MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là một tài sản quý giá trong di sản cách mạng của Người. Nó chứa đựng những giá trị to lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam nói chung, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng.
Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã lĩnh hội những nội dung cốt lõi trong học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó, có vấn đề nhà nước và quyền lực nhà nước; mặt khác, là người am hiểu sâu sắc văn hóa chính trị phương Đông và Việt Nam, với một trí tuệ phi thường, Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo những tinh hoa tư tưởng của nhân loại trên cơ sở những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam và từ đó xây dựng nên những tư tưởng của riêng mình với những nét độc đáo hiếm thấy.
Tìm hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước cần xuất phát từ hạt nhân tư tưởng về quyền lực và chủ thể quyền lực nhà nước, từ đó triển khai thành các tư tưởng về cơ chế tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước.
Ngay từ những năm 20 (thế kỷ XX), Hồ Chí Minh đã phê phán một cách quyết liệt bản chất của bộ máy nhà nước thực dân. Người vạch trần bản chất xấu xa của chế độ thực dân đế quốc bên trong cái vỏ hào nhoáng khai hóa văn minh trước công luận; và qua đó, Người chuẩn bị cho mình những cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành nên tư tưởng về một nhà nước kiểu mới, thật sự dân chủ. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Đường Kách mệnh - giáo khoa thư chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Người viết: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc"(1). Quan điểm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và phục vụ cho lợi ích của nhân dân là cốt lõi và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Tất cả những nhận thức đó tiếp tục được phát triển không ngừng trong tư tưởng của Người gắn liền với những chặng đường tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
Người thường dùng khái niệm "ủy thác" để nói đến việc nhân dân trao một phần quyền lực của mình cho nhà nước. Quyền lực của nhà nước từ Trung ương đến địa phương, từ Chủ tịch nước đến cán bộ xã đều do nhân dân "ủy thác" cho. Khi hết một nhiệm kỳ, Chính phủ sẽ phải trao lại quyền cho nhân dân và nhân dân sẽ trao quyền ấy cho một Chính phủ ở nhiệm kỳ mới do dân "tuyển cử". Các khái niệm "ủy thác", "giao quyền" là những khái niệm chính trị học và ở Hồ Chí Minh, các khái niệm ấy gắn chặt với nhân dân, là sự khẳng định quyền lực thuộc về nhân dân
13 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2247 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh
Trần Ngọc Liêu
(Cập nhật: 18/1/2007)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là một tài sản quý giá trong di sản cách mạng của Người. Nó chứa đựng những giá trị to lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam nói chung, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng.
Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã lĩnh hội những nội dung cốt lõi trong học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó, có vấn đề nhà nước và quyền lực nhà nước; mặt khác, là người am hiểu sâu sắc văn hóa chính trị phương Đông và Việt Nam, với một trí tuệ phi thường, Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo những tinh hoa tư tưởng của nhân loại trên cơ sở những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam và từ đó xây dựng nên những tư tưởng của riêng mình với những nét độc đáo hiếm thấy.
Tìm hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước cần xuất phát từ hạt nhân tư tưởng về quyền lực và chủ thể quyền lực nhà nước, từ đó triển khai thành các tư tưởng về cơ chế tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước.
Ngay từ những năm 20 (thế kỷ XX), Hồ Chí Minh đã phê phán một cách quyết liệt bản chất của bộ máy nhà nước thực dân. Người vạch trần bản chất xấu xa của chế độ thực dân đế quốc bên trong cái vỏ hào nhoáng khai hóa văn minh trước công luận; và qua đó, Người chuẩn bị cho mình những cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành nên tư tưởng về một nhà nước kiểu mới, thật sự dân chủ. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Đường Kách mệnh - giáo khoa thư chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Người viết: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc"(1). Quan điểm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và phục vụ cho lợi ích của nhân dân là cốt lõi và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Tất cả những nhận thức đó tiếp tục được phát triển không ngừng trong tư tưởng của Người gắn liền với những chặng đường tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
Người thường dùng khái niệm "ủy thác" để nói đến việc nhân dân trao một phần quyền lực của mình cho nhà nước. Quyền lực của nhà nước từ Trung ương đến địa phương, từ Chủ tịch nước đến cán bộ xã đều do nhân dân "ủy thác" cho. Khi hết một nhiệm kỳ, Chính phủ sẽ phải trao lại quyền cho nhân dân và nhân dân sẽ trao quyền ấy cho một Chính phủ ở nhiệm kỳ mới do dân "tuyển cử". Các khái niệm "ủy thác", "giao quyền" là những khái niệm chính trị học và ở Hồ Chí Minh, các khái niệm ấy gắn chặt với nhân dân, là sự khẳng định quyền lực thuộc về nhân dân.
Người còn thường xuyên gắn cụm từ nhân dân với các khái niệm Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, v.v.. Ví dụ, trong giai đoạn 1945 - 1946, các cụm từ "Nhà nước nhân dân", "Chính phủ nhân dân" có tần số xuất hiện rất cao trong các bài viết, bài nói của Người. Những cụm từ này được Người sử dụng với đối tượng là các cán bộ nhà nước các cấp và đặc biệt là với nhân dân. Sự khẳng định đó nhắc nhở các cán bộ nhà nước phải luôn ghi nhớ quyền hạn và trách nhiệm của mình cũng như giáo dục cho nhân dân về một địa vị hoàn toàn mới của họ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, tư tưởng về dân chủ - với ý nghĩa là bản chất của quyền lực nhà nước và phương thức tổ chức, triển khai quyền lực nhà nước là một nét đặc sắc. Theo Người, dân chủ hiểu một cách chung nhất là quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Ở nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ; và, "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ"(2).
