2.4. Đảm bảo hài hoà các loại lợi ích của các chủ thể trên thị trường khoa học và
công nghệ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế
Việt Nam tham gia vào hội nhập quốc tế nhằm đảm bảo cho chúng ta tham
gia đầy đủ vào hệ thống phân công lao động quốc tế, thu được các giá trị gia tăng
cao trong chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu để mang lại lợi ích lớn nhất cho
Việt Nam. Tuy nhiên, hội nhập vào thị trường khoa học và công nghệ khu vực và
thế giới không bao giờ mang lại lợi ích hoàn toàn hoặc là bị thiệt hại hoàn toàn, mà
đó là một quá trình hai mặt, vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đối
với các chủ thể tham gia thị trường khoa học và công nghệ. Trong nhiều trường hợp
cụ thể, chúng ta bắt buộc phải cân nhắc giữa lợi ích đạt được và những khó khăn
gặp phải để có một sự lựa chọn về bước đi, về chính sách cho phù hợp.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, phải luôn xác định lợi ích của dân tộc, quốc gia
lên hàng đầu, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng về lợi ích của các chủ thể Việt Nam với
nước ngoài và khai thác được lợi ích của nước đi sau trong hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc chung, thực hiện
quyền và nghĩa vụ thành viên của các tổ chức khu vực và quốc tế mà Việt Nam
tham gia nhưng cần vận dụng linh hoạt các nguyên tắc quốc tế, có đối sách phù hợp
nhằm mang lại lợi ích tối đa cho đất nước và các chủ thể Việt Nam. Việc phát triển116
thị trường khoa học và công nghệ trong bối cảnh hội nhập cũng phải đảm bảo việc
thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới và đảm bảo môi trường thuận lợi cho việc nghiên cứu
khoa học, đổi mới công nghệ, trước hết là tạo dựng mối quan hệ hợp lý giữa lợi ích
của nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ và xã hội.
2.5. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ phải đặt trong tổng thể phát
triển chung của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thị trường khoa học và công nghệ không phải là một thị trường riêng biệt mà
nó có sự gắn kết và có quan hệ tác động qua lại với các thị trường khác như thị
trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản,. trong tổng thể nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Do vậy, việc phát triển thị
trường khoa học và công nghệ cần được xem xét, cân nhắc trong tổng thể các cơ
chế, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam nói chung.
Việc phát triển thị trường khoa học và công nghệ phải gắn với mục tiêu đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đất
nước, góp phần nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, tăng trưởng, phát triển
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam./.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư duy mới về phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
105
TƢ DUY MỚI VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
TS. Nguyễn Mạnh Hùng
Hội đồng Lý luận Trung ương
1. Bối cảnh mới và những yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới tƣ duy, nhận
thức về phát triển thị trƣờng khoa học và công nghệ ở Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc tế
Bối cảnh quốc tế thời gian tới có nhiều biến đổi, các nền kinh tế mới nổi đang
tạo ra sức ép cạnh tranh quốc tế nhằm làm thay đổi cán cân và trật tự kinh tế thế
giới, nhiều thách thức toàn cầu nảy sinh như vấn đề ô nhiễm môi trường, biến đổi
khí hậu, bệnh dịch lan nhanh đòi hỏi sự hợp tác của các quốc gia trên thế giới.
Những biến đổi này có tác động lớn đến xu hướng phát triển thị trường khoa học và
công nghệ thế giới nói chung và từng quốc gia nói riêng, trong đó có Việt Nam.
Thứ nhất, cuộc cách mạng công nghiệp lần thư tư và khoa học công nghệ
toàn cầu tiếp tục phát triển mạnh m và có những u hướng mới.
Trong thời gian tới, khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển và ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Để có thể thoát khỏi suy thoái
và khủng hoảng kinh tế, phục hồi đà tăng trưởng và phát triển bền vững, các nước đều
phải tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển khoa học và công nghệ nhằm ứng dụng thành
tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, đặc biệt là các thành tự khoa học và công
nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như trí tuệ nhân tạo, vạn vật kết nối
Internet, in 3D... nhằm tạo ra các sản phẩm và công nghệ sản xuất mới.
