PHẦN MỘT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC THANH TRA
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; về chống tham ô, lãng phí, quan liêu, thực hành tiết kiệm; về nền văn hóa dân tộc và hiện đại; về đạo đức cách mạng; về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh . Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Đó là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê nin, là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không theo lối tầm chương trích cú mà nghiên cứu một cách hệ thống, nắm vững và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn những tư tưởng, quan điểm cốt lõi nhất về những vấn đề cơ bản nhất. Đó cũng là định hướng và yêu cầu quan trọng khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết phải nghiên cứu nguồn gốc, cái tạo nên bản chất cốt lõi, xuyên suốt hình thành trong con người Hồ Chí Minh trong suốt chiều dài của sự nghiệp. Về phương diện lý luận, nhiều nhà nghiên cứu coi nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ 3 điểm cơ bản là: Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc Việt Nam; tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây; Chủ nghĩa Mác – Lênin. Ba yếu tố trên kết hợp với nhân cách cá nhân kiệt xuất của Người được đúc rút từ quá trình hoạt động thực tiễn của Người tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc Việt Nam
Có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con đường cho cách mạng Việt Nam với tấm lòng của một người Việt Nam yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước của Người được tiếp thu từ truyền thống yêu nước từ ngàn đời của cha ông. Đó là một truyền thống yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Truyền thống đó đã khiến Người không cam tâm nhìn cảnh nước mất nhà tan, đồng bào mình lầm than trong kiếp nô lệ. Truyền thống đó đã hun đúc người thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân.
Lịch sử đã chứng minh rằng, dân tộc Việt Nam là dân tộc hình thành rất sớm. Nước chúng ta có từ thời Vua Hùng, có quốc gia dân tộc từ thời đại Văn Lang, Âu Lạc. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc văn hiến, có một nền văn hóa truyền thống lâu đời, đó là truyền thống nhân nghĩa, độc lập, tự lực tự cường của một dân tộc được hình thành sớm, truyền thống này được hình thành từ cuộc đấu tranh khuất phục thiên nhiên và chống kẻ thù xâm lược giữ gìn đất nước. Tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái được thể hiện thông qua thực tiễn các cuộc đấu tranh làm chủ thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Vì vậy, trách nhiệm của con cháu là phải giữ gìn và bảo vệ bờ cõi non sông như lời Bác Hồ đã căn dặn “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Trong những truyền thống tốt đẹp đó, chủ nghĩa yêu nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc ta. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh dân tộc ta là một dân tộc có lòng yêu nước nồng nàn, và trên hết đó là một dân tộc có ý chí kiên cường, bất khuất, không chịu làm nô lệ, kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc mình. Truyền thống đó đã thấm đẫm trong Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Người đã mang theo trong suốt cuộc đời mình. Chính chủ nghĩa yêu nước đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Có thể coi đó là hành trang giá trị nhất của người thanh niên Nguyễn Tất Thành, nó là cơ sở, là động lực trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nhận thức về lòng yêu nước của con người Việt Nam, Người nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Tư tưởng yêu nước, thương dân của Người được hình thành từ rất sớm. Từ nhỏ cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã được nuôi dưỡng trong truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất của quê hương sông Lam núi Hồng, một mảnh đất địa linh, nhân kiệt. Người được thừa hưởng trí tuệ uyên bác của người cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và ảnh hưởng, hấp thụ những bài học về lòng nhân ái, đức hy sinh cao cả của mẹ là bà Hoàng Thị Loan. Những năm tháng thơ ấu, Người đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, đời sống nhân dân lầm than, cơ cực, sự thống trị của thực dân Pháp vô cùng hà khắc và bạo tàn. Các cuộc đấu tranh do các tầng lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo đều đi đến thất bại. Cách mạng Việt Nam khi đó khủng hoảng về đường lối.
Tiếp thu truyền thống yêu nước, với tư duy độc lập sáng tạo, Hồ Chí Minh đã sớm hình thành chí hướng và tìm con đường đi cho cho riêng mình. Hồ Chí Minh rất trân trọng và khâm phục tinh thần đấu tranh bất khuất của những chí sĩ yêu nước trước đó, nhưng Người có suy nghĩ khác với con đường cứu nước của các bậc tiền bối. Người cho rằng con đường Đông du của cụ Phan Bội Châu chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực hiện các biện pháp cải lương, chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”. Năm 1911, Người ra đi tìm đường cứu nước. Người không đi theo con đường của các bậc tiền bối đã đi, mà đi theo con đường riêng của mình.
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước đã mang theo truyền thống yêu nước, nhân ái, tự lực, tự cường của dân tộc, với một tinh thần yêu nước sâu sắc, một hoài bão cứu nước, cứu dân và một lòng tin ở sức ta có thể giải phóng cho ta.
1.2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây
Có thể thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh có rất nhiều biểu hiện của việc tiếp thu những giá trị nhân văn của cả văn hoá phương Đông và phương Tây
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ Người đã học chữ Hán với các thầy là bậc túc nho yêu nước, làu thông Tứ Thư, Ngũ Kinh. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Người rất lớn, đạo đức Nho giáo đã thấm vào tư tưởng của Người, những triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, đề cao văn hóa, lễ giáo và coi trọng học hành. Khi đọc những bài viết của Người, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, ta đều thấy có rất nhiều luận điểm, phạm trù, mệnh đề của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng có chọn lọc, đưa vào đó những tư tưởng mới, phù hợp với điều kiện của đất nước và thời đại, đặc biệt trên lĩnh vực đạo đức.
Người tiếp thu tinh hoa Nho giáo và đứng trên quan điểm cách mạng để sử dụng Nho giáo, tức là tiếp thu có phê phán. Cũng giống như Mác tiếp thu có phê phán tư tưởng của các nhà khoa học xã hội tư sản; triết học duy vật của Phơ-Bách và phép biện chứng của Hêghen, Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận khách quan, khoa học đối với Nho giáo, Người đánh giá đúng đắn vai trò, ý nghĩa của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng xã hội nhân loại.
Cũng như vậy là sự tiếp thu có chọn lọc tinh tuý của Phật giáo - một nguồn gốc tư tưởng, triết lý, văn hóa phương Đông du nhập vào Việt Nam rất sớm. Những điểm tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn hết sức sâu sắc trong tư duy hành động, cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Người kế thừa những tư tưởng tiến bộ, tích cực của Phật giáo, đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn; nếp sống giản dị, thanh liêm; đề cao tinh thần bình đẳng; không xa rời đời sống mà luôn gắn bó với dân tộc, đất nước.
Ảnh hưởng của tư tưởng Lão – Trang cũng thể hiện đậm nét trong con người Chủ tịch Hồ Chí Minh với lòng yêu thiên nhiên, lối sống giản dị, hòa mình với thiên nhiên của Người.
Văn hóa phương Tây với tư tưởng dân chủ cách mạng cũng thể hiện đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ khi Người còn học ở các trường Tiểu học Đông Ba, Quốc học Huế, Người đã say mê môn học lịch sử và tìm hiểu về cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789. Một điểm quan trọng tác động đến Hồ Chí Minh là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, nó là xuất phát điểm để Người xác định hướng đi tìm đường cứu nước của mình. Người kể lại: Vào trạc tuổi 13, tôi có nghe được những từ “Tự do, bình đẳng, bác ái”, lúc đó các sĩ phu yêu nước đang bàn với nhau về những từ này, điều đó thôi thúc Người quyết tâm sang phương Tây, sang Pháp để tìm hiểu tự do, bình đẳng, bác ái, xem họ làm thế nào để trở về cứu nước, cứu đồng bào. Qua đó, có thể thấy tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái có ảnh hưởng rất mạnh đến Hồ Chí Minh trước khi xuất dương tìm đường cứu nước.
