Thứ hai, quy định của điểm b, Khoản 2:
Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài trong trường hợp “Bị đơn
là công dân nước ngoài, người không quốc tịch
cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam
hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam”.
Như đã phân tích, điều này trái với quy định
của một số điều ước quốc tế trong lĩnh vực này
mà Việt Nam là thành viên. Trong điều kiện
toàn cầu hóa như hiện nay, bất kỳ quốc gia nào
khi xây dựng hệ thống pháp luật của quốc gia
đều phải xem xét đến các chuẩn mực pháp lý
chung của thế giới sao hoặc các điều ước quốc
tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia.
Một phần quan trọng các quy phạm pháp
luật của tư pháp quốc tế chứa đựng trong các
điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương
được ký kết giữa các quốc gia. Nếu có sự khác
biệt giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc
gia thì, quy định của điều ước quốc tế luôn
được ưu tiên áp dụng. Chính vì vậy, việc ban
hành các quy định pháp luật quốc nội tương
thích, phù hợp với nội dung của các điều ước
quốc tế mà quốc gia đó ký kết hoặc tham gia
là một yêu cầu quan trọng trong quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật quốc gia, đặc biệt là
đối với Việt Nam khi hệ thống pháp luật cho
sự vận hành của nền kinh tế thị trường đang
trong giai đoạn hình thành và phát triển.
Do đó, để góp phần hạn chế sự khác biệt
giữa hệ thống pháp luật Việt Nam với các cam
kết quốc tế của Việt Nam thể hiện trong các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên,
điểm b, Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS cần
được điều chỉnh theo hướng Tòa án Việt Nam
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài trong trường hợp “Bị đơn là công dân
nước ngoài, người không quốc tịch có nơi
thường trú, tạm trú tại Việt Nam hoặc có tài
sản trên lãnh thổ Việt Nam”.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ một quy định về thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài của tòa án, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
1. Quy định của pháp luật
Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS đã liệt
kê những trường hợp mà Tòa án Việt Nam có
thẩm quyền giải quyết đối với các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài, bao gồm các trường
hợp:
- a) Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài
có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ
quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện
tại Việt Nam.
Ở đây, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền
giải quyết quan hệ dân sự có cơ quan, tổ chức
nước ngoài tham gia khi cơ quan, tổ chức nước
ngoài là bị đơn và phải có trụ sở chính hoặc
cơ quan quản lý tại Việt Nam. Quy định này
là cần thiết trong điều kiện hiện nay khi có
nhiều cơ quan, tổ chức nước ngoài hoạt động
tại Việt Nam và phát sinh tranh chấp trong quá
trình tham gia các quan hệ pháp luật tại Việt
Nam. Theo Khoản 20, Điều 4 của Luật Doanh
nghiệp năm 2005, doanh nghiệp có quốc tịch
Việt Nam khi thành lập, đăng ký kinh doanh tại
Việt Nam. Như vậy, trong trường hợp doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh ở nước ngoài (có
quốc tịch nước ngoài) nhưng có trụ sở chính
hoặc cơ quan quản lý ở Việt Nam thì, các đối
tác của doanh nghiệp vẫn có quyền khởi kiện
doanh nghiệp tại Tòa án Việt Nam.
Quy định trên cũng cho thấy, Tòa án Việt
Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết trong
trường hợp này khi phía khởi kiện là bên Việt
Nam; còn nếu cơ quan, tổ chức nước ngoài,
chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam của
cơ quan, tổ chức nước ngoài khởi kiện, Tòa
án Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết.
Tòa án Việt Nam cũng có quyền giải quyết vụ
việc khi bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài
có chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam.
Tuy nhiên, luật không nói rõ là Tòa án Việt
Nam có thẩm quyền giải quyết đối với tất cả các
vụ việc phát sinh có liên quan đến chi nhánh,
văn phòng đại diện ở Việt Nam của cơ quan, tổ
chức nước ngoài hay chỉ trong một số trường
hợp cụ thể. Cách quy định của điều luật cho
*ThS, Khoa Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
TỪ MỘT QUY ĐỊNH
BÀNH QUốC TUẤN *
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế thì các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài xảy ra ngày càng tăng, kéo theo đó là các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài ngày càng
nhiều. Khi một tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài được khởi kiện tại Tòa án của một quốc gia, vấn đề
đầu tiên là Tòa án phải xác định xem mình có thẩm quyền thụ lý giải quyết hay không? Ở Việt Nam, thẩm
quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài của Tòa án trước hết được xác định theo các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên; trong trường hợp không có điều ước quốc tế điều chỉnh thì xác định
theo các quy định của Bộ luật Dân sự; Chương XXXI, XXXV của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS).
