Brazil đều loại trừ phương tiện cơ giới, các
linh kiện và phụ tùng của phương tiện cơ
giới, xe máy, xe trượt tuyết máy và các linh
kiện, phụ kiện kèm theo. Canada có quy định
hạn chế đối với rượu, rượu vang, bia, tác
phẩm âm nhạc, băng đĩa audio và video, các
loại sách, tạp chí, báo, tuần báo, dược liệu
và thuốc, thiết bị chỉnh hình và các bản nhạc
in. Ba Lan loại trừ các loại nước uống không
tiêu dùng tại chỗ, các sản phẩm thuốc lá,
dược phẩm, thuốc và các thiết bị chỉnh hình,
phương tiện cơ giới, các linh kiện và phụ
tùng của phương tiện cơ giới, xe máy, xe
trượt tuyết và các linh kiện phụ tùng có liên
quan6. Riêng đối với các thành viên ASEAN,
Biểu cam kết về dịch vụ phân phối của các
nước trong AFAS hầu như không có phần
“các biện pháp áp dụng đối với mọi phân
ngành trong lĩnh vực dịch vụ phân phối”
6 Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2005), Tổng quan các vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ,
Nxb. Chinh trị quốc gia, tr.186-187.
25Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
nhưng ở cả Gói cam kết 9 và 10, Philippines
loại trừ gạo và ngành ngô đối với dịch vụ đại
lý thương mại; Singapore loại trừ bán hàng
dược phẩm và mỹ phẩm đối với dịch vụ đại
lý thương mại, loại trừ hàng dược phẩm và
mỹ phẩm, dụng cụ phẫu thuật và chỉnh hình
đối với dịch vụ bán buôn.
2.4. Về kiểm tra nhu cầu kinh tế
Hạn chế chung trong hoạt động của các
hình thức hiện diện thương mại này là chỉ
được phép cung cấp dịch vụ bán lẻ thông
qua việc lập cơ sở bán lẻ. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước
ngoài chỉ được tự động mở một địa điểm bán
lẻ, việc thành lập các cơ sở bán lẻ (ngoài cơ
sở thứ nhất) phải được cơ quan có thẩm
quyền cho phép trên cơ sở kiểm tra nhu cầu
kinh tế (ENT)7. Trong cam kết ở Gói 9 và
10, Việt Nam áp dụng nội dung này cho dịch
vụ bán lẻ. Theo đó, việc thành lập các điểm
bán lẻ ngoài điểm thứ nhất sẽ trên cơ sở ENT
phù hợp với thủ tục tiền thành lập công khai
và phê chuẩn dựa trên các tiêu chí khách
quan. Trong các nước thành viên khác cam
kết của AFAS, chỉ có Lào áp dụng ENT cho
dịch vụ đại lý thương mại, dịch vụ nhượng
quyền chỉ bao gồm cho dệt may và giày dép,
dịch vụ bán buôn trên cơ sở khoản phí hoặc
hợp đồng dệt may và giày dép. Cả Việt Nam
và Lào đều xác định tiêu chí chính cho việc
kiểm tra nhu cầu kinh tế là số lượng các nhà
cung cấp dịch vụ đang hiện diện trong một
khu vực địa lý, sự ổn định của thị trường và
quy mô địa lý.
Trong WTO, một số quốc gia đã đưa
ENT vào biểu cam kết như Bulgaria quy
định rõ các tiêu chí ENT chủ yếu là i) số
lượng và tác động đối với các cửa hàng đang
hoạt động; ii) mật độ dân số; iii) độ lan tỏa
địa lý và iv) tác động đối với giao thông.
Biểu cam kết dịch vụ của Canada quy định
các tiêu chí xem xét phê duyệt bao gồm i)
kiểm tra mức độ cung cấp dịch vụ hiện tại;
ii) các điều kiện của thị trường dẫn đến yêu
cầu mở rộng dịch vụ; iii) ảnh hưởng của nhà
cung cấp mới đối với sự thuận tiện cho cộng
đồng bao gồm sự duy trì và chất lượng của
dịch vụ và iv) sự phù hợp, sẵn sàng và khả
năng của nhà đầu tư trong việc cung cấp dịch
vụ. Việc áp dụng ENT của Việt Nam lại khác
do ENT của Việt Nam chủ yếu nhắm đến các
cơ sở do nhà bán lẻ nước ngoài thành lập8.