Địa vị làm chủ của người dân, tức là quan hệ của người dân với quyền lực nhà nước, được Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ với đội ngũ cán bộ nhà nước - những người trực tiếp thi hành quyền lực nhà nước. Người viết: Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là phân công làm đày tớ cho dân. Người căn dặn cán bộ nhà nước: Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Khi nói tới tư cách công bộc của cán bộ nhà nước đối với nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định, mục đích hoạt động của họ là vì lợi ích chung. Người nói: Những người trúng cử (vào bộ máy nhà nước), sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành câu: Vì lợi nước, quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng. Người khẳng định: Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu. Nếu dân là chủ thì nhà nước, cán bộ nhà nước là công bộc của dân. Đây là một sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh. Chính tư tưởng này đã chỉ rõ sự đối lập về chất của Nhà nước nhân dân với nhà nước phong kiến, nhà nước thực dân. Người căn dặn các cán bộ nhà nước phải luôn ghi nhớ rằng các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Ở đây, ta thấy Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội hàm của khái niệm "công bộc của dân", và có thể hiểu đây là một định nghĩa của Hồ Chí Minh về chức năng của Nhà nước mà ý nghĩa sâu sắc của nó vẫn còn giữ nguyên tính thời sự và cần được quán triệt trong công cuộc xây dựng Nhà nước ta hiện nay.
Hồ Chí Minh đòi hỏi rất cao đối với cán bộ nhà nước. Họ cần phải có rất nhiều phẩm chất, song tựu trung họ phải thực sự vì dân mà làm việc. Người nêu rõ bốn đức tính là: cần, kiệm, liêm, chính; phải ghi sâu những chữ công bình chính trực vào lòng; phải có một tinh thần chí công vô tư; nếu muốn danh, lợi thì danh làm sao cho dân tộc mình có danh với thế giới, và lợi làm thế nào cho tranh được lợi với thế giới - đó là danh chính và lợi chính...
Cán bộ nhà nước phải làm sao để nhân dân yêu quý, khi sắp tới dân mong, khi đi dân nhớ. Muốn thế trước hết cán bộ phải yêu quý nhân dân, phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải kính trọng nhân dân, tôn trọng nhân cách của họ. Người chỉ rõ: Muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết các vấn đề, đặc biệt là những vấn đề quan hệ đến đời sống nhân dân, dầu khó khăn đến đâu cũng mặc lòng. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được đặc biệt chú ý.
Khái niệm dân chủ còn được Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ của nó với khái niệm chuyên chính. Người viết: "Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khóa, có nhà phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ"(3); và, "Nhà nước ta cũng là nhà nước của đại đa số nhân dân, để thống trị thiểu số phản động, để giữ gìn lợi ích của nhân dân, bằng cách dân chủ chuyên chính của nhân dân"(4).
Tư tưởng về dân chủ của Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở nhận thức về sức mạnh vô địch của nhân dân. Người viết: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Và, Người đã đưa ra một quan điểm toàn diện về dân chủ: NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước được hiểu là toàn thể nhân dân chỉ trừ bọn phản quốc hại dân. Người viết: Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia. Xuất phát từ yêu thương quý trọng nhân dân, Người thấy rõ nguồn sức mạnh vô tận của khối đại đoàn kết dân tộc, mọi mưu đồ đề cao lợi ích vị kỷ của một bộ phận người đi ra ngoài con đường của cả dân tộc hoặc sẽ bị đào thải, hoặc sẽ làm tổn hại đến khối đại đoàn kết mà kết quả đều làm cho đất nước lâm nguy. Người chỉ rõ, phải thực hiện cho được khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ có thế, nhân dân mới có đủ sức mạnh để giành, giữ và thực thi quyền lực của mình, trong đó có quyền lực nhà nước.
Hồ Chí Minh cho rằng, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân gắn liền với việc nhà nước phải làm tất cả để đem lại một cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân.
Xuất phát từ tư tưởng nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh được phát triển thành nhân dân là chủ thể của nhà nước. Vì thế, việc nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước phải được đặt trên cơ sở coi vấn đề nhà nước là một khía cạnh trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Nhà nước, theo Người, là của nhân dân "Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội"(5). Nhân dân sử dụng Nhà nước như một công cụ để thực hiện lợi ích của mình: đối với nhân dân, thì công cụ của nhà nước dân chủ mới (Chính phủ, pháp luật, công an, quân đội, v.v..) là để giữ gìn quyền lợi của nhân dân.
Khi bàn về vai trò của Nhà nước, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về nhân dân quản lý nhà nước. Điều đáng lưu ý là, việc nhà nước tiến hành các hoạt động nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, thì đồng thời, đó cũng chính là nhằm tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia quản lý nhà nước. Người viết: "... chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta đưa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta giàu"(6).
Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh còn thể hiện trên mấy phương diện sau:
Thứ nhất, về pháp luật, Người viết: Pháp luật của chúng ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động. Pháp luật của ta lúc này, chưa tước bỏ quyền tư hữu, nhưng không ai được lợi dụng quyền tư hữu để bóc lột thậm tệ nhân dân lao động. Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Người khẳng định, "Phép luật là phép luật của nhân dân, dùng để ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân"(7). Vì vậy, để có một "chính quyền trong sạch", phải kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng việc được nhân dân giao quyền, rồi cậy quyền cậy thế đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cương quyết xử lý một số cán bộ cao cấp của Nhà nước vi phạm pháp luật và Người luôn nhắc nhở: Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung.
Thứ hai, về tổ chức bộ máy nhà nước, Hồ Chí Minh nhiều lần nêu ra quan điểm về ba bộ phận cấu thành quan trọng của Nhà nước, đó là cơ quan lập pháp - Quốc hội; cơ quan hành pháp - Chính phủ và cơ quan tư pháp - Tòa án. Trong đó, Người nói đến Chính phủ nhiều nhất và cũng chính ở đây chứa đựng nhiều quan điểm có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Người viết: "Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân"(8). Người khẳng định: "Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho"(9).