Xu hướng liên kết, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ
ngày càng tăng. Đồng tác giả quốc tế và đồng tác giả trong nước tăng nhanh và trở
thành hình thức hợp tác khoa học phổ biến. Các sản phẩm khoa học và công n ghệ
được tạo ra đang có xu hướng chuyển từ cá nhân sang nhóm, từ quốc gia sang quốc
tế. Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu cho phép các chủ thể trên thị trường khoa học
và công nghệ khai thác được các thành quả nghiên cứu về khoa học và công nghệ
của thế giới, tận dụng được vốn, công nghệ, nhân lực của đối tác và để phát huy lợi
thế so sánh trong nghiên cứu khoa học và công nghệ.
- Khoa học và công nghệ thế giới hướng vào những ngành tăng trưởng mới là
công nghệ thông tin, công nghệ môi trường, công nghệ sinh học, công nghệ
106
nano...Công nghệ thông tin và những ngành công nghệ 4.0 làm thay đổi không gian,
thời gian, cách thức sản xuất, tiêu dùng sản phẩm toàn cầu. Nghiên cứu trong công
nghệ môi trường có thể giúp đạt được các mục tiêu bảo vệ môi trường như giảm nhẹ
biến đổi khí hậu, kiểm soát ô nhiễm không khí và nước, nâng cao đa dạng sinh học
và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Công nghệ sinh học giúp đạt
được các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội bền vững như giúp cải thiện sức khoẻ
cộng đồng, bảo vệ môi trường và sản xuất nông nghiệp và năng lượng sạch. Công
nghệ nano có tác động lớn tới kinh tế và xã hội ở các quốc gia. Nó giúp thu nhỏ các
thiết bị công nghệ thông tin, phát triển nghiên cứu bộ gen và góp phần sản sinh ra
năng lượng tái tạo.
Như vậy, xu thế phát triển của khoa học và công nghệ toàn cầu thời gian tới tiếp
tục khẳng định tài sản trí tuệ, khoa học và công nghệ, thị trường khoa học và công nghệ
có vai trò ngày càng quan trọng, đặc biệt là việc sản xuất ra các sản phẩm khoa học và
công nghệ tiên tiến, hiện đại, có hàm lượng tri thức cao, mang lại giá trị lớn.
Thứ hai, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế có những biểu hiện mới.
Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế trên thế giới vẫn là xu hướng chủ đạo trong
sự vận động của kinh tế thế giới thời gian tới. Toàn cầu hoá tiếp tục thúc đẩy sự
phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá làm sâu sắc hơn sự
chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế, làm cho cạnh tranh quốc tế ngày
càng gay gắt. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế làm cho tự do hoá thương mại, đầu
tư, tài chính, chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh ở cả cấp độ song phương và đa
phương, khu vực và toàn cầu, tạo điều kiện cho việc thâm nhập, phụ thuộc lẫn nhau
giữa thị trường khoa học và công nghệ các quốc gia.
Bên cạnh đó, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế có biểu hiện mới, đó
là: Thay đổi, hoàn thiện các thể chế, nguyên tắc trong các hiệp định quốc tế cho phù
hợp với tình hình mới; Gia tăng sự liên kết giữa các nước trong việc giải quyết
những vấn đề mang tính toàn cầu; sắp đặt, định vị lại trật tự, sức mạnh và quyền chi
phối kinh tế thế giới của các trung tâm kinh tế.