Luận văn dài 69 trang, chia làm 3 chương
69 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1830 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về công tác thanh tra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iết và giải quyết mà còn giúp các cấp lãnh đạo địa phương tìm ra những biện pháp để tích cực chống lãng phí, tham ô” Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 10, tr.81
.
Như vậy, thanh tra, kiểm tra không những để phát hiện vi phạm, phát hiện tham ô, lãng phí để xử lý. Quan trọng hơn, qua kiểm tra, các cơ quan thanh tra nhà nước tìm hiểu nguyên nhân tham ô, lãng phí, tìm ra biện pháp chống tham ô, lãng phí, từ đó, kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với bản thân các cơ quan là đối tượng thanh tra, kiểm tra để có các giải pháp hữu hiệu nhằm chống tham ô, lãng phí có hiệu quả.
Bệnh quan liêu, mệnh lệnh là nguyên nhân, nguồn gốc của nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, các cơ quan thanh tra nhà nước chẳng những kiểm tra chống lãng phí, tham ô mà còn phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh để giúp các cơ quan Nhà nước cải tiến công tác công tác, giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố bộ máy Nhà nước.
Cơ quan thanh tra nhà nước là cơ quan được Đảng, Chính phủ tín nhiệm giao trọng trách chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu. Để thực hiện tốt, có hiệu quả nhiệm vụ của mình, cơ quan thanh tra nhà nước phải tự chống tham ô, lãng phí, bệnh quan liêu trong nội bộ cơ quan mình trước. Hồ Chủ tịch yêu cầu người cán bộ thanh tra phải tự mình nghiêm chỉnh, phải có đạo đức cách mạng, tự mình phải gương mẫu cho người khác. Người chỉ thị rõ ràng: “phái anh tham ô đi thanh tra tham ô thì không được, phái người lười đi thanh tra công việc người khác cũng không được” Xem: Hồ Chủ tịch Huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc, ngày 19/4/1957
. Người cán bộ thanh tra khi đi thanh tra chống quan liêu thì trước hết bản thân mình không được quan liêu. Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn hiểu rõ sự thật ở cơ quan, ở địa phương nào đấy phải đến tận nơi, nghe ngóng, tìm hiểu, chịu khó. Quan liêu sẽ không làm được nhiệm vụ.
Yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ thanh tra
4.1. Cán bộ thanh tra phải có năng lực, kinh nghiệm và uy tín
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ công tác thanh tra có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, việc lựa chọn ai làm công tác thanh tra là một vấn đề quan trọng, nó sẽ quyết định đến hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra. Người nói: “Vì công tác thanh tra là một công tác quan trọng, Đảng và Chính phủ có tin cậy mới giao cho làm nhiệm vụ ấy. Có thể nói cán bộ thanh tra là tai, mắt của Đảng và Chính phủ, tai mắt có sáng suốt thì người mới sáng suốt” Xem: Một số văn kiện về công tác thanh tra, tr.11-15.
. Để làm được tai mắt cho Đảng, cho Chính phủ, cán bộ thanh tra phải là những người thực sự có năng lực, kinh nghiệm và uy tín. Thực tế cho thấy để làm được các công việc quan trọng nhưng khó khăn và phức tạp, nhất là các công việc đòi hỏi hiểu biết sâu sắc về lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn khoa học - kỹ thuật, thì thực sự đòi hỏi khả năng về trí tuệ của con người.
Công tác thanh tra đòi hỏi đội ngũ cán bộ có năng lực. Người làm việc có năng lực thì công việc mới đem lại hiệu quả, cũng giống như trên cơ thể con người, đầu óc - trung tâm nhận thức – đòi hỏi tai, mắt sáng suốt thì mới có khả năng nhận thức sáng suốt, minh mẫn. Khi nói về tài và đức, Hồ Chủ tịch đã dạy: có đức mà không có tài sẽ thành người vô dụng. Đối với công tác thanh tra, câu nói đó của người lại càng xác đáng. Thanh tra là một nghề đặc biệt, người làm nghề thanh tra phải có khả năng, kiến thức đặc thù cũng như phải giàu bản lĩnh và kinh nghiệm. Người cán bộ thanh tra có năng lực, kinh nghiệm là người không chỉ nắm vững công việc mà họ phải làm, tức là tinh thông nghiệp vụ, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ thanh tra, mà họ còn hiểu biết khá sâu sắc về các vấn đề xã hội mà họ đang sống, giỏi về các mối quan hệ hành chính, am hiểu luật pháp, giải quyết các mối quan hệ xã hội một cách minh bạch, công tâm theo đúng pháp luật và không trái với tập quán, đạo lý truyền thống của dân tộc…Xuất phát từ đặc thù của công tác thanh tra là: “…theo dõi, xem xét việc chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Chính phủ” Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 10, tr. 275, 276
, tức là công tác kiểm tra, phát hiện, “đi đến ngọn nguồn, lạch, sông” cho nên người làm công tác thanh tra phải càng thực sự năng lực và sáng suốt. Chẳng hạn, bàn về năng lực của người cán bộ thanh tra thể hiện ở phương pháp thanh tra đúng đắn, Người chỉ rõ phương pháp thanh tra khoa học đó là: thanh tra phải kịp thời; “thanh tra phải đến tận nơi, xem tận chỗ” Hồ Chủ tịch Huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc, ngày 19/4/1957
; “thanh tra phải cẩn thận, khách quan” Hồ Chủ tịch Huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc, ngày 19/4/1957
, “thanh tra phải dùng cách thức phê bình và tự phê bình” Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 5, tr.521
.
Bên cạnh phẩm chất có năng lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi người cán bộ thanh tra phải giàu bản lĩnh, kinh nghiệm và có uy tín cao. Khi nói về trách nhiệm của người lãnh đạo là phải kiểm tra công việc của các cơ quan, của các cán bộ cấp dưới, Người chỉ rõ: “Không thể gặp ai cũng phái đi kiểm tra. Người lãnh đạo phải tự mình làm việc kiểm tra mới đủ kinh nghiệm và oai tín. Nhưng người lãnh đạo cần phải có một nhóm cán bộ nhiều kinh nghiệm và giàu năng lực để giúp mình đi kiểm tra”. Thanh tra là một công việc phức tạp, nhất là khi vụ việc thanh tra có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp hoặc khi đối tượng thanh tra là những cán bộ cao cấp thì càng đòi hỏi bản lĩnh, kinh nghiệm của người đi thanh tra. Bản lĩnh đó thể hiện tinh thần thẳng thắn kiểm tra, phát hiện các sai phạm, đấu tranh phê bình đối với mọi đối tượng. Kinh nghiệm của người cán bộ thanh tra có được là do học hỏi, tôi luyện, đúc rút từ thực tế, đó là sự thuần thục chuyên môn, sắc sảo, khôn ngoan trong xử lý mọi vấn đề, các quan hệ phát sinh trong quá trình thanh tra. Thực tế, khi thanh tra các vụ việc phức tạp, kinh nghiệm sẽ giúp cán bộ thanh tra làm tốt công việc, họ sẽ bóc tách mọi vấn đề, đi đến ngọn nguồn, lạch, sông, có phương sách đúng đắn với các hành vi, thủ đoạn không tích cực của một số đối tượng thanh tra nhằm che đậy các sai phạm.