Kế thừa những giá trị trong tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc, lại được soi sáng bởi quan điểm duy của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh thấy ở nhân dân một lực lượng vô tận. Trong tư tưởng về nhà nước, nhân dân chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng. Hồ Chí Minh tin tưởng vào sức mạnh to lớn của nhân dân, sức mạnh ấy một khi được tập hợp, tổ chức, định hướng sẽ tạo nên những kỳ tích to lớn, có thể làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt lịch sử. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh niềm tin ấy của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.
Cái quan trọng nhất trong chính trị là vấn đề thiết chế chính quyền nhà nước. Quyền lực chính trị là vấn đề trung tâm của mọi cuộc cách mạng xã hội. Ở Hồ Chí Minh, nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như thế, với Hồ Chí Minh, Nhà nước không bao giờ đứng ngoài và đứng trên nhân dân.
Gắn chính trị với lòng dân cũng có nghĩa là Hồ Chí Minh đã gắn chính trị với cơ sở xã hội sâu xa và bền vững của nó. Một quan niệm "đem chính trị vào giữa dân gian" như tư tưởng của Người là một quan niệm chính trị dân chủ về bản chất. Đã quan niệm chính trị như thế thì nhà chính trị nói riêng, nhà nước nói chung trở nên đầy sức mạnh bởi họ đang suy nghĩ bằng suy nghĩ của nhân dân, làm bằng phương thức nhân dân và nói tiếng nói của nhân dân. Họ sẽ có đủ bản lĩnh đương đầu với mọi khó khăn mà luôn chắc chắn một niềm tin vào chiến thắng.
Quan điểm chính trị nhân dân ở Hồ Chí Minh gắn liền với việc làm cho người dân có đủ khả năng đảm nhận vai trò làm chủ của mình. Người đặc biệt coi trọng việc giáo dục nhân dân. Ngay khi Nhà nước ta mới ra đời, Người khẳng định: Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Người đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người cũng yêu cầu nhân dân: Mọi người Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà. Hồ Chí Minh yêu cầu người dân trước hết phải biết đọc, biết viết để có thể tham gia vào công việc nhà nước. Điều này có nghĩa là, người dân muốn thực hiện vai trò làm chủ của mình, muốn thực hiện quyền lực cao quý của mình cần phải có những năng lực nhất định và Nhà nước phải làm sao để nhân dân có được những năng lực ấy.
Như vậy, trên cơ sở vận dụng học thuyết Mác - Lê-nin về nhà nước vào điều kiện cụ thể của cách mạng và xã hội Việt Nam, đặc biệt là, trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn xây dựng chính quyền nhân dân, xây dựng chế độ xã hội mới, Hồ Chí Minh đã nêu ra một hệ thống các quan điểm về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đây thực sự là những chỉ dẫn quý báu cả về lý luận và thực tiễn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
* Phó Chủ nhiệm Bộ môn Khoa học quản lý, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t 2, tr 270
(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 218 - 219
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t 8, tr 279 - 280
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 216 - 217
(5), (6) Hồ Chí Minh: Sđd, t 9, tr 592, tr 593
(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 453
(8) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 361 - 362
(9) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 368
Vai trò các Đảng chính trị nói chung, Đảng cầm quyền nói riêng đối với nhà nước trong Chủ nghĩa tư bản hiện đại (Qua khảo sát một số mô hình tiêu biểu) (NGUYỄN XUÂN TẾ – ĐẶNG ĐÌNH THÀNH).
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 1/2003
VAI TRÒ CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ NÓI CHUNG, ĐẢNG CẦM QUYỀN NÓI RIÊNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚCTRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI (QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ MÔ HÌNH TIÊU BIỂU)
NGUYỄN XUÂN TẾĐẶNG ĐÌNH THÀNHPhó giáo sư - Tiến sĩ, trường ĐH Luật TP. HCMThạc sĩ, trường ĐH Luật TP. HCM
I. VỊ TRÍ CỦA CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ NÓI CHUNG, ĐẢNG CẦM QUYỀN NÓI RIÊNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI.
Đảng chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị của các nước tư bản. Nó có vai trò là một trong những thành phần cơ bản của chế độ chính trị, của xã hội công dân hiện đại, có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, từ cơ cấu tổ chức đến sự vận hành của hệ thống chính trị. Đây là một tổ chức chính trị phản ánh lợi ích của giai cấp, của tầng lớp xã hội, nó liên kết, lãnh đạo những người đại diện tích cực nhất của tầng lớp hay xã hội đó để cùng thực hiện đạt những mục tiêu và lý tưởng nhất định.
Ngày nay, trên thế giới không có quốc gia nào lại không có Đảng chính trị. Hình thức tiền thân của Đảng chính trị là các nhóm chính trị, các câu lạc bộ chính trị… Sự ra đời và phát triển của các Đảng chính trị có liên quan chặt chẽ với quyền tồn tại của các nhóm khác nhau trong xã hội, quyền các nhóm được kiểm soát, chi phối lãnh đạo và hạn chế quyền của Đảng cầm quyền. Chúng phải có tổ chức, phải luôn tìm kiếm sự ủng hộ từ dân chúng và phải khác biệt với các nhóm khác.