Đặc biệt, Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS đã có những quy định chung về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI CỦA TÒA ÁN
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 45122009
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
ta hiểu rằng, Tòa án Việt Nam có quyền giải
quyết tất cả các vụ việc mà bị đơn là tổ chức
nước ngoài có chi nhánh, văn phòng đại diện ở
Việt Nam. Theo chúng tôi, quy định như vậy
là chưa phù hợp với thực tế và thiếu tính khả
thi bởi nhiều trường hợp không có một mối
liên hệ nào giữa tư cách bị đơn của cơ quan, tổ
chức nước ngoài với các chi nhánh, văn phòng
đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài đó
tại Việt Nam.
Ví dụ: Một công ty Hàn Quốc có chi nhánh
tại Việt Nam. Trong quá trình hoạt động, công
ty Hàn Quốc có thuê nhà tại Hàn Quốc của
công dân Hàn Quốc làm trụ sở của Công ty
và trong quá trình thực hiện hợp đồng đã phát
sinh tranh chấp. Công dân Hàn Quốc khởi kiện
công ty Hàn Quốc. Vụ việc này Tòa án Việt
Nam không thể có thẩm quyền giải quyết dù
công ty Hàn Quốc có chi nhánh tại Việt Nam
và là bị đơn trong vụ việc.
- b) Bị đơn là công dân nước ngoài, người
không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu
dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ
Việt Nam.
Trường hợp thứ nhất, bị đơn người nước
ngoài có nơi cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài
tại Việt Nam: Khoản 2 Điều 9 của Nghị định
số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài quy
định: “Người nước ngoài thường trú tại Việt
Nam là công dân nước ngoài và người không
quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở
Việt Nam”. Như vậy, người nước ngoài có nơi
cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam
được xem là người nước ngoài thường trú tại
Việt Nam. Và theo quy định trên, khi bị đơn
nước ngoài chỉ có nơi tạm trú tại Việt Nam mà
không có tài sản trên lãnh thỗ Việt Nam, Tòa
án Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết.
Quy định này trái với một số điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên. Ví dụ: Khoản 1,
Điều 18 của Hiệp định Tương trợ tư pháp về
các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa quy định: “Tòa án của một trong
hai bên ký kết ra quyết định sẽ được coi là có
thẩm quyền đối với vụ việc, nếu bị đơn có nơi
thường trú hoặc tạm trú trên lãnh thổ của bên
ký kết đó tại thời điểm bắt đầu tiến hành trình
tư tố tụng”. Trong trường hợp này, quy định
của điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng nên
sẽ có những trường hợp Tòa án Việt Nam có
thẩm quyền xét xử dù bị đơn nước ngoài chỉ có
nơi tạm trú tại Việt Nam.
Trường hợp thứ hai, người nước ngoài
không thường trú tại Việt Nam thì phải có
tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Với việc hội
nhập ngày càng mạnh mẽ vào hoạt động kinh
tế quốc tế, việc mở rộng phạm vi các quan hệ
người nước ngoài được tham gia tại Việt Nam,
việc phát sinh ngày càng nhiều tài sản của
người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam là
điều tất yếu. Trong trường hợp này, khi người
nước ngoài là bị đơn trong vụ tranh chấp mà
có tài sản tại Việt Nam, vụ việc sẽ thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam. Nếu
người nước ngoài là bị đơn mà tài sản không
nằm trên lãnh thổ Việt Nam và cũng không
có nơi thường trú ở Việt Nam, Tòa án Việt
Nam không có cơ sở và cũng không thể thực
hiện được quyền tài phán của mình. Tài sản
của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam
theo điều luật không phân biệt là động sản hay
bất động sản. Quy định này khác biệt so với
nguyên tắc xác định Tòa án theo lãnh thổ tại
điểm c, khoản 1, Điều 35 của BLTTDS: Tòa
án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải
quyết những tranh chấp về bất động sản; nếu
tài sản liên quan đến tranh chấp không phải là
bất động sản, thẩm quyền sẽ thuộc Tòa án nơi
cư trú của bị đơn mà không cần biết tài sản đó
đang ở đâu.