Trong những điều kiện nhất định, hạn
chế tiếp cận thị trường là cần thiết và việc sử
dụng ENT từ đó trở thành một công cụ hữu
hiệu cho nhu cầu này. Việt Nam hay Lào cần
đến ENT khi mở cửa thị trường như một sự
cân nhắc trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện
tại; vấn đề là việc sử dụng các tiêu chí áp
dụng cần đảm bảo tính hợp lý, minh định,
minh bạch, hiệu quả và hạn chế đến mức
thấp nhất sự tùy tiện, chủ quan.
2.5. Về cam kết đối xử quốc gia
Theo quy định, các biện pháp hạn chế
tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia mà
Việt Nam muốn duy trì cần phải được đưa
vào cột tiếp cận thị trường.
Đối với phương thức 1: Việt Nam chưa
7 Đây là khái niệm xuất phát từ Điều XVI GATS với ý nghĩa là một biện pháp mà các thành viên WTO có
thể vận dụng hoặc duy trì, với điều kiện biện pháp này được đưa vào Biểu thỏa thuận và cam kết nhượng
bộ (Schedule of Concessions) của mình trong phần dịch vụ nhằm hạn chế tiếp cận thị trường, duy trì quyền
điều phối thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. GATS và các hiệp định khác của WTO không đưa ra định
nghĩa về ENT.
8 Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên EU- Việt Nam MUTRAP III, Báo cáo rà soát khuôn khổ pháp lý về dịch
vụ phân phối ở Việt Nam và những khuyến nghị về sự phù hợp giữa các quy định chuyên ngành với cam
kết trong khuôn khổ WTO, tr.42.
Số 4(404) - T2/202026 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
cam kết dịch vụ phân phối, ngoại trừ những
gì được đề cập đối với tiếp cận thị trường,
điều này tương tự với các quốc gia ASEAN
còn lại trừ Cambodia và Singapore. Với
Cambodia, cung cấp dịch vụ qua biên giới
không hạn chế đối xử quốc gia trừ đối với
thuế; Singapore thì chưa cam kết đối với các
khoản trợ cấp ngoại trừ những cam kết cụ
thể đã được đưa ra trong WTO.
Đối với phương thức 2, Việt Nam cam
kết đối xử quốc gia đầy đủ cho các nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài, điều này tương tự
với các quốc gia ASEAN còn lại trừ
Cambodia và Singapore. Với Cambodia,
phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ không
hạn chế đối xử quốc gia trừ đối với thuế;
Singapore thì chưa cam kết đối với các
khoản trợ cấp ngoại trừ những cam kết cụ
thể đã được đưa ra trong WTO.
Đối với phương thức 3, yêu cầu về liên
doanh, góp vốn của nước ngoài và hạn chế
liên quan đến sản phẩm cũng là những hạn
chế đối với đối xử quốc gia. Việt Nam không
hạn chế đối xử quốc gia cho phương thức
này ngoại trừ các khoản trợ cấp có thể chỉ
dành cho các nhà cung cấp dịch vụ Việt
Nam, nghĩa là các pháp nhân được thành lập
trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc một vùng của
Việt Nam; việc dành trợ cấp một lần để thúc
đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
cổ phần hóa không bị coi là vi phạm cam kết
này; chưa cam kết đối với các khoản trợ cấp
dành cho nghiên cứu và phát triển; chưa cam
kết đối với các khoản trợ cấp trong các
ngành y tế, giáo dục và nghe nhìn; chưa cam
kết đối với các khoản trợ cấp nhằm nâng cao
phúc lợi và tạo công ăn việc làm cho đồng
bào thiểu số. Các quốc gia thành viên
ASEAN khác đều có những quy định chi tiết
khác nhau cho đối xử quốc gia với phương
thức hiện diện thương mại của nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài đối với tín dụng trong
nước (Philippines), đất đai, tài sản và bất
động sản (Malaysia), thuế, phí (Myanmar,
Indonesia), quốc tịch và các yêu cầu đối với
người điều hành, hội đồng quản trị (Brunei,
Thailand). Riêng Cambodia chưa cam kết
trừ các khoản trợ cấp cho nghiên cứu và phát
triển, không hạn chế trừ thuế, cá nhân và
pháp nhân không phải người Cambodia chỉ
được thuê đất chứ không được sở hữu đất,
không hạn chế lĩnh vực khuyến khích đầu tư.
Singapore thì chưa cam kết đối với các
khoản trợ cấp ngoại trừ những cam kết cụ
thể đã được đưa ra trong WTO.