Người cán bộ thanh tra phải có uy tín cao, Người đã chỉ rõ: “Cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ thì không soi được” Hồ Chủ tịch Huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc, ngày 19/4/1957
. Đúng vậy, để làm gương cho người ta soi thì cán bộ thanh tra phải thực sự có tài năng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng. Năng lực và đạo đức là hai phẩm chất tạo tạo ra uy tín cho người cán bộ thanh tra. Sự tinh thông nghiệp vụ thanh tra, hiểu biết sâu rộng về chính sách, pháp luật cộng với các tấm gương trong sáng về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của cán bộ thanh tra sẽ làm cho đối tượng thanh tra “tâm phục khẩu phục”, thành khẩn sửa chữa khuyết điểm, tiếp thu phê bình để hoàn thành tốt hơn chức trách, nhiệm vụ của mình. Hồ Chủ tịch có yêu cầu cao đối với cán bộ thanh tra, Người chỉ rõ: “…muốn kiểm soát có kết quả tốt, phải có hai điều: một là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín”.
Quan điểm của Hồ Chủ tịch về cán bộ thanh tra có năng lực, kinh nghiệm và uy tín đã thể hiện qua việc người cẩn trọng lựa chọn, đề bạt những người cán bộ có đầy đủ phẩm chất như đã nói ở trên.
Sau khi thành lập Ban Thanh tra đặc biệt ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh cử Cụ Bùi Bằng Đoàn, nguyên Chánh nhất Toà thượng thẩm Hà Nội - một nhân sĩ nổi tiếng và ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng Bộ Canh nông - một trí thức trẻ có năng lực vào Ban Thanh tra đặc biệt.
Khi giao nhiệm vụ cho Ban Thanh tra đặc biệt, Người căn dặn ông Cù Huy Cận: “Ban Thanh tra không cần nhiều người, lúc này hai người là đủ: một vị cao tuổi và là vị quan có tiếng liêm khiết của Triều đình cũ là cụ Bùi; một thanh niên hăng hái, mà trong nước cũng biết tiếng là chú. Người già, người trẻ dựa vào nhau mà làm việc, nhất định việc thanh tra sẽ tốt, và cần làm ngay”.
Cán bộ thanh tra phải có đạo đức cách mạng, phải gương mẫu
Bàn về đạo đức cách mạng, trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng” được công bố lần đầu tiên trên tạp chí “Học tập” số 12 (12/1958), Người viết: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang… Nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho Cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.” Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB.Chính trị quốc gia, H.2002, tập 9, tr.285.
Như vậy, có thể hiểu rằng yếu tố cách mạng trong đạo đức hình thành phạm trù đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng không chỉ thể hiện ở các phẩm hạnh: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, mà còn là tư tưởng, lập trường chính trị, lý tưởng, quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho Cách mạng. Người nói: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, và càng luyện càng trong” Sđd, tập 9, tr.293.
.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức là nhân tố quyết định giúp người cách mạng hoàn thành nhiệm vụ được giao; đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức phải được xem xét toàn diện trong mọi lĩnh vực hoạt động, từ đời công đến đời tư như sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu, lãnh đạo, quản lý… Người chỉ rõ: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” Sđd, tập 9, tr.283.
.
Đối với người cán bộ thanh tra thì đạo đức cách mạng lại càng là một yêu cầu quan trọng, Người nói: “Cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ thì không soi được. Vì thế cán bộ thanh tra phải rèn luyện đạo đức cách mạng”. Đó là câu nói nổi tiếng của Người về nghề thanh tra cũng như người làm công tác thanh tra. Có thể ví câu nói đó như “khuôn vàng thước ngọc” mà bất kỳ người cán bộ thanh tra nào đều phải lĩnh hội, làm thước ngắm để tu dưỡng, cố gắng học tập sửa đổi, cố phát triển ưu điểm sửa chữa khuyết điểm, đó cũng là đòi hỏi đối với người cán bộ thanh tra hơn những cán bộ khác. Là những người cán bộ làm công tác đặc biệt – công tác kiểm tra, phát hiện, làm sáng tỏ ngọn nguồn lạch sông… – nên bản thân người làm công tác thanh tra phải tự mình gương mẫu vì việc làm của họ luôn luôn được nhân dân theo dõi, coi là khuôn mẫu. Mỗi cán bộ thanh tra phải thật sự là tấm gương mọi mặt cho quần chúng noi theo, có như vậy thì người được thanh tra mới “tâm phục khẩu phục” việc thanh tra của họ. Người so sánh “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 5, tr.287
.
Bàn về tấm gương về đạo đức cách mạng của người cán bộ thanh tra, người chỉ rõ: “Thường vì cơ quan, địa phương, bộ phận hay công việc nào có chỗ không đúng, chỗ sai lầm mới cần thanh tra (cũng có khi thanh tra cái tốt, nơi tốt, nhưng thường là như vậy) cho nên phẩm chất của người cán bộ thanh tra là phải tự mình nghiêm chỉnh, phải có đạo đức cách mạng. Thí dụ: Phái anh tham ô đi thanh tra tham ô thì không được, phái người lười đi thanh thanh tra công việc người khác thì cũng không được. Cán bộ thanh tra phải có đạo đức cách mạng, phải hiểu nhân tình thế cố đã đành, nhưng tự mình còn phải gương mẫu cho người khác” Một số văn kiện về công tác thanh tra, tr. 7-10
.
Theo quan điểm của người, phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ thanh tra còn thể hiện ở việc người cán bộ đó hiểu rõ vinh dự được làm công tác thanh tra, không mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa. Người nói: “Đối với cán bộ, được làm công tác thanh tra là một vinh dự. Vì sao? Vì công tác thanh tra là một công tác quan trọng, Đảng và Chính phủ có tin cậy mới giao cho làm nhiệm vụ ấy. Có thể nói cán bộ thanh tra là tai, mắt của Đảng và Chính phủ, tai mắt có sáng suốt thì người mới sáng suốt” Hồ Chủ tịch huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960
. Người cũng phê bình: “Một số cán bộ chưa yên tâm công tác, cho làm công tác thanh tra không tiến bộ, thắc mắc về tiền đồ, đứng núi này trông núi nọ, muốn xin đi công tác khác. Như thế là không hiểu rõ nhiệm vụ của mình, không hiểu vinh dự của mình, là mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa” Hồ Chủ tịch huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960
.
4.3. Cán bộ thanh tra phải cố gắng học tập, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, nghiệp vụ, chuyên môn
Thanh tra là một công việc đặc biệt, chính vì vậy, người cán bộ thanh tra phải là một điển hình về năng lực và đạo đức cách mạng, phải “như cái gương cho người ta soi mặt”. Nhưng không phải người cán bộ thanh tra nào cũng đều hoàn thiện vì ai cũng có ưu, có khuyết. Để phấn đấu trở thành một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng thì cán bộ thanh tra phải luôn rèn luyện, tu dưỡng và có ý thức tự phê bình sửa mình để tiến tới sự hoàn thiện làm “cái gương” cho người ta soi, học tập, người nói: “… có phải thần thánh mới làm được thanh tra không? Vì ai cũng có ưu, cũng có khuyết, nhưng cán bộ nào được chọn đi làm việc thanh tra là Đảng và Chính phủ có tin mới chọn mình, mình phải rèn luyện, học tập, cố gắng sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm…Rèn luyện đạo đức cách mạng có khó không? Khó. Nhưng cố gắng học tập sửa đổi, cố phát triển ưu điểm sửa chữa khuyết điểm dần dần; công việc của cán bộ thanh tra đòi hỏi cái đó hơn cán bộ khác. Các cô, các chú cũng là cán bộ cách mạng, quyết tâm rèn luyện, học hỏi nhất định làm tròn nhiệm vụ. Nhưng phải quyết tâm. Không phải nghe Bác nói như thế rồi kiểm điểm thấy mình còn khuyết điểm lại bi quan. Như cái dao bây giờ chưa sắc nhưng cần phải chặt, nên phải cố mài rồi cũng sắc” Hồ Chủ tịch huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960
.