- c) Nguyên đơn là công dân nước ngoài,
người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh
sống lâu dài tại Việt Nam đối với vụ việc dân
sự về yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng, xác định
cha mẹ.
Khi bên nước ngoài là nguyên đơn, Tòa án
Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc
trong các trường hợp cụ thể là yêu cầu đòi tiền
46 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
cấp dưỡng, xác định cha mẹ và người nước
ngoài phải cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại
Việt Nam. Quy định trên là hợp lý vì những vụ
việc này liên quan đến nhân thân của các đương
sự trong vụ việc cũng như những chủ thể khác
có liên quan nên khi vụ việc xảy ra, các chủ
thể hiện đang có mặt tại Việt Nam, bên người
nước ngoài có quyền khởi kiện tại Tòa án Việt
Nam để yêu cầu giải quyết. Điều đó tạo điều
kiện thuận lợi để bên nước ngoài bảo vệ lợi ích
hợp pháp của mình, Tòa án Việt Nam có thể
xác minh vụ việc, điều tra, thu thập chứng cứ
cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần
thiết trong quá trình giải quyết vụ việc.
- d) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà
căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ
đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên
lãnh thổ Việt Nam, nhưng có ít nhất một trong
các đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức
nước ngoài. Trường hợp này được chia thành:
Quan hệ theo pháp luật Việt Nam: trong
trường hợp này, Tòa án Việt Nam có thẩm
quyền giải quyết khi bên nước ngoài không
có trụ sở chính, cơ quan quản lý, chi nhánh,
văn phòng đại diện tại Việt Nam (đối với cơ
quan, tổ chức) hoặc không có nơi thường trú ở
Việt Nam (đối với cá nhân) nhưng căn cứ để
xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật Việt Nam. Quy định này là hợp lý
vì nếu trong trường hợp cơ quan, tổ chức có
trụ sở chính, cơ quan quản lý, chi nhánh, văn
phòng đại diện ở nước ngoài hoặc cá nhân
có nơi thường trú ở nước ngoài mà căn cứ để
xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó không
theo pháp luật Việt Nam, Tòa án Việt Nam sẽ
không có cơ sở để giải quyết và cũng không có
điều kiện để giải quyết.
Trong trường hợp này, trước khi xác định
thẩm quyền xét xử, Tòa án Việt Nam cần phải
xác định luật áp dụng cho quan hệ này có là
pháp luật Việt Nam hay không, bởi nếu căn cứ
xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ không theo
pháp luật Việt Nam, Tòa án Việt Nam không
có thẩm quyền giải quyết. Một số quan điểm
cho rằng, khi áp dụng quy định trên dường như
chúng ta đã đi ngược lại nguyên tắc giải quyết
xung đột pháp luật và giải quyết xung đột thẩm
quyền xét xử. Ở đây, Tòa án phải biết luật nội
dung áp dụng cho quan hệ có phải là luật Việt
Nam hay không rồi mới xác định thẩm quyền
xét xử. Nếu luật nội dung áp dụng là luật Việt
Nam, Tòa án Việt Nam mới có thẩm quyền
xét xử1.
Quan hệ xảy ra ở Việt Nam: cũng tương tự
như trường hợp trên, Tòa án Việt Nam có thẩm
quyền giải quyết khi bên nước ngoài không có
trụ sở chính, cơ quan quản lý, chi nhánh, văn
phòng đại diện tại Việt Nam (đối với cơ quan,
tổ chức) hoặc không có nơi thường trú ở Việt
Nam (đối với cá nhân) nhưng căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ phải xảy ra
trên lãnh thổ Việt Nam.
Ví dụ: Công ty du lịch M tổ chức chương
trình du lịch cho một số công dân của Thái Lan
(gồm A, B, C, D) tại Việt Nam theo hình thức
đi du thuyền trên sông Cửu Long. Chẳng may,
du thuyền bị đắm, ông B là công dân Thái Lan
bị chết đuối. Ông E là con ông B hiện đang
làm việc tại Việt Nam muốn kiện công ty M ra
Tòa án Việt Nam để được bồi thường thiệt hại
về tinh thần. Trong trường hợp này, sự việc đã
xảy ra ở Việt Nam và có ít nhất một bên đương
sự (ông E) là người nước ngoài nên Tòa án
Việt Nam có thẩm quyền giải quyết.
