Tỷ lệ đáp ứng điều trị bằng peg-Interferon phối hợp với ribavirin ở bệnh nhân viêm gan virus C mạn tính genotype 1 và 6

KẾT LUẬN Với mục đích xác định tỷ lệ đáp ứng virus bền vững ở BN VGVC mạn tính genotype 1 và 6, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau: Đáp ứng virus nhanh là yếu tố tiên lượng tin cậy đạt đáp ứng virus bền vững ở cả 2 nhóm genotype 1 và 6. Tỷ lệ SVR ở nhóm BN VGVC mạn genotype 1 điều trị với peg IFN phối hợp ribavirin là 51% và genotype 6 là 64,7%, nhóm genotype 1 điều trị với IFN thường phối hợp ribavirin là 36%. Tỷ lệ đáp ứng virus bền vững ở bệnh nhân genotype 1 thấp hơn nhóm genotype 6 nhưng không có ý nghĩa thống kê. Ở cả 2 nhóm nghiên cứu, đa số bệnh nhân đạt đáp ứng virus bền vững sẽ đạt đáp ứng sinh hóa khi kết thúc điều trị (82% đến 95%). Các biến số trước điều trị như nồng độ virus ban đầu thấp < 2triệu copies/ml, giới nữ có tương quan thuận với SVR. Phác đồ phối hợp pegylated interferon α và ribavirin là 1 phác đồ tương đối an toàn hiếm có tác dụng phụ nghiêm trọng.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 57 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ đáp ứng điều trị bằng peg-Interferon phối hợp với ribavirin ở bệnh nhân viêm gan virus C mạn tính genotype 1 và 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Lão Khoa 102 TỶ LỆ ĐÁP ỨNG ĐIỀU TRỊ BẰNG PEG-INTERFERON PHỐI HỢP VỚI RIBAVIRIN Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN VIRUS C MẠN TÍNH GENOTYPE 1 VÀ 6 Trịnh Thị Thanh Thúy*, Bùi Hữu Hoàng* TÓM TẮT Mục tiêu: Hiệu quả điều trị viêm gan virus C (VGVC) mạn tính của Peg-interferon alfa (Peg-IFN) kết hợp Ribavirin(RBV) đã được nghiên cứu nhiều, nhưng chủ yếu ở genotype 1. Các nghiên cứu này chủ yếu thực hiện trên người da trắng. Trong khi đó, genotype 6 được phân bố ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, HongKong và Thái Lan thì số liệu còn rất hạn chế. Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi nhằm khảo sát tỷ lệ đáp ứng với điều trị Peg-IFN kết hợp RBV trong 48 tuần đối với VGVC mạn tính genotype 1 và 6 trên người Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: 232 bệnh nhân (BN) VGVC mạn tính genotype 1 và 6 được phân thành ba nhóm khảo sát: Nhóm I gồm 98 BN genotype 1 điều trị với Peg-IFN và RBV; nhóm II gồm 100 BN genotype 1 điều trị với IFN thường phối hợp RBV và nhóm III gồm 34 BN genotype 6 điều trị với Peg-IFN và RBV. Liều điều trị của Peg-IFN-2a là 180g/tuần và Peg-IFN-2b là 1,5g/kg/tuần kết hợp RBV chỉnh liều theo cân nặng trong 48 tuần. Kết quả: tỷ lệ đáp ứng virus bền vững (SVR) ở nhóm genotype 6 cao hơn nhóm genotype 1 (genotype 1: 51%; genotype 6: 64,7%; p=0.167). Kết quả SVR ở nhóm genotype 1 điều trị với Peg-IFN cao hơn so với nhóm genotype 1 điều trị bằng IFN thường (tương ứng là 51% so với 36%; p=0.033). Men ALT về bình thường ở tuần 72 là 82% ở nhóm I; 94,4% ở nhóm II và 95,5% ở nhóm III. Kết luận: Bệnh nhân VGVC mạn tính genotype 6 khi được điều trị Peg-IFN kết hợp RBV cho hiệu quả SVR cao hơn so với genotype 1. Phác đồ Peg-IFN phối hợp RBVđạt hiệu quả và an toàn. Từ khóa: Viêm gan virus C (VGVC), genotype 1, genotype 6, Peg-interferon alpha (Peg-IFN), ribavirin (RBV), đáp ứng virus bền vững (SVR). ABSTRACT THE RESPONSE RATE OF THE COMBINED TREATMENT PEGYLATED INTERFERON ALFA PLUS RIBAVIRIN IN CHRONIC HEPATITIS C PATIENTS GENOTYPE 1 AND 6 Trinh Thi Thanh Thuy, Bui Huu Hoang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 79 - 86 Aims: The effectiveness of the combined treatment Peg-IFN  plus RBV in Hepatitis C virus (HCV) was intensively studied, but mainly on genotype 1. Majority of these studies perfomed on caucasian patients. Little information was known about the treatment of genotype 6 which occurred at high frequency in several Asian countries, such as China, Vietnam, Hongkong and Thailand, etc. The aims of our study therefore are to evaluate the rate of viral response in Vietnamese patients with chronic HCV, genotype 1 and 6 treated with Peg-IFN combined with RBV in 48 weeks. Patients and methods: 232 chronic HCV patients genotype 1 and 6 were classified into three groups. * Bộ môn Nội – ĐH Y Dược TP HCM Tác giả liên lạc: BS. Trần Công Thắng ĐT: 0903674732 Email: thangtc89@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Lão Khoa 103 Group