Ở Pháp, Đảng chính trị với đúng ý nghĩa của nó xuất hiện từ đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên hoạt động chính trị, ảnh hưởng của chúng trên các hệ thống thông tin đại chúng cũng như khả năng huy động lực lượng Đảng viên là tương đối yếu. Người Pháp không thích Đảng lắm, theo một điều tra của SOFRES vào 9/1983, 13% người được phỏng vấn hy vọng rằng “trong tương lai, các Đảng sẽ có vị trí quan trọng hơn”, 39% cho rằng “chúng nên giữ vai trò giống như hiện tại” và 31% cho rằng “chúng nên có vai trò khiêm tốn hơn”. Hiến pháp thể hiện vai trò của Đảng cũng chỉ được quy định tương đối hạn chế, chỉ là “góp sức vào việc thể hiện ý chí của số đông dân chúng”. Dù theo luật ngày 01/7/1901, các Đảng chính trị được hưởng cùng quy chế với các Hiệp hội, và để hoạt động nó chỉ cần đăng ký tên và điều lệ, nhưng phải đến thời đệ ngũ Cộng hòa, các Đảng mới được hưởng một quy chế xứng đáng.
Việc người dân lựa chọn bầu Tổng thống (như ở Mỹ) hay người dân bầu hạ nghị sĩ vào Hạ nghị viện (như ở Anh), chính là việc nhân dân lựa chọn một Đảng chính trị làm đại diện cho họ. Đảng chính trị trong Nhà nước Tư bản phải:
- Lãnh đạo, điều hành chính quyền Nhà nước, tổ chức giai cấp và các lực lượng chính trị để đấu tranh chính trị.
- Bảo vệ lợi ích của đất nước, đảm bảo quyền của công dân và giáo dục công dân.
- Tiến hành bầu cử và bảo đảm việc thay đổi chính quyền một cách hoà bình.
Chính vì vậy, sự tồn tại của một Đảng chính trị gắn với cuộc đấu tranh giành chính quyền, thỏa mãn những lợi ích của giai cấp, đạt được mục tiêu cuối cùng là trở thành Đảng cầm quyền, và đương nhiên, thành lập Chính phủ để thể hiện ý chí thống trị xã hội của giai cấp mình. Nhiệm vụ chủ yếu của các Đảng chính trị là trở thành Đảng cầm quyền. Muốn như thế thì trước hết Đảng chính trị phải có vai trò tổ chức để vạch ra “ý chí chung”, trong đó hệ thống hóa những khuynh hướng, lập trường chính trị khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau thành một chương trình hành động cụ thể, một chính sách nhất định, và tiến hành giành chính quyền bằng nhiều biện pháp. Bên cạnh đó, Đảng phải tổ chức giáo dục tư tưởng, tuyên truyền phổ biến tư tưởng của Đảng mình cho quần chúng.
Người ta gọi chính trị, đảng phái có nghĩa là cơ cấu chính trị trong đó nhiều đảng tranh gianh quyền lãnh đạo chính quyền một cách hòa bình với nhau thông qua bầu cử. Trong các nước tư sản, hình thái chủ yếu của chính trị đảng phái là có chế độ Nội các Nghị viện và chế độ Tổng thống. Tùy theo số lượng Đảng chính trị lớn ở trong một nước, người ta chia thành các loại lưỡng đảng, đa đảng… Để bảo đảm cho Quốc hội và các Đảng được điều hành ổn định, điều quan trọng là sự bảo đảm tự do về chính trị, ngôn ngữ, lập hội và bầu cử công bằng và giảm bớt những căng thẳng trong nội bộ xã hội.
Trong nền Cộng hòa thứ năm của Pháp, các đảng chính trị tập hợp thành 2 cực phân biệt rõ rệt là phe tả và phe hữu, dù nội bộ từng phe đều có những bất đồng. Lực lượng cánh tả gồm các đảng như: đảng Xã hội (PS), đảng Cộng sản Pháp (PCF), phong trào cấp tiến cánh tả (MRG). Cánh hữu và phe giữa gồm: đảng Tập hợp vì nền cộng hòa (RPR), đảng Liên minh vì nền dân chủ Pháp (UDF). Ngoài ra còn có một số đảng phái khác thuộc các đảng cực hữu (như đảng Mặt trận dân tộc-FN, một số phong trào và nhóm nhỏ tự tuyên bố theo tinh thần dân tộc) và cực tả (Liên đoàn cộng sản cách mạng, Phong trào đấu tranh công nhân, đảng Xanh...).
Có nhiều lý do khiến các đảng phải liên kết lại trong hoạt động chính trị và nắm chính quyền. Trước hết, do chế độ bầu cử Tổng thống và các cuộc bầu cử quan trọng khác (như bầu cử Quốc hội, Hội đồng) theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu với đa số phiếu qua hai vòng bầu cử đã buộc các đảng ít có hy vọng thắng cử phải liên kết với các đảng lớn để có cơ hội giành thắng lợi cho ứng cử viên chung của họ, và tránh bị gạt ra khỏi trường chính trị sau này vì tỷ lệ phiếu bầu thu được quá ít. Một lý do nữa là, các nguyên tắc hoạt động của các thể chế Nhà nước buộc các đảng phái phải tập hợp lại với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình (đối với phe đa số nắm quyền) hoặc để chống đối, gây cản trở cho chính quyền hoạt động (đối với phe đối lập). Nhũng buổi thảo luận tại Quốc hội, thượng nghị viện, thông qua các đạo luật, bỏ phiếu tín nhiệm hay không tín nhiệm Chính phủ... đều cho thấy rõ quan điểm đối lập giữa 2 phe và sự tập hợp lực lượng của mỗi phe thể hiện qua tiếng nói chung của nhóm nghị sĩ đại diện.
So với các nước Âu, Mỹ, Đảng chính trị ở Nhật Bản mang những đặc điểm tương đối khác do tác động của truyền thống lịch sử, văn hóa và chính trị. Chúng có tổ chức quần chúng yếu, hoạt động thất thường trong khu vực bầu cử. Các Đảng chính trị Nhật Bản thường liên kết và thông qua các tổ chức ngoài Đảng kinh tế, công đoàn hoặc các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội để tập hợp phiếu nhân sự cũng như giúp đỡ về tài chính để hoạt động chính trị. Vì thế, các Đảng dễ bị các tổ chức ngoài Đảng chi phối trong việc quyết định chính sách và hoạt động lập pháp.