Quy định này là một bước tiến bộ của pháp
luật Việt Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa
án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài trong điều kiện Việt Nam
ngày càng mở rộng quan hệ với các quốc gia,
tổ chức quốc tế, những quan hệ dân sự mà một
bên hoặc cả hai bên tham gia đều là nước ngoài
được thực hiện tại Việt Nam diễn ra ngày càng
phổ biến.
- đ) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà
căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ
đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở
nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công
dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn
(1) TS. Đỗ Văn Đại, TS. Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 51.
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 47122009
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
hoặc bị đơn cư trú tại Việt Nam.
Trong trường hợp này, căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài theo pháp luật nước ngoài hoặc
xảy ra ở nước ngoài nhưng các chủ thể tham
gia đều là chủ thể Việt Nam và có ít nhất một
bên cư trú tại Việt Nam. Ví dụ: A là công dân
Việt Nam, cư trú tại Việt Nam, sang nước T du
lịch. B cũng là công dân Việt Nam nhưng cư
trú, làm ăn ở nước T. Trong một lần lưu thông
tại nước T, xe của B va vào xe xủa A gây ra
thiệt hại. Sự việc này xảy ra ở nước ngoài, cả
hai đương sự đều là công dân Việt Nam và một
bên cư trú tại Việt Nam nên Tòa án Việt Nam
có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, trong quy định trên, chủ thể Việt
Nam tham gia có thể là cá nhân hoặc tổ chức
nhưng Luật lại sử dụng thuật ngữ “cư trú”. Đối
với trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc
cả hai đều cư trú ở Việt Nam, vấn đề không có
gì phải bàn cãi. Nhưng nơi cư trú chỉ dành cho
cá nhân chứ không dành cho tổ chức. Do đó,
đối với trường hợp vụ việc dân sự về quan hệ
dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc
xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều
là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và
nguyên đơn hoặc bị đơn (hoặc cả hai) lại là
cơ quan, tổ chức có trụ sở tại Việt Nam thì,
Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết
hay không? Về vấn đề này, có hai quan điểm
khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, chiếu theo
điều luật, Tòa án Việt Nam không có thẩm
quyền giải quyết. Theo chúng tôi, điều đó là
không hợp lý và không có tính khoa học, bởi
không có cơ sở nào để phủ nhận thẩm quyền
của Tòa án Việt Nam đối với việc giải quyết
các vụ việc dân sự mà một trong các bên đương
sự (nguyên đơn hoặc bị đơn) hoặc cả nguyên
đơn, bị đơn là cơ quan, tổ chức Việt Nam và có
trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam. Nếu Tòa án Việt
Nam không có thẩm quyền giải quyết, Tòa án
nước nào có thẩm quyền giải quyết? Việc xác
định thẩm quyền trong trường hợp này sẽ theo
nguyên tắc nào?
Quan điểm thứ hai cho rằng, trong trường
hợp này, Tòa án Việt Nam vẫn có thẩm quyền
giải quyết. Quan điểm này hợp lý hơn nhưng
lại không chính xác với ngôn từ được quy định
tại điểm đ, khoản 2, Điều 410 của BLTTDS vì
cơ quan, tổ chức không có nơi cư trú mà chỉ
có nơi đặt trụ sở chính, nơi đặt trụ sở của chi
nhánh, văn phòng đại diện.
Ngoài các trường hợp nêu trên, điểm e, g,
Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS còn đưa ra
các trường hợp Tòa án Việt Nam giải quyết
các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong
trường hợp: Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp
đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam; vụ việc ly
hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân
Việt Nam.
2. Hướng hoàn thiện pháp luật
Có thể nói, về cơ bản, khoản 2, Điều 410
của BLTTDS đã liệt kê tương đối cụ thể các
trường hợp Tòa án Việt Nam có thẩm quyền
chung giải quyết các vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài. Những quy định này tương đối
phù hợp với các chuẩn mực chung của pháp
luật quốc tế, góp phần tạo điều kiện thuận lợi
để Tòa án Việt Nam tham gia vào toàn bộ cơ
chế điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối với
các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Tuy nhiên, như đã phân tích, để điều luật
được áp dụng có hiệu quả trong việc điều chỉnh
các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
thì, một số điểm trong Khoản 2, Điều 410 của
BLTTDS cần được sửa đổi như sau:
- Thứ nhất, điểm a) Tòa án Việt Nam giải
quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
trong trường hợp “Bị đơn là cơ quan, tổ chức
nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc
bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn
phòng đại diện tại Việt Nam”.