Thứ ba, nền kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại và xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế có những nét mới, nền kinh tế
thế giới có bước phát triển và biến đổi mạnh mẽ. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường toàn cầu hoá ngày càng quyết liệt hơn, các doanh nghiệp mới thường ra đời
t một sáng chế, một công nghệ mới. Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu ráo riết hiện
107
nay không còn chỗ đứng cho các doanh nghiệp làm ăn theo đường mòn, không chịu
đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thế giới đang trải qua những bước thăng trầm, cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã gây tổn thất nặng nề cho nền
kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế này diễn ra cùng với khủng hoảng năng
lượng, khủng hoảng khí hậu và môi trường. Do vậy, sau cuộc khủng hoảng này, kinh tế
thế giới sẽ có sự tái cấu trúc và có sự biến đổi nhanh chóng, kinh tế tri thức được thúc
đẩy và phát triển mạnh mẽ, khoa học và công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong phát triển, các nước phát triển sẽ tập trung phát triển mạnh công nghệ cao và
đồng thời chuyển dịch công nghệ thấp cho các nước đang phát triển.
Thứ tư, sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, của cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
Cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông đang dẫn đến một xã hội
thông tin toàn cầu, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Nền kinh tế
thế giới ngày càng ít phụ thuộc vào địa lý, khoảng cách và thời gian. Thế giới như
"phẳng" ra, nhỏ lại thông qua mạng Internet hiện có khoảng 2 tỷ người sử dụng.
Máy tính kết nối được với điện thoại di động và máy thu hình bỏ túi được dùng
trong sản xuất, giao dịch thương mại, thu thập thông tin...với bất cứ ai, ở bất cứ đâu
trên thế giới. Sân chơi toàn cầu bình đẳng hơn, liên kết ngang mạnh hơn. Các
doanh nghiệp cùng với các công ty xuyên quốc gia cỡ lớn đều có thể tham gia thị
trường khoa học và công nghệ toàn cầu một cách dễ dàng, nhanh chóng thông qua
các sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông.
Như vậy, bối cảnh quốc tế mới có những tác động lớn đến xu hướng phát
triển của của thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam và đặt ra những yêu
cầu mới. Điều này được thể hiện ở hai mặt là những thuận lợi và khó khăn cho sự
phát triển của thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam.
Một là, những thuận l i.
- Các nước phát triển, các công ty xuyên quốc gia có xu hướng chuyển một
phần hoạt động nghiên cứu sang các nước khác có thể chế thuận lợi, có tiềm năng
về nhân lực chất lượng cao và thị trường tiêu thụ, từ đó, làm gia tăng xuất khẩu và
chuyển nhượng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ của các nước phát triển
cho các nước đang phát triển.
- Nghiên cứu, phát triển công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng
nhất, công nghệ mới trở thành nhân tố hàng đầu trong việc tạo ra năng suất, tăng
trưởng và việc làm. Xu thế phát triển mới buộc các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới,
108
số doanh nghiệp cũ có công nghệ lạc hậu bị phá sản nhiều nhưng số doanh nghiệp
mới dựa vào sáng chế, công nghệ mới, nhất là doanh nghiệp khoa học và công nghệ
tăng lên nhanh.
- Cơ cấu tài sản của các doanh nghiệp cũng thay đổi trong bối cảnh quốc tế
mới. Tài sản trí tuệ của doanh nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng hơn các tài
sản khác bởi vì nó là yếu tố quyết định tới việc tạo ra các sản phẩm mới, chất lượng
tốt của doanh nghiệp, mà đây lại là các yếu tố quyết định tới năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Phương thức sản xuất, hợp tác quốc tế đã thay đổi theo chiều ngang thay vì
chiều dọc, hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu giữa các nước. Các doanh nghiệp để
tồn tại và phát triển phải cạnh tranh theo phương thức mới là phải tạo ra những sản
phẩm cá biệt, độc đáo cho một thị trường ngách trên cơ sở nắm vững một bí quyết
công nghệ để có thể tham gia mạnh hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Hai là, những khó khăn.
- Vòng đời của sản phẩm làm ra ngày càng ngắn, vòng đời của công nghệ,
thiết bị máy móc dùng để sản xuất ra sản phẩm cũng ngày càng ngắn. Do vậy, một
xu hướng trong thị trường khoa học và công nghệ là các nước có nền công nghiệp
phát triển luôn có nhu cầu thay thế các công nghệ cũ bằng các công nghệ mới được
tạo ra dựa trên kết quả của những thành tựu khoa học mới nhất. Các nước này sẽ
chuyển giao công nghệ cũ cho các nước có trình độ công nghệ thấp như Việt Nam.