Một trong những vai trò rất quan trọng của các Đảng chính trị là vai trò đối lập của đảng không cầm quyền. Sự đối lập này thể hiện rất rõ trong hoạt động các Đảng Chính trị của nhà nước tư sản Anh, Mỹ – nơi điển hình của hệ thống lưỡng đảng. Ngoài Chính phủ đang cầm quyền, pháp luật Anh còn cho phép thành lập “Nội các trong bóng tối” của các Đảng đối lập, có nhiệm vụ tìm ra những khiếm khuyết trong chính sách của Đảng cầm quyền, giám sát những người đang làm nhiệm vụ cai trị đất nước dưới sự hướng dẫn của Đảng cầm quyền. Đây được gọi là sự đối lập có trách nhiệm, chúng có tác dụng nhất định giúp nhà nước tư sản thận trọng hơn khi đưa ra các quyết định của mình.
Các Đảng chính trị thường tìm cách để tạo cho quần chúng ấn tượng về mình là tổ chức thể hiện nhu cầu, khát vọng chung của cộng đồng xã hội. Hiện nay ở các nước tư sản tồn tại một số Đảng tiêu biểu như: Đảng Tự do, Đảng Bảo thủ, Đảng Dân chủ – Thiên chúa giáo, Đảng Xã hội, Đảng Cộng hòa, Đảng theo lãnh thổ, sinh thái học…
II. ĐẢNG CẦM QUYỀN ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
1. Con đường cơ bản để đưa Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền. Những điều kiện để Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền:
Việc xuất hiện và phát triển của các Đảng chính trị ở các nước tư sản thường gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của Quốc hội và các hoạt động bầu cử. Thông qua các Nghị sĩ là thành viên của mình mà Đảng gây ảnh hưởng đối với các quyết định của Nhà nước, của Chính phủ nhằm mang lại lợi ích cho nhóm, giai cấp mà nó đại diện. Biểu hiện cụ thể là, các Đảng chính trị tranh giành quyền lực và trở thành Đảng cầm quyền thông qua con đường tuyển cử và đấu tranh ở Quốc hội. Đây là con đường cơ bản để đưa một Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền.
Để các Đảng chính trị thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và được điều hành ổn định, cần phải xây dựng một chế độ bầu cử công bằng, thực hiện trên nguyên tắc dân chủ, tự do, công bằng. Đồng thời, phương pháp chọn đại biểu và quy chế về khu vực bầu cử cũng cần được quan tâm, tính toán sao cho phù hợp với cơ cấu chính trị và truyền thống của quốc gia.
Chế độ bầu cử đại biểu theo tỷ lệ phiếu (số phiếu trong Quốc hội được phân bổ cho các chính Đảng theo tỷ lệ phiếu mà Đảng đó giành được) là chế độ bầu cử công bằng nhất. Tuy nhiên, ngoài mục đích phản ảnh ý chí của nhân dân trong việc lựa chọn đại biểu, còn một mục đích nữa là thông qua bầu cử, nhân dân sẽ nâng cao ý thức chính trị, cảm thấy gần gũi với chính trị và dễ dàng chấp nhận hơn khi có sự thay đổi chính quyền.
Cuộc bầu cử đầu tiên ở Nhật Bản được tiến hành vào năm 1890, sau khi nghị viện Hoàng gia ra đời. Nhưng mãi đến sau chiến tranh, Nhật Bản mới thực hiện chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu và mọi ngườii dân đến tuổi trưởng thành đều có quyền bầu cử. Tuy nhiên, đặc điểm chế độ bầu cử Nhật Bản còn nhiều hạn chế, như: người dân chưa xem bầu cử là cơ hội lựa chọn chính khách quan trọng đối với chính trị đất nước để có sự cân nhắc kỹ khi bỏ phiếu cho ai, do đó vẫn tồn tại tình trạng ứng cử viên thu hút lá phiếu với cách mua chuộc bằng tiền bạc, hàng hóa… và thu được lợi qua các quỹ hỗ trợ của các tổ chức; quy định thời gian vận động tranh cử ngắn hơn so với các nước Âu Mỹ, cấm ứng cử viên đến từng gia đình vận động tranh cử, tuy có cho phép vận động trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng theo mức độ đã được quy định và hạn chế tuyên truyền trên sách báo, ngôn luận, do đó hoạt động chính trị của các Đảng không đi vào quần chúng, cản trở sự tích cực của nhân dân trong việc tham gia vào hoạt động chính trị thông qua hoạt động bầu cử…
Ở các nước có từ hai Đảng trở lên, bầu cử là cuộc đấu tranh giành giật quyền lực rất gay gắt giữa các Đảng chính trị. Sau cuộc tổng tuyển cử, Đảng cầm quyền – là Đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện và ứng cử viên của mình thắng cử trong cuộc bầu cử – có quyền đứng ra thành lập Chính phủ và các thành viên hoạt động tích cực trong chiến dịch vận động bầu cử của Đảng sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ trong chính quyền. Mọi hoạt động của Chính phủ phải thể hiện ý chí của Đảng cầm quyền thông qua ý chí của người lãnh đạo.
Để trở thành Đảng cầm quyền, Đảng chính trị cần phải:
- Có tổ chức, hệ tư tưởng đủ mạnh và tuyên truyền, giáo dục hệ tư tưởng, đường lối của Đảng mình cho thành viên và công chúng để có khả năng thu hút lực lượng về mình và nhận được sự ủng hộ cũng như bảo vệ của các lực lượng xã hội.