2.6. Đối xử tối huệ quốc (MFN)
Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc
phạm vi điều chỉnh của Hiệp định, mỗi thành
viên phải ngay lập tức và không điều kiện
dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch
vụ của bất kỳ thành viên nào khác sự đối xử
không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà thành
viên đó dành cho dịch vụ và các nhà cung
cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào
khác. Các thành viên có thể duy trì biện pháp
không phù hợp với điều kiện là biện pháp đó
phải được liệt kê và đáp ứng các điều kiện
tại Danh mục miễn trừ đối xử tối huệ quốc.
Do vậy, Việt Nam phải đối xử bình đẳng (về
chính sách, pháp luật, thủ tục) giữa các
nhà cung cấp dịch vụ đến từ các nước thành
viên ASEAN trừ việc dành các biện pháp đối
xử ưu đãi theo các Hiệp định đầu tư song
phương đối với các nước đã ký Hiệp định
đầu tư song phương với Việt Nam và áp
dụng không thời hạn khi phát sinh nhu cầu
thúc đẩy đầu tư vào Việt Nam. Đối với dịch
vụ phân phối, cam kết miễn trừ MFN trong
AFAS tương tự như đối với cam kết WTO.
Theo biểu cam kết, Brunei, Malaysia,
Philippines và Singapore đưa ra những miễn
trừ trong các trường hợp liên quan đến lao
động chưa đào tạo di chuyển vào các quốc
gia sẽ xét đến yếu tố văn hóa, tôn giáo, tính
kế cận, lao động đã đào tạo sẽ ưu tiên đối với
nguồn cung truyền thống, các trường hợp
27Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
cấp thị thực đặc biệt khác. Riêng các nước
Cambodia, Indonesia, Lào, Myanmar và
Thailand không miễn trừ MFN trong dịch vụ
phân phối.
3. Khía cạnh pháp lý cho việc thực thi
cam kết AEC mở cửa thị trường dịch vụ
phân phối tại Việt Nam và các đề xuất
3.1. Thực thi cam kết AEC về dịch vụ
phân phối tại Việt Nam
Ngày 04/10/2016, Chính phủ Việt Nam
đã phê duyệt Nghị định thư thực hiện gói
cam kết dịch vụ thứ 9 ký kết ngày
27/11/2015 tại Makati City, Philippines
trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN
về dịch vụ, nền tảng cho việc thực thi các
cam kết dịch vụ nói chung và dịch vụ phân
phối nói riêng của Việt Nam. Qua phân tích
ở trên cho thấy, các cam kết chung của Việt
Nam về dịch vụ phân phối trong AEC đều
tương tự mức cam kết của Việt Nam trong
WTO, do vậy, quá trình điều chỉnh chính
sách và pháp luật của Việt Nam về dịch vụ
này để thực hiện các cam kết WTO trong
thời gian từ khi gia nhập đến nay đồng thời
phù hợp với việc thực hiện các Gói cam kết
dịch vụ trong AFAS. Quá trình nội luật hóa
các cam kết trong khuôn khổ WTO để đảm
bảo thực hiện các nguyên tắc, nghĩa vụ của
Việt Nam đã được tiến hành liên tục trước
và sau khi gia nhập tổ chức này. Đến thời
điểm hiện tại cho thấy nỗ lực của Việt Nam
trong việc cải thiện môi trường pháp lý làm
cơ sở cho hoạt động của dịch vụ phân phối
trong bối cảnh mới là thực hiện cam kết khu
vực ASEAN, thể hiện sự tuân thủ chặt chẽ
và thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của thành
viên trong AEC.
Liên quan đến thực hiện cam kết về hiện
diện thương mại của các nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài, những văn bản quy phạm
pháp luật của Việt Nam đã điều chỉnh phù
hợp với nội dung cam kết về vấn đề hạn chế
tiếp cận thị trường, các điều kiện về sở hữu,
hoạt động, hình thức pháp nhân và phạm vi
hoạt động, việc thuê đất, góp vốn tại các văn
bản luật và dưới luật như Luật Thương mại
năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014,
Luật Đầu tư năm 2014, Nghị định số
07/2016/NĐ-CP ngày 25/01/2016 của Chính
phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về
văn phòng đại diện, chi nhánh của thương
nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Về vấn đề kiểm tra nhu cầu kinh tế, đây
là một nội dung mà cả góc độ pháp lý và
thực tiễn đều phát sinh những vấn đề tranh
cãi trong việc áp dụng nó đối với nghĩa vụ
thực thi cam kết nói chung và tác động đối
với ngành phân phối nói riêng. Các quốc gia
khác nhau có những tiêu chí ENT khác nhau
tùy thuộc mức độ hạn chế tiếp cận thị trường
của từng nước. Sau khi gia nhập WTO, Việt
Nam đã có những văn bản hướng dẫn nội
dung này9 nhưng các tiêu chí không rõ ràng,
khó xác định, dễ dẫn đến sự tùy tiện khi áp
dụng trong thực tế, chưa đảm bảo việc tuân
thủ đầy đủ cam kết. Trong lộ trình thực hiện
cam kết WTO cũng như AEC, Luật Quản lý
ngoại thương 2017 ra đời và Nghị định số
09/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/01/2018 quy định chi tiết Luật Thương
9 ENT thời điểm đó được quy định trong ba văn bản là Nghị định số 23/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày
12/02/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan
trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Quyết định số
10/2007/QĐ-BTM ngày 21/5/2007 của Bộ Thương mại công bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng
hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa và Thông tư số 09/2007/TT-BTM ngày
17/7/2007 hướng dẫn Nghị định số 23/2007/ND-CP ngày 12/02/2007.