Thực hiện điều này, các nước phát triển cùng một lúc đạt được hai mục đích, vừa
tận dụng được giá trị còn lại của công nghệ cũ, vừa có điều kiện áp dụng công nghệ
mới để nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới.
- Các nước đang phát triển như Việt Nam vẫn chỉ nhận được lượng đầu tư về
khoa học và công nghệ thấp từ các nước phát triển, của các công ty xuyên quốc gia
quốc tế. Bởi vì đầu tư của các công ty xuyên quốc gia về khoa học và công nghệ
vẫn tập trung chủ yếu ở chính quốc, tỷ lệ đầu tư ra các nước có trình độ khoa học và
công nghệ yếu như Việt Nam thấp; đầu tư ra nước ngoài của các công ty xuyên
quốc gia chủ yếu tập trung vào các nước, khu vực kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật
Bản, EU hoặc nhóm các nước có nền kinh tế đang nổi lên (BRICS).
1.2. Bối cảnh trong nước
Thứ nhất, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và
hội nhập quốc tế tiếp tục đư c thực hiện và đẩy mạnh.
Trong thời gian tới quá trình cải cách, chuyển đổi mô hình tăng trưởng nền
kinh tế Việt Nam tiếp tục được đẩy mạnh và hoàn thiện theo hướng phát triển
109
nhanh, bền vững, từ tăng trưởng theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào lợi thế sẵn có
như tài nguyên thiên nhiên và lao động trình độ thấp sang khai thác các yếu tố cạnh
tranh trên cơ sở công nghệ cao, nhân lực chất lượng cao và tính hiện đại của cơ sở
hạ tầng kinh tế xã hội. Để thực hiện mô hình phát triển nhanh, bền vững, tất yếu
phải dựa vào phát triển khoa học và công nghệ, do đó tạo ra nhiều cơ hội cho khoa
học và công nghệ, thị trường khoa học và công nghệ phát triển.
Trong thời gian tới, Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tham gia sâu hơn
vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp
tục thu hút vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, thúc đẩy xuất nhập
khẩu hàng hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước...từ
đó tạo ra cơ hội thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam phát triển.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày
càng hoàn thiện và phát triển, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế.
- Hệ thống các loại thị trường ở nước ta đã được hình thành và phát triển
nhưng vẫn chưa đồng bộ và còn nhiều vấn đề bất cập.
Hiện nay, hệ thống các loại thị trường ở nước ta đã được hình thành và phát
triển. Điều này bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường
khoa học và công nghệ trong thời gian tới, bởi vì các loại thị trường này có quan hệ
tương tác và thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ phát triển. Tuy nhiên,
trong các loại thị trường, chỉ có thị trường hàng hoá và dịch vụ phát triển mạnh, còn
các thị trường khác vẫn tồn tại nhiều yếu kém như: (1) Thị trường bất động sản vẫn
còn méo mó và phát triển chưa đầy đủ; (2) Thị trường vốn chưa tạo thuận lợi cho
các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, hình thức vốn đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
chưa phát triển...; (3) Thị trường lao động còn bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu
nhân lực chất lượng cao của doanh nghiệp để đổi mới công nghệ. Những bất cập
này sẽ có ảnh không nhỏ tới sự phát triển của thị trường khoa học và công nghệ ở
nước ta trong thời gian tới.
- Nền kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy
mô nền kinh tế tăng lên nhưng chất lượng tăng trưởng chưa cao, chưa bền vững,
hiệu quả, sức cạnh tranh nền kinh tế thấp.
Nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên. Điều này được thể hiện:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây của nước ta tương đối
ổn định và đạt ở mức cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2005-2010
đạt 7%. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào Nhóm các nước
110
đang phát triển có thu nhập trung bình và hoàn thành mục tiêu Phát triển Thiên niên
kỷ. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế
đều có bước phát triển khá. Những nội dung này sẽ có tác động lớn đến sự phát
triển của các doanh nghiệp Việt Nam và đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ từ
nước ngoài vào Việt Nam, từ đó có tác động tích cực đến tăng trưởng của cầu hàng
hoá khoa học và công nghệ trên thị trường khoa học và công nghệ
+ Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế được tăng cường. Điều này giúp cho việc xây
dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển của thị trường khoa
học và công nghệ như hệ thống trang thiết bị, phòng thí nghiệm, hệ thống thông tin
liên lạc: Internet, điện thoại...
+ Việt Nam đầu tư phát triển mạnh một số ngành công nghiệp mới, công nghệ
cao. Sản phẩm công nghiệp của nền kinh tế ngày càng đa dạng và phong phú về
chủng loại, chất lượng ngày càng được cải thiện. Điều này sẽ thúc đẩy nhu cầu công
nghệ mới, công nghệ cao và tạo ra sự đa dạng, phong phú về loại hình sản phẩm
khoa học và công nghệ trên thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế nước ta phát triển
chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp. Điều này được thể hiện:
Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp, chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu
tư, khai thác tài nguyên thiên nhiên; Năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được cải
thiện; Môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều hạn chế; Lạm phát tăng cao, kinh tế
vĩ mô không ổn định, sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn... Những điều này thể hiện nhu cầu công nghệ thấp, trung bình của doanh
nghiệp vẫn là chủ yếu, môi trường đầu tư, kinh doanh của thị trường khoa học và
công nghệ còn nhiều bất cập, từ đó gây cản trở đến chất lượng phát triển của thị
trường khoa học và công nghệ thời gian tới.
Thứ ba, nguồn nhân lực đ có sự phát triển nhưng chưa đáp ứng đư c yêu
cầu, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lư ng cao.
Trong thời gian vừa qua, quy mô nguồn nhân lực ở Việt Nam tăng nhanh, đặc
biệt là ở cấp đại học, cao đẳng và dạy nghề. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch
theo hướng tích cực. Lao động trong ngành sử dụng nhiều công nghệ, lao động đã
qua đào tạo tăng về số lượng, điều này đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho nhu cầu
nhân lực để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn
kỹ thuật của lực lượng lao động còn thấp, chưa theo kịp trình độ quốc tế. Điều này
sẽ có ảnh hưởng lớn đến việc tiếp nhận, sử dụng, đổi mới công nghệ của doanh
nghiệp thời gian tới.
111
Số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam có sự gia tăng. Cơ cấu
nguồn nhân lực chất lượng cao có sự chuyển dịch nhanh theo hướng tăng tỷ trọng
nhân lực trình độ đại học trở lên trong các ngành sử dụng nhiều công nghệ và tri
thức. Nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam ngày càng được nâng cao về
trình độ và kỹ năng. Tuy nhiên nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam vẫn còn
ít so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa
tiếp cận được với trình độ quốc tế. Điều này có ảnh hưởng tới số lượng và chất công
trình nghiên cứu khoa học và công nghệ, tới khả năng nghiên cứu khoa học và công
nghệ ở trình độ quốc tế.
Thứ tư, tiềm lực khoa học và công nghệ của Việt Nam ngày càng đư c tăng
cường, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng đư c yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thấp
so với nhiều nước trong khu vực.
Trong những năm qua, nhận thức được vai trò của khoa học và công nghệ
đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta
đã đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, từ đó tiềm lực khoa
học và công nghệ đất nước ngày càng được tăng cường, cụ thể:
(1) Chúng ta đã có đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học, trong đó nhiều cán bộ
có trình độ đại học trở lên;
(2) Nguồn kinh phí huy động cho khoa học và công nghệ đã được đa dạng
hoá. Đầu tư cho khoa học và công nghệ từ ngân sách nhà nước tăng bình quân
16,55, đạt trung bình khoảng 2% tổng chi ngân sách, đây là tỷ lệ cao so với các
nước khác. Đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ tăng nhanh, ước đạt 1,3%
GDP vào năm 2015;
(3) Cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các tổ chức khoa học và công nghệ
được tăng cường, nhất là các phòng thí nghiệm trọng điểm, đã đáp ứng được phần
nào nhu cầu triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, tiềm lực khoa học và công nghệ nước ta chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, vẫn còn một khoảng cách khá xa so với
nhiều nước trong khu vực, chưa tạo ra được năng lực khoa học và công nghệ cần
thiết để đáp ứng những yêu cầu mới của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong thời gian tới. Điều này thể hiện ở nội dung sau:
- Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, đặc
biệt là thiếu cán bộ khoa học và công nghệ trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu nhân
lực khoa học và công nghệ theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý.