Như trên đã phân tích, Tòa án Việt Nam
chỉ nên giải quyết những vụ việc có liên quan
đến hoạt động ở Việt Nam của chi nhánh, văn
phòng đại diện ở Việt Nam của cơ quan, tổ
chức nước ngoài; còn những trường hợp khác,
Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền. Chỉ có
48 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
trong quá trình hoạt động, các quyền và nghĩa
vụ liên quan đến chức năng của cơ quan, tổ
chức mới phát sinh và cũng chỉ khi tiến hành
các hoạt động tại Việt Nam hoặc có liên quan
đến Việt Nam mới có cơ sở và điều kiện để
Tòa án Việt Nam giải quyết các tranh chấp có
liên quan.
Ví dụ: đối với công ty Hàn Quốc trên, trong
quá trình hoạt động, chi nhánh của công ty
Hàn Quốc tại Việt Nam thuê nhà tại Việt Nam
của công dân Việt Nam làm trụ sở của công
ty. Nếu có phát sinh tranh chấp về hợp đồng
thuê nhà này, Tòa án Việt Nam mới có thẩm
quyền giải quyết khi các công dân Việt Nam
khởi kiện chi nhánh công ty Hàn Quốc tại Việt
Nam. Còn các vụ việc chỉ liên quan đến công
ty mẹ tại Hàn Quốc, Tòa án Việt Nam không
có thẩm quyền giải quyết.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị sửa đổi điểm a,
Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS thành: Tòa
án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài trong trường hợp “Bị đơn là
cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại
Việt Nam hoặc vụ việc liên quan đến hoạt động
của cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại
diện tại Việt Nam của bị đơn là cơ quan, tổ
chức nước ngoài”.
- Thứ hai, quy định của điểm b, Khoản 2:
Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài trong trường hợp “Bị đơn
là công dân nước ngoài, người không quốc tịch
cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam
hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam”.
Như đã phân tích, điều này trái với quy định
của một số điều ước quốc tế trong lĩnh vực này
mà Việt Nam là thành viên. Trong điều kiện
toàn cầu hóa như hiện nay, bất kỳ quốc gia nào
khi xây dựng hệ thống pháp luật của quốc gia
đều phải xem xét đến các chuẩn mực pháp lý
chung của thế giới sao hoặc các điều ước quốc
tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia.
Một phần quan trọng các quy phạm pháp
luật của tư pháp quốc tế chứa đựng trong các
điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương
được ký kết giữa các quốc gia. Nếu có sự khác
biệt giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc
gia thì, quy định của điều ước quốc tế luôn
được ưu tiên áp dụng. Chính vì vậy, việc ban
hành các quy định pháp luật quốc nội tương
thích, phù hợp với nội dung của các điều ước
quốc tế mà quốc gia đó ký kết hoặc tham gia
là một yêu cầu quan trọng trong quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật quốc gia, đặc biệt là
đối với Việt Nam khi hệ thống pháp luật cho
sự vận hành của nền kinh tế thị trường đang
trong giai đoạn hình thành và phát triển.
Do đó, để góp phần hạn chế sự khác biệt
giữa hệ thống pháp luật Việt Nam với các cam
kết quốc tế của Việt Nam thể hiện trong các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên,
điểm b, Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS cần
được điều chỉnh theo hướng Tòa án Việt Nam
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài trong trường hợp “Bị đơn là công dân
nước ngoài, người không quốc tịch có nơi
thường trú, tạm trú tại Việt Nam hoặc có tài
sản trên lãnh thổ Việt Nam”.
- Thứ ba, để quy định tại điểm đ, Khoản 2,
Điều 410 của BLTTDS được hiểu và áp dụng
chính xác, thống nhất và tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn pháp
luật áp dụng, điều luật cần được sửa đổi thành:
Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp
“Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó
theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước
ngoài, nhưng các đương sự đều là công dân, cơ
quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc
bị đơn là cơ quan, tổ chức Việt Nam có trụ sở
chính tại Việt Nam, công dân Việt Nam có nơi
cư trú tại Việt Nam”.
Xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án
là một nội dung quan trọng của quá trình giải
quyết xung đột pháp luật trong Tư pháp quốc
tế. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là yêu cầu
cần thiết trong quá trình hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về tư pháp quốc tế nói riêng và toàn
bộ hệ thống pháp luật nói chung.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_mot_quy_dinh_ve_tham_quyen_xet_xu_cac_vu_viec_dan_su_co_y.pdf