Số 4(404) - T2/202028 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
mại và Luật Quản lý ngoại thương về hoạt
động mua bán hàng hóa và các hoạt động
liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa
của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam làm
cơ sở cho việc kiểm tra nhu cầu kinh tế minh
bạch và phù hợp hơn.
Tương ứng với các quy định về MFN và
Danh mục miễn trừ MFN theo Điều II GATS
cũng như Danh mục miễn trừ MFN trong
các Gói cam kết AFAS, Pháp lệnh đối xử tối
huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương
mại quốc tế (2002) cùng với các quy định về
MFN trong các văn bản luật chuyên ngành
khác trở thành cơ sở cho việc vận dụng cam
kết trong thực tiễn.
Về các nội dung cam kết khác, Việt Nam
vẫn đang tiếp tục điều chỉnh, bổ sung những
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để
đáp ứng cơ chế giám sát thực thi khác nhau
của từng thể chế như thông qua báo cáo định
kỳ đối với WTO hay sử dụng ma trận đánh
giá áp dụng cho các quốc gia thành viên, do
Ban Thư ký ASEAN tổng hợp. Đó là quá
trình mà pháp luật là một công cụ nhằm tuân
thủ cam kết và thúc đẩy lợi ích mà Việt Nam
đặt ra khi tham gia tiến trình AFAS.
3.2. Một số nhận xét và đề xuất
Như đã trình bày ở phần mở đầu, mục
tiêu tự do hóa trong khuôn khổ AFAS đã
được nêu trong Kế hoạch tổng thể xây dựng
AEC; theo đó, AEC đặt ra các yêu cầu tự do
hóa với cả 4 phương thức cung cấp dịch vụ.
Vì trong Biểu cam kết đã loại trừ phương
thức 4, mục tiêu của AEC Blueprint là đối
với phương thức 1 và 2 không có hạn chế
nào, ngoại trừ các trường hợp có lý do hợp
lý (như bảo vệ cộng đồng) và được sự đồng
ý của tất cả các thành viên ASEAN trong
từng trường hợp cụ thể; đối với phương thức
3 cho phép tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư
nước ngoài thuộc khu vực ASEAN trong các
doanh nghiệp lên tới 70% vào năm 2015 đối
với tất cả các lĩnh vực và từng bước loại bỏ
các rào cản khác; thực tế rà soát và đánh giá
cho thấy các nước ASEAN chưa đạt được
mục tiêu này10.
Các Gói cam kết hiện tại trong AFAS đã
hoàn tất; các quốc gia hướng đến Hiệp định
Thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA) đã
được ký kết thay thế cho AFAS với hy vọng
đây là bước đi mới trong tiến trình hội nhập
về dịch vụ của ASEAN theo hướng mở cửa,
tự do hóa hơn về dịch vụ11. Dịch vụ phân
phối từ đó cũng được trông đợi có những
quy định giảm bớt các rào cản phân biệt đối
xử với những nhà cung cấp dịch vụ, đồng
thời đưa ra nền tảng pháp luật vững chắc và
cơ chế minh bạch hơn cho thị trường dịch vụ
phân phối trong khu vực. Như vậy, Việt Nam
cần có những chuẩn bị nhất định cho pháp
luật điều chỉnh ngành dịch vụ này, khi
ATISA sử dụng phương pháp tiếp cận mới
là chọn - bỏ thay vì chọn - cho như AFAS.