Xuất phát từ quan niệm “nhân vô thập toàn”, Hồ Chủ tịch đưa ra quan điểm rất biện chứng và đúng đắn trong việc nhìn nhận cán bộ, Người chỉ rõ: “Không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ”. Tinh thần câu nói đó đã thể hiện quan điểm yêu quý, giữ gìn và đào tạo cán bộ. Tài năng và đạo đức của con người không phải tự trên trời rơi xuống, nó phải luôn luôn được trau dồi, rèn luyện và phát triển. Tài năng của con người có được chủ yếu là nhờ học tập và rèn luyện, học là một công việc liên tục suốt đời như V.I.Lênin đã dạy: “học, học nữa, học mãi”.
Nêu rõ tầm quan trọng của việc học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, và trau dồi đạo đức cách mạng của người cán bộ thanh tra, Hồ Chủ tịch căn dặn: “Cán bộ thanh tra phải cố gắng học tập, học cái hay, tránh cái dở, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, trình độ nghiệp vụ và trình độ chuyên môn để làm việc cho tốt” Hồ Chủ tịch huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960
.
Đúng như Người đã dạy, để làm việc cho tốt thì cán bộ thanh tra phải có đạo đức cách mạng và có năng lực. Chúng chỉ có được nhờ không ngừng học tập, trau dồi. Trau dồi đạo đức cách mạng không chỉ là tu dưỡng đạo đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, mà còn là không ngừng học tập, nắm vững tư tưởng và các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; không ngừng cập nhật, nắm bắt, thấm nhuần các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Học tập được như vậy, thì đạo đức cách mạng mới được trau dồi, phát triển và cán bộ thanh tra sẽ trở thành “cái gương cho người ta soi mặt”.
Học tập là một vấn đề chủ chốt trong việc tăng cường năng lực của cán bộ thanh tra. Người cán bộ thanh tra phải không ngừng trau dồi, nâng cao nghiệp vụ thanh tra: đó là các kiến thức chuyên ngành về kinh tế, tài chính; chỉ tiêu, chế độ; chính sách, pháp luật; ngoại ngữ, tin học v.v… Chỉ làm được như vậy thì cán bộ thanh tra mới theo kịp yêu cầu của quản lý nhà nước là công tác thanh tra phải thật sự hiệu lực, hiệu quả, luôn thích ứng với sự phát triển của các quan hệ, vấn đề xã hội là nội dung và đối tượng của thanh tra.
Công tác thanh tra trong tổ chức và họat động của bộ máy nhà nước chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi có đội ngũ cán bộ ngang tầm, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn. Như vậy, ở mọi lúc mọi nơi, nhất là trong giai đoạn hiện này khi nước ta đang bước sang thời kỳ đổi mới đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì lời căn dặn của Hồ Chủ tịch về tinh thần không ngừng học tập, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ thật sự là một yếu chỉ mà mọi cán bộ thanh tra phải học tập, quán triệt.
Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham ô, lãng phí và yêu cầu đối với cán bộ thanh tra viên giai đoạn hiện nay
Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra vừa là yêu cầu chính trị vừa là yêu cầu đặt ra từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của ngành thanh tra trong thời kỳ mới.
1. Học tập, vận dụng các quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác thanh tra
Trước hết chúng ta cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và vị trí của công tác thanh tra trong việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân của Hồ Chủ tịch. Với mục tiêu xây dựng một nhà nước dân chủ “tất cả quyền bình thuộc về nhân dân” (Điều 1 Hiến pháp năm 1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Chính phủ phải là công bộc của dân. Các công việc của Chính phủ phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt lợi ích dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh. Và để có một Chính phủ như vậy thì luôn phải có sự kiểm soát và giám sát. Nhiệm vụ của Ban Thanh tra đặc biệt do Sắc lệnh 64/SL Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành chính là để nhằm kiểm soát bộ máy và các cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Hoạt động thanh tra chính là một cơ chế để bảo đảm sự hoạt động của bộ máy đó thực sự có hiệu quả. Vậy thì theo quan điểm của Hồ Chủ tịch thì chính là công tác thanh tra phải hướng vào phục vụ cho sự vận hành của bộ máy nhà nước qua câu nói nổi tiếng của Người: “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”. Câu nói đó thể hiện tầm tư tưởng và quan điểm của Hồ Chủ tịch về công tác thanh tra, không những Người khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của công tác thanh tra mà còn thể hiện bản chất của hoạt động thanh tra là giải quyết mối quan hệ “trên dưới” làm cho bộ mày nhà nước ngày càng trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả thể hiện đúng bản chất nhà nước Việt nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ở đây Bác không nói đến quan hệ giữa nhà nước và nhân dân hay với xã hội nói chung vì với Bác dân không bao giờ là "dưới", Người luôn răn dạy: cán bộ là công bộc của dân. Nói đến thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới là Bác muốn nói đến quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong bộ máy chính quyền, thanh tra giúp cho trên hiểu rõ bản thân chủ trương chính sách của mình đúng hay không đúng còn điều chỉnh, trên “biết được địa phương nào làm tốt, làm vừa, làm xấu, có làm hay không làm, trên không biết, địa phương tự mình cũng không biết; trên không thấu dưới, dưới không thấu trên. Vì vậy cán bộ thanh tra giúp trên hiểu biết tình hình địa phương và cấp dưới, đồng thời cũng giúp cho cấp địa phương kịp thời sửa chữa uốn nắn nếu làm sai, hoặc làm chậm”. Có thể nói, thanh tra, kiểm tra - theo quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, như một chiếc cầu nối giữa lãnh đạo cơ quan cấp trên và cơ quan cấp dưới, giữa cơ quan ban hành chính sách và cơ quan thực hiện chính sách, giữa trung ương và địa phương, giữa người lãnh đạo, chỉ đạo và người thực hiện.