- Bảo đảm số ứng cử viên là thành viên của Đảng thắng cử tham gia vào cơ quan nhà nước và có khả năng thực hiện lợi ích của Đảng.
- Tuyển chọn và bố trí nhân sự vào bộ máy cơ quan quyền lực nhà nước. Đảng nắm chính quyền thông qua đội ngũ Đảng viên là công chức trong các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Xây dựng chủ trương, cương lĩnh, chính sách của Đảng đúng đắn, phù hợp, phản ảnh và thỏa mãn nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và cam kết thực hiện nếu thắng cử và lập được Chính phủ.
2. Vai trò của Đảng cầm quyền trong việc xác lập: bộ máy nhà nước, vị trí cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước cấp Trung ương và địa phương, vị trí cán bộ chủ chốt thuộc các bộ phận cấu thành hệ thống quyền lực nhà nước:
Hoạt động của Đảng cầm quyền luôn gây ảnh hưởng đến đời sống chính trị và hoạt động của bộ máy Nhà nước, làm cho các cơ quan nhà nước hoạt động không theo quy định của pháp luật và trở nên hình thức, có sự phân chia quyền lực nhà nước giữa các Đảng.
Ở Cộng hòa Xingapo, Đảng cầm quyền PAP của Xingapo lãnh đạo Chính phủ và chi phối Quốc hội. Tuy nhiên giữa chúng có sự phân chia quyền lực: các chủ trương, đường lối, chính sách lớn của Đảng phải được Quốc hội thông qua mới được thi hành, và Chính phủ là cơ quan triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối đó.
Quốc hội Xingapo là cơ quan lập pháp gồm 51 nghị sĩ do dân bầu. Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội cử, và chỉ định Thủ tướng (người đứng đầu Đảng chiếm đa số ghế trong Quốc hội). Theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống sẽ chỉ định các thành viên của Nội các (gồm 14 Bộ trưởng và các quan chức hành chính cao cấp). Một Hội đồng cố vấn được lập ra làm tham mưu cho Tổng thống, các ý kiến của Hội đồng trong các cuộc họp cấp cao có thể được Tổng thống tham khảo, ví dụ như việc bổ nhiệm cán bộ chủ chốt cho nền hành chính của quốc gia.
Ở Malaysia, bộ máy nhà nước được chia thành 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, Quốc hội liên bang giữ quyền lập pháp của liên bang (cụ thể là Thượng và Hạ nghị viện), có chức năng làm luật và kiểm soát tài chính của Chính phủ.
Thượng nghị viện hoạt động dưới sự chủ trì của Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch, gồm 69 thành viên, trong đó có 40 người được sự chỉ định của Vua. Hạ nghị viện gồm 192 thành viên, trong đó 145 thành viên được cử tri bầu trực tiếp từ 104 khu vực bầu cử miền Tây Malaysia, số còn lại được bầu gián tiếp qua bộ phận lập pháp của bang Sabah (20 thành viên) và Sarawak (27 thành viên). Các thành viên được bầu gián tiếp sẽ được thay thế bằng các thành viên được bầu trực tiếp sau kỳ tổng tuyển cử toàn liên bang. Chủ trì Hạ viện là người phát ngôn do Viện bầu chọn. Hiến pháp Malaysia có quy định một điều đặc biệt là người phát ngôn Hạ viện có thể là người ngoài Viện, khi đó ngừơi được đề cử sẽ được coi là một thành viên thứ 193 của Viện.
Theo truyền thống lịch sử, Quốc vương Malaysia là ngừơi đứng đầu liên bang, có quyền cao nhất, bảo đảm sự trị vì đất nước, kiểm soát cả 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc vương có quyền bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thẩm phán và giải tán Quốc hội khi cần thiết. Theo quy trình làm luật, dự luật muốn trở thành luật phải được thông qua từ Hạ viện đến Thượng viện và cuối cùng là Vua, do đó Vua là người ký ban hành các đạo luật. Ngoài ra, Vua còn một số đặc quyền khác như: ân xá, bảo vệ quyền lợi cho các dân tộc thiểu số, bảo vệ quyền đặc biệt của người Mã lai…
Trong hoạt động của Chính phủ, Vua là nguyên thủ quốc gia nắm quyền hành pháp. Việc điều hành công việc hàng ngày của đất nước được giao cho Nội các. Để tránh tình trạng độc đoán, Hiến pháp quy định: Vua quyết định trên cơ sở tư vấn của Thủ tướng và Nội các, trừ trường hợp bổ nhiệm Thủ tướng, giải tán Quốc hội và triệu tập Hội nghị 9 tiểu vương quốc. Tuy nhiên trong thực tế, Vua vẫn có sự tham khảo ý kiến của Thủ tướng và các thành viên Nội các.
Theo quy định và Hiến pháp, Thủ tướng là người đứng đầu Đảng chiếm đa số ở Quốc hội, nắm quyền lãnh đạo Chính phủ và đứng ra thành lập Nội các. Trong trường hợp không có Đảng nào giành được đa số ghế tại Quốc hội thì Vua sẽ phải chọn Thủ tướng. Sau khi được Vua bổ nhiệm chính thức và được giao quyền thành lập Chính phủ, Thủ tướng sẽ phải xem xét đến số ghế tương quan giữa 3 Đảng lớn Mã lai – Hoa – Ấn và số ghế giữa các Bang để tránh tình trạng có nhiều thành viên Nội các là người của một Đảng hay một Bang nào đó. Bộ trưởng được chọn trong số đại biểu của 2 Viện, nhưng chủ yếu là của Hạ nghị viện. Hiện nay, Malysia có 27 Bộ trưởng, trong đó có 4 Bộ trưởng không Bộ nằm trong Văn phòng Thủ tướng. Thủ tướng có đặc quyền kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng ở bất kỳ Bộ nào, không hạn chế.