Dịch vụ phân phối là ngành dịch vụ
quan trọng đối với bất kỳ nền kinh tế nào
nhưng chưa được tự do hóa cao độ trong
ASEAN. Trước đây, Hiệp định khung
ASEAN về các ngành ưu tiên (2004) liệt kê
11 ngành không có dịch vụ phân phối, cho
thấy mức độ quan tâm đến lĩnh vực này còn
hạn chế. Đến AFAS, các quốc gia thành viên
10 Văn kiện Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) và tóm tắt, Trung tâm WTO và hội nhập – Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,
ve-dich-vu-afas-va-tom-tat.htm, truy cập ngày 24/12/2019.
11 Hiệp định thương mại và dịch vụ ASEAN (ATISA), Trung tâm WTO và hội nhập – Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam,
atisa, truy cập ngày 24/12/2019.
29Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
đều giữ những hạn chế nhất định cho ngành
và các phân ngành, thậm chí có phân ngành
không được cam kết ở một số nước như
Brunei chỉ cam kết đối với dịch vụ nhượng
quyền thương mại, Indonesia chỉ cam kết
dịch vụ bán buôn và bán hàng trực tiếp ở gói
9, đến gói 10 mới bổ sung thêm dịch vụ bán
lẻ và nhượng quyền, Lào không cam kết dịch
vụ bán lẻ, Myanmar không cam kết nhượng
quyền ở gói 9, đến gói 10 mới bổ sung.
Đối với Việt Nam, mức độ mở cửa
ngành và các phân ngành của dịch vụ phân
phối qua các Gói cam kết theo lộ trình và
cho đến Gói cam kết cuối cùng thứ 10 vẫn
không mở hơn về mức độ cam kết. Mặc dù
có thể nhận thấy, trong một số gói cam kết
dịch vụ gần đây của AEC, mức độ cam kết
của Việt Nam đã bắt đầu cao hơn so với
WTO, phù hợp với mức độ mở cửa thực tế
về dịch vụ của đất nước nhưng dịch vụ phân
phối không nằm trong nhóm đó. Kết quả
trong AFAS chỉ tương tự như những gì đã
đàm phán đạt được trong WTO, nghĩa là vẫn
duy trì ở mức ngang bằng cam kết trong
WTO. Khi so sánh với một số nước khác
trong khu vực như Cambodia và Singapore,
nhất là Singapore hầu như không có hạn chế
nào về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia
ở cả 4 phân ngành trừ một số mặt hàng đối
với dịch vụ đại lý và bán buôn cũng như các
loại trừ các cam kết đã ký kết trong WTO
đối với cam kết chung, Việt Nam vẫn chưa
có sự cởi mở thị trường mang tính đột phá.
Từ đó, hệ thống pháp luật cũng chưa có sự
biến chuyển lớn nhằm tạo tiền đề và hành
lang pháp lý cho việc thực thi cam kết rộng
mở hơn. Mục tiêu mà các hiệp định thương
mại tự do hướng đến là nhằm giảm bớt và
loại bỏ rào cản thương mại; trong khi WTO
chỉ thành công trong việc giảm bớt chứ chưa
đạt được mức loại bỏ rào cản thương mại
như trong các FTA, thì lẽ ra đàm phán và
cam kết của các quốc gia thành viên AEC
phải đạt được mục tiêu bản chất đó. Như
vậy, trong nỗ lực mở cửa thị trường dịch vụ
của mình, với những quan điểm thống nhất
về hội nhập nói chung, Việt Nam cần tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tự
do hóa làm nền tảng cho những thay đổi về
tự do hóa dịch vụ phân phối về sau, nhằm
đạt được lợi ích lâu dài trong khu vực n
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brunei Darussalam, Cambodia, Indonesia, Lao PDR, Myanmar, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thailand, Vietnam – Schedule of specific commitments for the 9th Package
of Commitments under ASEAN Framework Agreement on Services.
2. Brunei Darussalam, Cambodia, Indonesia, Lao PDR, Myanmar, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thailand, Vietnam – List of MFN Exemptions for the 9th Package of
Commitments under ASEAN Framework Agreement on Services.
3. Brunei Darussalam, Cambodia, Indonesia, Lao PDR, Myanmar, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thailand, Vietnam – Schedule of specific commitments for the 10th Package
of Commitments under ASEAN Framework Agreement on Services.
4. Brunei Darussalam, Cambodia, Indonesia, Lao PDR, Myanmar, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thailand, Vietnam – List of MFN Exemptions for the 10th Package of
Commitments under ASEAN Framework Agreement on Services.
5. World Trade Organization (2006), Part II - Schedule of Specific Commitments in Services
List of Article II MFN Exemptions, WT/ACC/VNM/48/Add.2.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_do_hoa_dich_vu_phan_phoi_tai_viet_nam_trong_khuon_kho_con.pdf