Điều đó khẳng định hoạt động thanh tra không có mục đích tự thân mà là để phục vụ cho công tác quản lý điều hành của nhà nước ngày càng có hiệu quả, hiệu lực, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Chính vì vậy công tác thanh tra phải hướng vào việc đánh giá các cơ chế chính và việc thực hiện các cơ chế chính sách đó trong thực tiễn cuộc sống. Trong cơ chế pháp luật liên quan đến nhiệm vụ quyền hạn của thanh tra cũng như trong thực tiễn tiến hành các cuộc thanh tra thì đây phải được coi là ưu tiên hàng đầu. điều này càng trở nên cực kỳ quan trọng khi chúng ta đang trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, trọng tâm là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, sự đánh giá cơ chế chính sách qua các kiến nghị của thanh tra là vô cùng cần thiết. Chúng ta đang sống trong một thời kỳ phát triển hết sức sôi động từ bản thân quá trình phát triển nền kinh tế thị trường với sức tăng trưởng đáng kể do mọi tiềm năng được phát huy. Thêm vào đó là sự hội nhập của Việt nam vào đời sống kinh tế - chính trị của thế giới. Trong bối cảnh đó, các tiêu chí đánh giá luôn có sự biến động. Bản thân các văn bản pháp luật cũng được thay đổi thường xuyên nhưng nhiều khi vẫn không phản ánh hết được thực tiễn cuộc sống, các quan hệ xã hội mới phát sinh. Chính vì vậy ngành thanh tra và cụ thể là những người đi thanh tra phải có quan điểm đúng và nhìn nhận các vấn đề với nhãn quan biện chứng, trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng để đánh giá chính xác các vấn đề mà mình thanh tra. Từ đó đưa ra các kiến nghị xác đáng để xử lý bản thân những vấn đề đó, đồng thời đưa ra các giải pháp hoặc dự kiến cho tương lai. Thanh tra lấy pháp luật làm chuẩn mực nhưng hơn thế nữa phải thấy được mục đích tối thượng trong quản lý nhà nước là hiệu quả quản lý, tính phục vụ nhân dân để xem xét đánh giá đúng sai, công và tội… Một việc làm nào đó mà chưa đúng với quy định của pháp luật nhưng lại có lợi cho nước, cho dân thì chính quy định đó cần phải được thanh tra kiến nghị sửa đổi. Như vậy thanh tra ngoài việc xem xét việc làm của đối tượng thanh tra còn phải xem xét chính chủ trương, chính sách có đúng không có phù hợp với thực tiễn hay không. Đây cũng là vấn đề rất phức tạp đòi hỏi người làm công tác thanh tra phải thật sự có năng lực, có thể chỉ ra nguyên nhân của các sai lầm khuyết điểm của đối tượng thanh tra để giúp họ khắc phục, sửa chữa “thanh tra không phải chỉ đi xem địa phương thực hiện chỉ thị nghị quyết thế nào. Nếu họ làm sai hay gặp khó khăn, còn giúp đỡ họ làm cho đúng với nghị quyết, chỉ thị của trên đưa xuống”. Làm được như vậy thanh tra mới thực sự là “người bạn của dưới”.
Hiện nay không ít cán bộ trong và ngoài ngành thanh tra cho rằng quyền lực thanh tra ngày càng bị hạn chế; công tác thanh tra không được coi trọng vì thanh tra chủ yếu là “kiến nghị”, không có quyền xử lý mạnh mẽ như trước kia. Hiểu như vậy là chưa đầy đủ và chưa thấy hết được ý nghĩa quan trọng và vai trò to lớn của thanh tra trong việc đóng góp vào quá trình hoàn thiện cơ chế chính sách thông qua việc thực hiện quyền kiến nghị. Vấn đề ở chỗ quyền kiến nghị đó được thực hiện như thế nào và cơ chế nào để quyền kiến nghị đó được xem xét một cách nghiêm túc. Điều này cần xuất phát từ cả hai phía:
Một là: Cơ quan thanh tra cần phải có những kiến nghị thật xác đáng (kể cả kiến nghị về sửa đổi cơ chế chính sách và kiến nghị về xử lý qua thanh tra), có căn cứ pháp luật và phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Hai là: Cần xây dựng cơ chế để phát huy hiệu quả, hiệu lực các kiến nghị của thanh tra. Trong đó cần quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xem xét và xử lý một cách nghiêm túc những vấn đề mà thanh tra kiến nghị và có cơ chế để thực hiện vấn đề này một cách hiệu quả.
Chỉ có như vậy thanh tra mới phát huy được vai trò của mình, mới thực sự là “tai mắt của trên, là người bạn của dưới” như quan điểm của Hồ Chủ tịch.
Một vấn đề nữa mà hiện nay chúng ta cần nhìn nhận lại để vận dụng đúng tư tưởng của Hồ Chủ tịch về công tác thanh tra, mục đích thanh tra đã được xác định là làm cho “trên thấu dưới, dưới thấu trên”, đối tượng của hoạt động thanh tra là việc thực thi công vụ, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước và công chức nhà nước, điều mà được thể hiện rất rõ trong nội dung của Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Qua quá trình phát triển và cùng với sự thay đổi cơ chế quản lý, chúng ta đã có những hoạt động thanh tra ra bên ngoài xã hội (thường được gọi là thanh tra chuyên ngành) thực chất là hoạt động kiểm tra thường xuyền nhằm phát hiện và xử lý vi phạm của các đối tượng bị quản lý. Tại các Hội thảo khoa học nhiều ý kiến cho rằng hiện nay khái niệm thanh tra đã bị lạm dụng, bị "thanh tra hoá". Từ đó gây nên một quan niệm không hay về hoạt động thanh tra, cho rằng thanh tra hiện nay là tràn lan, chồng chéo, gây khó dễ cho các đối tượng bị thanh tra.
Trong cuộc họp Chính phủ đầu năm 1949, Chính phủ cho rằng: “Phân biệt công tác kiểm tra là công việc thường xuyên của người phụ trách và công việc thanh tra có tính đứng trên mà xem xét công việc của một bộ phận”. Vì vậy trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra cần nghiên cứu để thanh tra trở lại đúng vị trí của nó là “tai mắt của trên”. Tổ chức thanh tra phải gọn nhẹ hơn, tập trung hơn. Hoạt động thanh tra phải có trọng tâm, trọng điểm và coi trọng các cuộc thanh tra diện rộng để đánh giá cơ chế chính sách… Có sự phân biệt giữa thanh tra với các hoạt động kiểm tra thường xuyên của cơ quan quản lý với mục đích bảo đảm trật tự quản lý và xử lý vi phạm hành chính. Vấn đề này đã bước đầu được xử lý khi chúng ta xây dựng Luật Thanh tra và cần phải tiếp tục theo định hướng đó trong quá trình hoàn thiện pháp luật về thanh tra những năm tới.
2. Học tập, vận dụng các quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là hình thức biểu hiện trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân với Nhà nước. Khi người dân có điều gì oan ức mà được các cơ quan nhà nước có trách nhiệm xem xét, giải quyết kịp thời và thỏa đáng thì người dân sẽ cảm thấy mình nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thấy mình được tôn trọng, mình là người chủ thực sự của Nhà nước, họ sẽ thấy gần gũi gắn bó, tin yêu chính quyền.
Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở trách nhiệm của nhà nước trong việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại cho dân. Người đưa yêu cầu rất cao cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân. Không những phải tiếp nhận và giải quyết kịp thời mà các cấp chính quyền, các cán bộ, công chức “phải giải quyết nhanh, tốt” các khiếu nại đó. Theo quan điểm của Hồ Chủ tịch, lợi ích của nước, của dân là trên hết, việc của dân là việc hàng đầu, những khiếu nại cần phải đựoc xem xét, thậm chí người dân không kêu nài cũng phải chủ động kiểm tra để xem ý kiến người dân thế nào, có thiệt thòi, thắc mắc gì không.
Đề cao trách nhiệm của các cơ quan chính quyền trong việc giải quyết nhanh chóng và có hiệu quả các khiếu nại, tố giác của dân là biểu hiện cụ thể của một nhà nước vì dân mà Hồ Chủ tịch luôn nhấn mạnh. Giải quyết tốt, kịp thời thư khiếu tố của nhân dân là biểu hiện tinh thần trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước nhân dân, là thiết thực bảo đảm quyền tự do dân của nhân dân, thoả mãn những yêu cầu thiết thân của nhân dân, nhờ đó mối liên hệ giữa Nhà nước và nhân dân sẽ được tăng cường.