112
- Đầu tư của xã hội cho phát triển khoa học và công nghệ còn hạn hẹp so ví
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp.
- Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động khoa học và công nghệ chưa tạo
thuận lợi cho nhà khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách nhà
nước. Cơ chế tự chủ về tài chính của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập chưa
đi liền với tự chủ về quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn chế. Trang thiết bị của các
viện nghiên cứu, trường đại học nhìn chung còn thiếu, không đồng bộ.
- Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu.
Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như
bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi
măng...nhìn chung, trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu
khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực.
- Hệ thống dịch vụ khoa học và công nghệ, bao gồm thông tin khoa học và
công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường -
chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ, chưa
đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế.
Những bất cập nói trên về tiềm lực khoa học và công nghệ của Việt Nam có ảnh
hưởng không nhỏ tới việc phát triển thị trường khoa học và công nghệ thời gian tới.
2. Một số định hƣớng đổi mới tƣ duy, nhận thức về phát triển thị trƣờng khoa
học và công nghệ ở Việt Nam thời gian tới
Trước những yêu cầu mới đặt ra do bối cảnh quốc tế, trong nước mang lại và
từ thực tiễn phát triển thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam, định hướng đổi
mới tư duy, nhận thức phát triển thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam tập
trung vào các nội dung sau:
2.1. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam là một quá trình
phát triển nhanh và rút ngắn về thời gian trên cơ sở tận dụng những cơ hội của
tiến trình hội nhập quốc tế
Thị trường khoa học và công nghệ ở các nước phát triển đã trải qua một quá
trình phát triển lâu dài. Đó là quá trình phát triển tuần tự gắn với sự phát triển của
khoa học và công nghệ và phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế,
nhiều nước có xuất phát điểm thấp về trình độ phát triển của thị trường khoa học và
công nghệ như các nước Đông Á đã theo kịp các nước phát triển khác thông qua
quá trình phát triển rút ngắn. Thực tế đã chứng minh, điều kiện để các nước Đông Á
rút ngắn được quá trình phát triển thị trường khoa học và công nghệlà xây dựng
113
được một chiến lược phát triển đúng đắn bằng những thể chế, cơ chế, chính sách đi
tắt, đón đầu và tận dụng được những cơ hội của quá trình hội nhập quốc tế.
Do thị trường khoa học và công nghệ ở nước ta vẫn ở trình độ thấp, các yếu tố cấu
thành thị trường chưa phát triển nên để đạt được mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì quá trình phát triển thị trường khoa học
và công nghệ ở nước ta là quá trình phát triển nhanh và rút ngắn về thời gian, nhanh
chóng tạo lập các điều kiện để có một thị trường khoa học và công nghệ đồng bộ, phát
triển đầy đủ để ngày càng thu hẹp khoảng cách phát triển so với các quốc gia khác.
Ngày nay, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam có nhiều cơ sở và
điều kiện để phát triển rút ngắn nếu như tận dụng thành công những cơ hội được tạo
ra từ quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển rút ngắn thị
trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam không đồng nghĩa với việc chủ quan, vội
vàng mà cần có những bước đi, biện pháp phù hợp với từng mục tiêu trong từng
giai đoạn phát triển.