Hiến pháp Nhật Bản quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp duy nhất của đất nước. Điều đó cho thấy, Quốc hội được công nhận về tầm quan trọng của mình cao hơn các cơ quan khác như Nội các và Tòa án. Vì vậy, nền chính trị nhà nước hoạt động theo nguyên tắc Quốc hội là trung tâm. Nhật Bản cơ cấu Quốc hội theo chế độ 2 viện được tổ chức hết sức công phu, dù tổ chức 2 viện khác nhau nhưng phải phù hợp với mục đích của Quốc hội. Ngoài quyền lập pháp, hai viện của Quốc hội còn có quyền giám sát tài chính quốc gia và điều tra các hoạt động chính trị của đất nứơc.
Do áp dụng chế độ Nội các Nghị viện nên Thủ tướng Nhật Bản được chỉ định trong số các nghị sĩ bằng quyết nghị của Quốc hội. Thực tế, nghị sĩ là Chủ tịch Đảng chiếm đa số ghế tại Hạ nghị viện làm Thủ tướng. Thủ tướng có quyền bổ nhiệm các Bộ trưởng và hơn nửa số Bộ trưởng phải được chọn trong số các nghị sĩ Quốc hội (thực tế thì đa số ghế Bộ trưởng trong Nội các thuộc Đảng cầm quyền).
Nội các gồm Thủ tướng và khoảng 20 Bộ trưởng, cơ quan giúp việc cho Nội các là Văn phòng Nội các và các cơ quan của Cục pháp chế Nội các. Ngoài công việc hành chính nói chung, Nội các còn thực thi và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về các công việc hành chính như chấp hành pháp luật, tổng hợp các công việc của quốc gia, xử lý các quan hệ ngoại giao, ký kết các hiệp ước, ban hành các sắc lệnh thi hành Hiến pháp, pháp luật và có đặc quyền về ân xá như đại xá, đặc xá. Các Bộ trưởng được phân công phụ trách các công việc hành chính như Phủ Thủ tướng, các Bộ và các vị trí quan trọng như: Đổng lý văn phòng Nội các (tức Bộ trưởng Văn phòng chính phủ), Chủ tịch Uy ban an ninh quốc gia, Bộ trưởng phụ trách các vấn đề chung, Cục trưởng Cục phòng vệ …
Tại nước Anh, theo quy định của pháp luật, Nữ hoàng được quyền bổ nhiệm Thủ tướng – người đứng đầu bộ máy hành pháp – với điều kiện người đó là thủ lĩnh của Đảng cầm quyền (tức Đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện), các Đảng viên cũng phải biểu quyết theo ý chí của Đảng mình. Tuy Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện (vì được thành lập trên cơ sở Nghị viện), nhưng thực tế Đảng cầm quyền có quyền đứng ra thành lập Chính phủ và thao túng toàn bộ tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước và hoạt động của Hạ nghị viện Anh. Mọi hoạt động của Chính phủ đều thể hiện ý chí của Đảng cầm quyền thông qua ý chí của người lãnh đạo.
Ở Mỹ, Đảng chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của bộ máy nhà nước. Chủ tịch Hạ viện bao giờ cũng là Đảng viên của Đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện, và là người có nhiều quyền lực nhất trong Quốc hội. Với tư cách là người lãnh đạo Đảng, ông ta là một trong những người phát ngôn chủ chốt về các chính sách của Đảng, thực hiện sự kiểm soát của Đảng đối với mọi hoạt động của Hạ viện, đồng thời gây áp lực đối với việc phân công các thành viên vào các Ủy ban. Ngoài ra, còn có các tổ chức Đảng ở Thượng viện và Hạ viện rất có quyền thế can thiệp sâu vào mọi hoạt động lập pháp của Quốc hội, Đảng Cộng hòa gọi là Hội nghị, còn Đảng Dân chủ gọi là phiên nhóm, không những đề cử Đảng viên vào các chức vụ quan trọng mà còn lựa chọn Chủ tịch Ủy ban chính sách và điều hành, người này phụ trách chiến lược của Đảng ở diễn đàn Quốc hội và có quyền quyết định nghị sĩ - đảng viên nào sẽ được nói cũng như nói vào lúc nào.
Bên cạnh đó, sự chi phối của Tổng thống đối với Quốc hội cũng rất đáng kể. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, chịu trách nhiệm về hành động của mình trước cử tri toàn quốc theo quy định, nhưng do là một Đảng viên của Đảng cầm quyền và cũng là để thực hiện quyền lợi của Đảng, giữ uy tín cho Đảng, đồng thời cũng là đặt nền móng cho việc tái cử trong nhiệm kỳ sau nên mọi hoạt động của Tổng thống thường đi theo đường lối chính sách của Đảng đã hứa với cử tri khi vận động bầu cử.
Tổng thống chỉ định tất cả các quan chức cao cấp liên bang và có toàn quyền trong việc bổ nhiệm các thành viên Nội các – một trong những cơ quan giúp việc quan trọng nhất của Tổng thống, và các thành viên này là cộng sự đắc lực có ảnh hưởng lớn trong việc điều hành đất nước của Tổng thống. Để nhận được sự ủng hộ lâu dài của Đảng, Tổng thống thường bổ nhiệm các Đảng viên cùng Đảng đã có sự ủng hộ tích cực trong chiến dịch bầu cử vào các chức vụ quan trọng. Bên cạnh đó, Tổng thống cũng bổ nhiệm một vài chức vụ cho Đảng viên đối lập nhằm củng cố thêm mối quan hệ trong Bộ máy Nhà nước.