Trong thời gian gần đây có nhiều người lên Trung ương khiếu nại, đặc biệt là có nhiều đoàn đông người đến khiếu nại tại các trụ sở, thậm chí đến nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở Hà Nội. Mặc dù cũng có một số trường hợp người khiếu nại có những đòi hỏi thiếu căn cứ hoặc do bị kích động, lôi kéo nhưng phải thấy rằng đa số trường hợp họ bị thiệt thòi, thậm chí là oan ức.
Trên thực tế họ đã ở bước đường cùng, sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chính quyền địa phương, của các cấp, các ngành là nguyên nhân chủ yếu của tình trạng khiếu nại vượt cấp lên Trung ương. Trong mọi trường phải thấy rằng để xảy ra tình trạng đó trách nhiệm chủ yếu thuộc về cơ quan nhà nước, thuộc về chính quyền cơ sở nơi phát sinh khiếu kiện. Vì các địa phương không giải quyết tốt cho nhân dân nên họ phải đưa đến các cơ quan Trung ương. Đó mới là quan niệm đúng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của một chính quyền vì nhân dân.
Vì vậy chúng ta cần làm tốt hơn nữa công tác này với những định hướng cụ thể sau đây:
- Đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại: Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Thực tiễn cho thấy cùng một hệ thống pháp luật như nhau và với những vấn đề nảy sinh như nhau nhưng ở nơi nào, cấp uỷ đảng và chính quyền quan tâm đề cao trách nhiệm trước dân, lắng nghe và quan tâm đầy đủ đến công tác giải quyết kiếu nại, tố cáo thì ở đó hiệu quả của công tác này sẽ cao, nhân dân tin tưởng và tình hình kinh tế - xã hội ổn định. Ngược lại, những nơi nào cấp uỷ và chính quyền thiếu trách nhiệm thì tình hình khiếu nại, tố cáo sẽ phức tạp, thậm chí xảy ra điểm nóng, gây bất ổn về chính trị, uy tín của chính quyền giảm sút. Vừa qua, Luật Khiếu nại, tố cáo (sửa đổi) đã có quy định xử lý đối với người thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nhằm đề cao trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành trong công tác này.
- Tập trung giải quyết nhanh, tốt khiếu nại ngay từ cơ sở: Đây cũng là một điểm quan trọng trong quan điểm của Hồ Chủ tịch về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thực tiễn tổng kết cho thấy điều đó hoàn toàn đúng đắn. Tuyệt đại đa số các vụ việc khiếu nại, tố cáo đều phát sinh từ cơ sở. Nếu được giải quyết ngay từ đầu thì hiệu quả sẽ rất cao và không phát sinh phức tạp. Chính vì vậy, trong quá trình nghiên cứu nhằm đổi mới phương thức giải quyết khiếu nại, tố cáo thì điều hết sức quan trọng là phải tạo ra nhiều cơ chế để buộc cấp chính quyền cơ sở phải quan tâm giải quyết các khiếu nại, tố cáo từ khi mới phát sinh.
- Coi trọng đối thoại trong quá trình giải quyết khiếu nại để giải thích hướng dẫn cho dân hiểu chính sách pháp luật và chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng thể hiện sự vận dụng quan điểm của Hồ Chủ tịch trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực tế đã chứng minh tác dụng hết sức to lớn của việc đối thoại. Một mặt nó vừa thể hiện tính dân chủ công khai trong công tác này, mặt khác nó cũng tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của người dân để giải quyết việc khiếu nại một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
3. Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chống tham nhũng
Hồ Chủ tịch luôn có thái độ nghiêm khắc đối với các hành vi tiêu cực, lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân. Người luôn nhắc nhở làm cách mạng không phải là “để làm quan phát tài” mà là để “giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Chính vì vậy Người coi tham ô lãng phí quan liêu là kẻ thù của nhân dân, coi tham ô cũng giống như phản quốc. Người từng nói: “Nếu cần có một đảng phái thì sẽ là đảng dân tộc Việt Nam. Đảng sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”. Chính vì vậy Người coi “chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”.
Trong giai đoạn hiện nay, tệ tham nhũng phát triển ngày một tràn lan, đã trở thành một trong bốn nguy cơ đe doạ sự tồn vong của chế độ, việc học tập, vận dụng các quan điểm của Hồ Chí Minh về đấu tranh chống tham nhũng, bệnh quan liêu là hết sức cần thiết,
3.1.Chống tham nhũng phải gắn liền với chống lãng phí và bệnh quan liêu.
Hồ Chủ tịch nói: “Vì đâu mà có lãng phí và tham ô? Vì cán bộ phụ trách lãnh đạo các cấp các ngành quan liêu, không đi sát công việc, cán bộ, quàn chúng nhân dân. Có thể nói bệnh quan liêu là chỗ gieo hạt vun trồng cho tham ô, lãng phí nảy nở được. Vì thế muốn chống tham ô, lãng phí, phải chống bệnh quan liêu” Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 6, tr.435-438.
. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô. Mà có nạn tham ô, lãng phí là vì bệnh quan liêu.
Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quàn chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn.
Vì những cá nhân, những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết qủa là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu” Theo Hồ Chủ tịch thì tham ô lãng phí là do người lãnh đạo thiếu trách nhiệm thiếu kiểm tra, thanh tra, không coi trọng kỷ cương kỷ luật. Có thể thấy rõ để chống quan liêu thì công tác thanh tra, kiểm tra được Hồ Chủ tịch đặc biệt coi trọng vì “thanh tra là tai mắt của trên là người bạn của dưới”.
3.2.Đấu tranh chống tham nhũng phải đề cao biện pháp phòng ngừa.
Người nói “Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là chính, trừng phạt là phụ”. Muốn như vậy “phải luôn kiểm soát cán bộ” bởi vì “giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ”. Người còn nói: khéo kiểm soát bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết vả lại khéo kiểm soát về sau khuyết điểm nhất định sẽ bớt đi. Rõ ràng theo quan điểm của Người thì biện pháp phòng ngừa là quan trọng nhất và trong phòng ngừa thì việc chủ động thanh tra kiểm tra, kiểm soát là biện pháp hàng đầu.