Trong phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam phải triệt để
tôn trọng các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế thị trường nói chung và
những yếu tố đặc thù của thị trường khoa học và công nghệ nói riêng, tránh tư
tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, áp đặt, đồng thời cũng cần tránh tư tưởng thụ
động, ngồi chờ, do dự bỏ lỡ thời cơ. Để phát triển rút ngắn thị trường khoa học và
công nghệ rất cần sự can thiệp của nhà nước, tuy nhiên vấn đề là ở chỗ sự can thiệp
của nhà nước đối với thị trường khoa học và công nghệ cần được đưa ra một cách
kịp thời và phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển của từng giai đoạn.
2.2. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam phải chú trọng
toàn diện cả về số lượng, chất lượng và sự đồng bộ của các yếu tố cấu thành
Do Việt Nam là nước đang phát triển có nền kinh tế đang chuyển đổi, tiềm lực
khoa học và công nghệ của chúng ta yếu và còn nhiều bất cập trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, do vậy, phát triển thị trường khoa học và công nghệ trong thời gian tới là sự
phát triển toàn diện cả về số lượng, chất lượng và sự đồng bộ của các yếu tố cấu thành
chứ không phải chỉ là sự phát triển một chiều trên một nội dung nhất định.
Về số lượng, thị trường khoa học và công ng hệ có sự gia tăng phù hợp với
yêu cầu phát triển nền kinh tế. Sự gia tăng của thị trường được thể hiện ở quy mô,
tốc độ tăng trưởng của hàng hoá khoa học và công nghệ và các chủ thể tham gia thị
trường khoa học và công nghệ. Bên cạnh sự gia tăng về số lượng, chất lượng phát
triển thị trường khoa học và công nghệ cũng là nội dung quan trọng.
114
Chất lượng phát triển thị trường khoa học và công nghệ được thể hiện ở việc
duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài, năng lực của các chủ thể tham gia
thị trường ngày càng được nâng cao và thể chế cho việc phát triển thị trường khoa
học và công nghệ ngày càng được hoàn thiện và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cùng với việc gia tăng số lượng và chất lượng phát triển, sự đồng bộ các yếu
tố cấu thành thị trường khoa học và công nghệ là một nội dung quan trọng trong
phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở nước ta. Sự đồng bộ các yếu tố cấu
thành sẽ đảm bảo cho sự ăn khớp, hoạt động nhịp nhàng, thúc đẩy và phối hợp lẫn
nhau giữa các yếu tố cấu thành thị trường nhằm làm cho thị trường khoa học và
công nghệ phát triển nhanh và bền vững. Quá trình này bao gồm sự đồng bộ về
lượng, chất, cơ cấu nhằm tạo nên một sự đầy đủ, ăn khớp và hoạt động nhịp nhàng
của thị trường khoa học và công nghệ.
2.3. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam phải có lộ trình và
mô hình phù hợp căn cứ vào điều kiện thực tiễn nước ta
Việc phát triển thị trường khoa học và công nghệ phải căn cứ vào đặc điểm
của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở một
nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi, nền khoa học và công nghệ
nước ta chưa phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi mô hình quản lý để từ đó
xác định một phương pháp, bước đi và mô hình phù hợp với điều kiện và trình độ
phát triển của nước ta, tránh tình trạng dập khuôn, bắt chước mô hình bên ngoài, đi
quá xa với hiện trạng của nền kinh tế nước ta.
Trong thời gian tới, lộ trình và mô hình phát triển thị trường khoa học và công
nghệ nước ta như sau:
Thứ nhất, tăng cường vai trò của nhà nước trong việc phát triển thị trường
khoa học và công nghệ.
Thứ hai, thúc đẩy cầu trên thị trường khoa học và công nghệ, trong đó chủ
yếu là thúc đẩy cầu hàng hoá khoa học và công nghệ của doanh nghiệp.