Tổng thống thực hiện quyền lực của mình với sự trợ giúp của trên 100 cơ quan khác nhau, trong đó quan trọng nhất là Hội đồng an ninh quốc gia, Cơ quan quản lý ngân sách, Hội đồng đối nội, Cục Tình báo Trung ương, Cục điều tra liên bang, Hội đồng cố vấn kinh tế, Nội các…
Đứng đầu cơ quan tư pháp Malaysia là Ủy ban tư pháp. Đây là cơ quan độ lập, chịu sự chi phối trực tiếp của Nhà vua và Hoàng gia. Người đứng đầu Ủy ban do Vua bổ nhiệm. Thành phần Ủy ban gồm các luật gia, thẩm phán Toà án Tối cao và Toà án cấp I, II. Thẩm phán do Vua bổ nhiệm trên cơ sở tham khảo ý kiến của Thủ tướng và người đứng đầu ngành Tư pháp. Các Thẩm phán được bổ nhiệm đều phải xuất phát từ Ủy ban tư pháp và đi lên từ Tòa án huyện.
Hiến pháp Mỹ quy định: Tổng thống có quyền đề cử và với ý kiến cùng sự thoả thuận của Thượng nghị viện, bổ nhiệm các đại sứ, công sứ và các lãnh sự, các thẩm phán Tòa án tối cao liên bang và tất cả công chức liên bang khác… Theo đó, những người có chức vụ cần được bổ nhiệm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (do nhân dân chọn lựa), các thẩm phán liên bang được nhân dân chọn lựa gián tiếp qua những người đại diện cho họ. Quốc hội cũng quy định thủ tục như vậy đối với việc lựa chọn thẩm phán cho các Tòa án liên bang khác. Như vậy, việc Tổng thống và Thượng nghị viện cùng quyết định chọn ai là thẩm phán liên bang không phụ thuộc vào cấp Tòa án tối cao hay cấp dưới, số lượng thẩm phán của các tòa án liên bang do Quốc hội quy định. Trong trường hợp có ghế khuyết trong bất kỳ Tòa án liên bang nào trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống có thể đề cử và bổ nhiệm thẩm phán vào vị trí khuyết đó. Tuy nhiên, như vậy cũng không có nghĩa là Tổng thống và Thượng nghị viện có quyền tuỳ tiện bổ nhiệm những người mà công chúng hay các nhóm Đảng cho là không đủ khả năng, không phù hợp. Điều đó rất dễ làm họ bị giảm sút uy tín chính trị và có thể sẽ không tiếp tục được tái cử. Chính vì vậy khi bổ nhiệm, Tổng thống và Thượng nghị viện phải làm thỏa mãn 2 yêu cầu: thứ nhất là phù hợp với quan điểm chính trị của họ, thứ hai là không làm cho công chúng và các tổ chức liên quan khác mất lòng. Thường là Tổng thống bổ nhiệm người cùng Đảng với mình, cụ thể trong gần 200 năm lịch sử của Tòa án tối cao, có chưa đến 1/7 trong tất cả các thẩm phán là thuộc Đảng đối lập với Tổng thống.
Ở Pháp, 9 thành viên của Tòa án tối cao được Tổng thống và Chủ tịch Hai viện bổ nhiệm. Ở Italia, trong 15 thành viên thì có 1/3 do người đứng đầu Nhà nước lựa chọn, 1/3 do 2 viện bổ nhiệm và 1/3 do các Tòa cấp dưới chỉ định. Ở Đức, Nghị viện liên bang chỉ định 8/16 thành viên, số còn lại do Hội đồng liên bang chỉ định. Ở Nhật Bản, Tòa án tối cao gồm 1 Chánh án và 14 thẩm phán, Chánh án do Vua bổ nhiệm trên cơ sở nội các chỉ định, 14 thẩm phán do nội các bổ nhiệm.
Ở những nước có hệ thống lưỡng Đảng như Anh, Mỹ,… thì một trong hai Đảng thay nhau cầm quyền. Còn ở những nước có hệ thống đa Đảng như Pháp, Ý, Đức…, nếu không có Đảng nào chiếm đa số ghế trong Quốc hội thì buộc phải thành lập Chính phủ liên minh các Đảng. Ngoài ra còn có hệ thống một Đảng nắm quyền tuyệt đối.
3. Vai trò của Đảng cầm quyền trong việc tác động quá trình hình thành chính sách Nhà nước:
Một Đảng chính trị sau khi thắng cử trở thành Đảng cầm quyền, thông qua các nghị sĩ là Đảng viên của Đảng, nắm quyền kiểm soát các hoạt động của Bộ máy Nhà nước. Hoạt động của Nhà nước luôn tuân thủ theo sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, cụ thể hóa các mục tiêu, cương lĩnh cũng như quyền lợi của Đảng vào chính sách của quốc gia.
Một điều có ý nghĩa quyết định của đảng cầm quyền đối với Nhà nước là đưa tư tưởng của đảng thâm nhập vào chính sách, quyết sách của Nhà nước.
Con đường cơ bản để Đảng cầm quyền củng cố, duy trì vị trí cầm quyền của mình là người đại diện cho Đảng cầm quyền đang giữ vai trò lãnh đạo trong bộ máy cơ quan Nhà nước phải thực hiện các chương trình hành động cũng như làm tròn trách nhiệm đối với các cam kết của Đảng mình trong chiến dịch tranh cử đối với nhân dân.
Nguồn lực để Đảng cầm quyền duy trì hoạt động của mình là công tác đào tạo sử dụng cán bộ. Công tác này phải được làm một cách thường xuyên, liên tục, có kế hoạch, hiệu quả và chất lượng cao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_quyen_luc_nha_nuoc_thuoc_ve_nhan_dan_cua_ho_chi_minh_5751.doc