3.3.Phải xử lý nghiêm khắc những kẻ tham nhũng
Thực tiễn đã chứng minh Hồ Chủ tịch với tấm lòng nhân ái cao cả nhưng khi cần vẫn hết sức kiên quyết trừng trị nghiêm khắc những kẻ tham nhũng bởi vì theo Người đó là những kẻ hại nước hại dân, xấu như bọn Việt gian, mật thám, là kẻ thù của nhân dân. Việc xử bắn Trần Dụ Châu, một đại tá quân đội đã từng có công trong kháng chiến là ví dụ điển hình. Người đã trải qua những đêm trắng và cũng thật xót xa khi phải xử bắn người đã từng là đồng chí của mình. Người dẫn lời Lênin khi Toà án nhân dân Mạc Tư Khoa xử nhẹ một vụ án hối lộ, Lê nin không bằng lòng, đã viết: “Không xử bắn lũ ăn của đút, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng nhẹ nhàng như vậy- đó là điều đáng xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng. Cần phải nêu những đồng chí ăn hối lộ ra để dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi đảng”. Rõ ràng với Người tham nhũng là điều đáng lên án nhất và cần phải trừng trị nhiêm khắc vì nó tổn hại đến lợi ích của nhân dân, thanh danh uy tín của Đảng. Trừng trị nghiêm khắc chính là để bảo vệ chế độ, bảo vệ thanh danh của Đảng. Đây chính là điều đáng suy nghĩ khi chúng ta soi xét lại việc xử lý tình trạng tham nhũng hiện nay. Trong một số trường hợp không phải không có lúc, có nơi chúng ta xử lý thiếu kiên quyết, không công khai những người có chức quyền hạn tội tham nhũng vì sợ làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước, sợ bị “địch lợi dụng”. Nhưng điều dó đã phản tác dụng vì nó gây mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
4. Học tập, vận dụng các yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ thanh tra trong giai đoạn hiện nay
Công tác thanh tra là công tác cực kỳ quan trọng nên phải do những người có phẩm chất đạo đức tốt và có uy tín, đặc biệt là những người đứng đầu ngành thanh tra. Khi thành lập Ban Thanh tra đặc biệt trong lời căn dặn ông Cù Huy Cận, Bác đã nói “Bản thân thanh tra không cần nhiều người, lúc này hai người là đủ, một vị cao tuổi và là vị quan có tiếng là liêm khiết của triều đình cũ, là cụ Bùi; một người thanh niên hăng hái, mà trong nước ai cũng biết tiếng là chú”. Tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ ngày 16 tháng 6 năm 1949, một trong những nội dung họp là xem xét quá trình thực hiện công tác thanh tra trong những năm qua, bàn về việc thành lập Ban thanh tra Chính phủ thay thế Ban thanh tra đặc biệt. Hội đồng Chính phủ đề nghị người đứng đầu tổ chức thanh tra, tức Tổng Thanh tra phải là người có tên tuổi, uy tín và danh vọng. Bác Hồ từng nói: “Cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ thì không soi được”. Người đòi hỏi rất cao về đạo đức của người làm công tác thanh tra “Cán bộ thanh tra phải có đạo đức cách mạng, phải hiểu nhân tình thế thái đã đành, những tự mình phải gương mẫu cho người khác”.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) bàn về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (với chiến lược cán bộ đến năm 2020) đã khẳng định rằng: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của đất nước và chế độ; “là cái gốc của mọi công việc”.
Hội nghị lần III, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra những tiêu chuẩn chung cho đội ngũ cán bộ về cả ba mặt: phẩm chất chính trị; đạo đức, lối sống; trình độ, kiến thức, năng lực. Đảng, Nhà nước đã cụ thể hoá, tiếp thu, phát triển đúng đắn quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ. Các tiêu chuẩn chung đó có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đạo đức và năng lực, tức là cả đức và tài, đức là gốc.
Xuất phát từ nhận thức, quan điểm trên đây về tiêu chuẩn chung đối với cán bộ trên cơ sở tiếp thu, thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã quán triệt và xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với người cán bộ thanh tra. Ban Bí thư Trung ương (khoá V) yêu cầu “các cấp uỷ đảng cần lựa chọn những đồng chí có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực, có kinh nghiệm, được cán bộ, đảng viên và quần chúng tín nhiệm để lãnh đạo tổ chức thanh tra”, “có đủ số lượng cán bộ thanh tra có phẩm chất, đạo đức tốt, có kiến thức, kinh nghiệm” Chỉ thị số 38/CT-TW ngày 20/2/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khoá V) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh tra
.
Các văn bản pháp luật về công tác thanh tra cũng đã thể chế hoá những tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ thanh tra. Điều 31, Luật thanh tra quy định về tiêu chuẩn chung của Thanh tra viên quy định:
“ 1. Người được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây:
Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan;
Tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà nước và kiến thức pháp luật; đối với Thanh tra viên thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành còn phải có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành đó;
Có nghiệp vụ thanh tra;
Có ít nhất hai năm làm công tác thanh tra đối với người mới được tuyển dụng vào ngành thanh tra (không kể thời gian tập sự); nếu là cán bộ, công chức công tác ở các cơ quan, tổ chức khác chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước thì phải có ít nhất một năm làm công tác thanh tra…”
Ngày 21/10/1993, Bộ trưởng - Trưởng ban tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã ban hành Quyết định số 818/QĐ/TCCP-VC ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành Thanh tra. Theo đó, mỗi ngạch Thanh tra viên đều có những tiêu chuẩn cụ thể về trình độ hiểu biết và yêu cầu cụ thể về trình độ được đào tạo. Ngoài ra, thời gian tới sẽ có nhiều văn bản được ban hành quy định về chế độ, chỉ tiêu và tiêu chuẩn đối với các ngạch công chức ngành thanh tra nhằm thực hiện cụ thể hơn nữa về yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ thanh tra viên trong giai đoạn hiện nay.
PHẦN BA:
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra gắn với quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Người về xây dựng Đảng Cộng sản và xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn, toàn diện hơn hệ thống quan điểm nhận thức của Người về một trong những lĩnh vực quan trọng của quản lý nhà nước. Ý nghĩa và tầm quan trọng của lĩnh vực công tác này chính là sự bảo đảm cho bộ máy nhà nước vận hành theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ được bản chất của một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Dù đó là công tác thanh tra kiểm tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hay công tác đấu tranh chống tham nhũng, ở đâu chúng ta cũng tìm thấy cái gốc gác, cội nguồn trong hệ thống quan điểm của Người tư tưởng vì dân, “dân vi bản”, thể hiện một sự kết hợp nhuần nhuyễn đến lạ kỳ giữa những giá trị văn hoá của nhân loại, dưới ánh sáng của tư duy biện chứng duy vật Mácxít, phát triển rực rỡ trong tầm cao trí tuệ và nhân cách cao cả của cá nhân con người Hồ Chí Minh. Đi theo con đường cách mạng của người đất nước ta đã làm nên những chiến công hiển hách, “đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ” làm nên Điện biên phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, làm nên trận Điện Biên Phủ trên không đánh gục ý chí của tên sen đầm quốc tế, biểu tượng của chủ nghĩa thực dân mới. Trong hòa bình và dựng xây, giương cao ngọn cờ độc lập, tự chủ với niềm tự hào của dân tộc được soi rọi bằng tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã vượt qua muôn ngàn khó khăn để đưa đất nước vào kỷ nguyên ấm no hạnh phúc, chủ động trong tiến trình hội nhập, “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Quán triệt tinh thần và quan điểm của người về công tác thanh tra, hơn nửa thế kỷ qua, các thế hệ cán bộ thanh tra viên đã luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Tuy nhiên, cũng trong quá trình phát triển, không phải không có lúc chúng ta đã phạm những sai lầm khuyết điểm, công tác thanh tra có nơi, có lúc không được coi trọng đúng mức, với những thăng trầm, thậm chí là những “nét đứt gẫy”, những bước thụt lùi trong quá trình phát triển. Điều đó do cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do đó, chúng ta càng thấy cần phải có một nhận thức đầy đủ hơn, nhất quán hơn về công tác thanh tra, thông qua việc nghiên cứu và quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh để vận dụng kịp thời, sáng tạo trong giai đoạn mới với những yêu cầu mới. Những quan điểm tư tưởng của Người về từng lĩnh vực trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng vừa mang những giá trị sâu sắc, toàn diện của lịch sử, vừa luôn giữ được tính thời sự nóng hổi; vừa là những định hướng khái quát chung, lại vừa cụ thể soi rọi vào từng công việc thường nhật của người làm công tác thanh tra. Chính từ ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở kết quả nghiên cứu của Đề tài, chúng tôi đề nghị:
Một là: Tổ chức học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra cho các cán bộ làm công tác thanh tra, trước hết là trong hệ thống các tổ chức thanh tra nhà nước các cấp các ngành, làm cho các cán bộ thanh tra viên nhận thức nguồn gốc, nội dung, giá trị , vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra; tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, tự giác của mỗi cán bộ thanh tra viên, của các cấp các ngành, các địa phương trong việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy sinh trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng.