Trên cơ sở hệ thống thể chế, chính sách phát triển thị trường khoa học và
công nghệ trong tiến trình hội nhập quốc tế, chúng ta cần phải thúc đổi nhu cầu đổi
mới công nghệ của doanh nghiệp và phải xác định doanh nghiệp là hạt nhân, là chủ
thể chính trong cầu về hàng hoá khoa học và công nghệ. Điều này có cơ sở khách
quan từ sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng của quá trình hội nhập quốc tế
buộc các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới sản xuất, từ đó
thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
115
Thứ ba, nâng cao năng lực cung hàng hoá khoa học và công nghệ và phát
triển các tổ chức trung gian, môi giới trên thị trường khoa học và công nghệ.
Trước sức ép của cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhu cầu của
doanh nghiệp đối với hàng hoá khoa học và công nghệ không chỉ là các kết quả
nghiên cứu, các công nghệ chung chung, mà là các công nghệ có ứng dụng trong
thực tiễn sản xuất kinh doanh. Điều này đặt ra nhu cầu phải nâng cao năng lực cung
hàng hoá khoa hoc và công nghệ và phát triển các tổ chức trung gian, môi giới. Căn
cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay, để thực hiện được việc
này chúng ta phải:
(1) Hoàn thiện và cải tổ các tổ chức khoa học và công nghệ công lập hiện có;
(2) Khuyến khích phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài khu vực
công lập, đặc biệt là các tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài;
(3) Thực hiện chính sách "sao chép có sáng tạo" như kinh nghiệm của các
nước Đông Á;
(4) Phát triển các tổ chức trung gian, môi giới nhằm gắn kết giữa cung và cầu
trên thị trường khoa học và công nghệ.
2.4. Đảm bảo hài hoà các loại lợi ích của các chủ thể trên thị trường khoa học và
công nghệ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế
Việt Nam tham gia vào hội nhập quốc tế nhằm đảm bảo cho chúng ta tham
gia đầy đủ vào hệ thống phân công lao động quốc tế, thu được các giá trị gia tăng
cao trong chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu để mang lại lợi ích lớn nhất cho
Việt Nam. Tuy nhiên, hội nhập vào thị trường khoa học và công nghệ khu vực và
thế giới không bao giờ mang lại lợi ích hoàn toàn hoặc là bị thiệt hại hoàn toàn, mà
đó là một quá trình hai mặt, vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đối
với các chủ thể tham gia thị trường khoa học và công nghệ. Trong nhiều trường hợp
cụ thể, chúng ta bắt buộc phải cân nhắc giữa lợi ích đạt được và những khó khăn
gặp phải để có một sự lựa chọn về bước đi, về chính sách cho phù hợp.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, phải luôn xác định lợi ích của dân tộc, quốc gia
lên hàng đầu, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng về lợi ích của các chủ thể Việt Nam với
nước ngoài và khai thác được lợi ích của nước đi sau trong hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc chung, thực hiện
quyền và nghĩa vụ thành viên của các tổ chức khu vực và quốc tế mà Việt Nam
tham gia nhưng cần vận dụng linh hoạt các nguyên tắc quốc tế, có đối sách phù hợp
nhằm mang lại lợi ích tối đa cho đất nước và các chủ thể Việt Nam. Việc phát triển
116
thị trường khoa học và công nghệ trong bối cảnh hội nhập cũng phải đảm bảo việc
thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới và đảm bảo môi trường thuận lợi cho việc nghiên cứu
khoa học, đổi mới công nghệ, trước hết là tạo dựng mối quan hệ hợp lý giữa lợi ích
của nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ và xã hội.
2.5. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ phải đặt trong tổng thể phát
triển chung của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thị trường khoa học và công nghệ không phải là một thị trường riêng biệt mà
nó có sự gắn kết và có quan hệ tác động qua lại với các thị trường khác như thị
trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản,... trong tổng thể nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Do vậy, việc phát triển thị
trường khoa học và công nghệ cần được xem xét, cân nhắc trong tổng thể các cơ
chế, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam nói chung.
Việc phát triển thị trường khoa học và công nghệ phải gắn với mục tiêu đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đất
nước, góp phần nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, tăng trưởng, phát triển
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_duy_moi_ve_phat_trien_thi_truong_khoa_hoc_va_cong_nghe_o.pdf