Hai là: Nghiên cứu toàn diện và có hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác thanh tra để xác định lại vị trí, vai trò và mục tiêu của công tác thanh tra, cũng như tổng kết thực tiễn công tác thanh tra qua hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển để rút ra những bài học kinh nghiệm đồng thời nghiên cứu những định hướng lớn cho sự phát triển của ngành thanh tra trong công cuộc cải cách bộ máy nhà nước phù hợp với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân. Hệ thống các quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là bất biến, nhưng sự vận dụng, phát triển những quan điểm, tư tưởng của Người trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể hiện nay là rất cần thiết và đòi hỏi phải có sự tìm tòi sáng tạo, thích ứng với hoàn cảnh mới của cách mạng Việt Nam.
Cũng như vậy, công tác thanh tra, kiểm tra nói chung và tổ chức, hoạt động của ngành thanh tra Việt Nam cần được nhìn nhận và đánh giá một cách toàn diện để tìm ra định hướng phát triển cho ngành thanh tra trong thời kỳ hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước và trong xu thế hội nhập hiện nay.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra phải luôn giữ vững những định hướng có tính chất cơ bản, những vấn đề có tính nguyên tắc của Người, đồng thời có sự sáng tạo và phát triển linh hoạt, không rập khuôn, cừng nhắc.
Ba là: Phát động một phong trào rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng theo gương Bác Hồ vĩ đại, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức lối sống trong đội ngũ cán bộ thanh tra viên, xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra viên xứng đáng với lời răn dạy của Người “cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt”, ngành thanh tra xứng đáng là “tai mắt của trên, là người bạn của dưới”. Đây thực sự là công việc cần quan tâm thường xuyên và đây cũng là vấn đề mà bấy lâu nay chưa được chúng ta coi trọng.
Trong những năm qua, các đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng nói chung và của ngành thanh tra nói riêng còn mang nặng tính hình thức, ít hiệu quả. Chính vì vậy những biểu hiện lệch lạc trong đạo đức lối sống, trong công tác và sinh hoạt của một số cán bộ thanh tra viên đã có cơ hội phát triển, nhất là từ khi chúng ta chủ trương thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Đó là hệ quả của việc thiếu tu dưỡng rèn luyện của bản thân từng cán bộ thanh tra viên nhưng đồng thời cũng là trách nhiệm của chúng ta chưa làm tốt công tác chính trị tư tưởng, theo dõi giúp đỡ cán bộ thanh tra rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống của mình. Một số vụ việc về vi phạm pháp luật trong ngành thanh tra thời gian gần đây để lại cho chúng ta những bài học đau xót về công tác quản lý cán bộ cũng như trách nhiệm giáo dục đội ngũ cán bộ đảng viên làm công tác thanh tra vốn là một lĩnh vực công tác đầy khó khăn và nhiều cạm bẫy.
Hồ Chủ tịch từng nói: giao công cho cán bộ mà không kiểm tra đến khi thất bại mới chú ý đến thế là không biết yêu dấu cán bộ. Cán bộ thanh tra là vốn quý của ngành, nhất là những cán bộ có nhiều năm lăn lộn cống hiến, nếu chúng ta không có các biện pháp giáo dục, không có cơ chế kiểm tra, giám sát để xảy ra những điều đáng tiếc thì chúng ta không những mất cán bộ mà thanh danh của ngành thanh tra với biết bao thành tích đạt được hơn mấy chục năm qua cũng bị ảnh hưởng.
Trong thời gian tới điều này nhất định phải được khắc phục. Những lời dạy của Hồ Chủ tịch đối với cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ thanh tra nói riêng phải trở thành kim chỉ nam cho việc rèn luyện đạo đức tác phong của người cán bộ thanh tra và của cả ngành thanh tra. Đó là đạo đức cách mạng không thể thiếu của người cán bộ thanh tra, đồng thời cũng rèn luyện cả tác phong công tác mà Người đã từng răn dạy cán bộ thanh tra: phải đến tận nơi, xem tận chỗ; phải khách quan, tỉ mỉ cẩn thận; phải dân chủ và phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân, phát huy vũ khí phê bình và tự phê bình…
Làm được điều đó, đòi hỏi nỗ lực của bản thân mỗi cán bộ thanh tra, đồng thời phải trở thành một nội dung trong hoạt động của ngành thanh tra và được thực hiện lâu dài, thường xuyên liên tục; bảo đảm tính khoa học, toàn diện có hệ thống và bảo đảm hiệu quả thiết thực, tránh hình thức.
*****
Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác thanh tra là việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện thể chế thanh tra để thanh tra thực sự là “tai mắt của trên, là người bạn của dưới” và xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra trong sạch vững mạnh, “như cái gương cho người ta soi mặt”, cụ thể:
1 - Sửa đổi Luật Thanh tra theo hướng nhấn mạnh hoạt động thanh tra hành chính, tăng cường kiểm soát bộ máy và hoạt động của các cán bộ, công chức nhà nước
2 - Xây dựng Luật Tố cáo và giải quyết tố cáo trong đó các cơ quan thanh tra trở thành một trong những đầu mối quan trọng trong việc tiếp nhận và xử lý các tố cáo về tham nhũng tiêu cực trong bộ máy nhà nước.
3 - Xây dựng Luật Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong đó đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của dân. Đề cao tính dân chủ trong quá trình giải quyết khiếu nại thông qua việc đối thoại với dân, thực sự quán triệt lời dạy của Bác: “đồng bào có oan ức hoặc vì chưa hiểu chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt…”. Đặc biệt coi trọng việc giải quyết khiếu nại ngay từ địa phương, cơ sở từ khi mới phát sinh.
4 - Nghiên cứu ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ thanh tra, đề cao đạo đức và tác phong làm việc của các cán bộ thanh tra đặc biệt là khi đi tiến hành thanh tra tại địa phương cơ sở và khi tiếp xúc trực tiếp với công dân. Làm sao để cán bộ thanh tra thực sự là người bạn của cơ sở, là nơi người dân có thể gửi gắm, trông cậy mỗi khi có oan ức. Nghiên cứu ban hành và thực hiện cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động của các đoàn thanh tra thực hiện tốt chức trách công vụ và hoàn thành các nội dung thanh tra, phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực trong quá trình tiến hành thanh tra, đồng thời xây dựng cơ chế thẩm định các báo cáo kết quả thanh tra trước khi người ra quyết định thanh tra ký kết luận thanh tra.
5 - Xây dựng đơn vị chuyên trách chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ và trong các tổ chức thanh tra khác, từng bước đưa công tác đấu tranh chống tham nhũng trở thành một trọng tâm trong công tác thanh tra. Đơn vị này phải gồm những cán bộ thanh tra giỏi nghiệp vụ, có tinh thần đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực và cũng phải có những quyền hạn đặc biệt khi thực hiện trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, nhất là quyền hạn trong việc xử lý và kiến nghị xử lý những cán bộ công chức có hành vi tham nhũng./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_ho_chi_minh_2502.doc