I included 98 patients genotype 1, group II included 100 patients genotype 1 treated with standard IFN alfa combined with RBV, and group III included 34 patients genotype 6. All the patients in groups I and III were treated with Peg-IFN-2a 180g weekly or Peg-IFN-2b 1.5g/kg/w combined with RBV; the period of treatment time was 48 weeks. Results: Sustained virus response (SVR) of genotype 6 was higher than genotype 1 group but it not reached significant level (Group I: 36%; Group II: 51%; Group III: 67.4%; p>0.05). Normalized transaminases levels at week 72 were 82%, 94.4%, 95.5% in group I, group II and group III, respectively. Conclusion: Patients with chronic HCV genotype 6 showed good responses when treated by Peg-IFN combined with RBV. The sustained viral response was better than that of genotype 1. Peg-IFNplus RBV regimen was effective and safe. Key words: Hepatitis C virus (HCV, genotype 1, genotype 6, Peg-interferon alpha (Peg-IFN), ribavirin (RBV), Sustained virus response (SVR). ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, hiện nay có khoảng hơn 175 triệu người bị nhiễm virus viêm gan C (VVGC) trên toàn cầu. VVGC là một trong những nguyên nhân quan trọng gây bệnh gan mạn tính và có thể tiến triển sang xơ gan và ung thư gan. Vì vậy, vấn đề tìm hiểu và điều trị VGVC đang phát triển với tốc độ nhanh, trong đó genotype của virus có ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị. Phần lớn các nghiên cứu trên thế giới đã đề cập rất nhiều về hiệu quả điều trị của Peg-IFN- kết hợp với RBV đối với genotype 1 hay 2, 3. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu về hiệu quả điều trị đối với genotype 6. Genotype 6 được phân bố chủ yếu ở một số nước châu Á như Trung Quốc, Thái lan, HongKong, Việt Nam. nhưng các số liệu về đáp ứng với điều trị của genotype này còn hạn chế. Do vậy, cần có những nghiên cứu về đáp ứng điều trị của VGVC genotype 1 và 6 ở người Việt Nam. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là xác định tỷ lệ đáp ứng virus bền vững ở BN VGVC mạn tính genotype 1 và 6. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là một nghiên cứu hồi cứu hàng loạt trường hợp. Chúng tôi tiến hành thu thập số liệu thứ cấp từ hồ sơ bệnh án ngoại trú tại phòng khám Viêm gan, bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 1 năm 2009. Tiêu chí loại trừ BN bị đồng nhiễm virus viêm gan B hoặc HIV. Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú. BN bị xơ gan mất bù, bệnh gan mạn tính do các nguyên nhân khác VGVC (do VGVB, rượu, thuốc), suy tim, bệnh huyết học, bệnh tâm thần, động kinh, nghiện rượu và các bệnh khác ảnh hưởng đến việc điều trị. Tiền sử ghép gan, bệnh lý ác tính như ung thư gan nguyên phát hay bệnh hệ thống khác. BN đang dùng thuốc ức chế miễn dịch hoặc đã được điều trị IFN trước đây. Giảm bạch cầu trung tính (<1500/mm3), giảm tiểu cầu (<90.000/mm3), thiếu máu (Hb < 11g/dl ở nữ và <12g/dl ở nam). Creatinin máu lớn hơn 1,5 giới hạn trên bình thường. Phương pháp tiến hành BN được phân bố vào ba nhóm tùy theo ý định điều trị của bác sĩ điều trị và genotype của VVGC: Nhóm I: BN VGVC genotype 1 được điều trị với Peg-IFN- và RBV. Nhóm II: BN VGVC genotype 1 được điều trị với IFN thường. Nhóm III: BN VGVC genotype 6 được điều trị với Peg-IFN- và RBV. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Lão Khoa 104 Các BN được điều trị ngoại trú, theo dõi kiểm tra định kỳ mỗi tháng. Thời gian điều trị 48 tuần, theo dõi đáp ứng sinh hóa, đáp ứng virus, tác dụng phụ, yếu tố ảnh hưởng điều trị: giới, tuổi, nồng độ virus, cân nặng cơ thể, men ALT. Sau khi ngưng điều trị vẫn tiếp tục theo dõi sau 24 tuần. Nồng độ HCV-RNA được định lượng ở tuần thứ 4, 12, 24, thời điểm kết thúc điều trị ở tuần 48 và sau 6 tháng kết thúc điều trị. KẾT QUẢ Đặc điểm lâm sàng của các nhóm nghiên cứu trước điều trị: 232 BN được phân bố theo 3 nhóm (Bảng 1) Bảng 1: Bảng tóm tắt đặc điểm của ba nhóm: Đặc điểm Geno1 PegIFN Geno1 IFN Geno6 P Tuổi <45 ≥45 46 ± 11 36 (36,7%) 62 (63,3%) 47 ± 11 34 (34%) 66 (66%) 48 ± 10 13 (38,2%) 21 (61,8%) p1:0,687 p2:0,876 Giới Đặc điểm Geno1 PegIFN Geno1 IFN Geno6 P Nam Nữ 50 (51%) 48 (49%) 55 (55%) 45 (45%) 18 (52,9%) 16 (47,1%) p1:0,847 p2:0,575 Cân nặng ≤65 kg >65kg 76 (77,6%) 22 (22,4%) 81 (81%) 19 (19%) 28 (82,4%) 6 (17,6%) p1:0,549 p2:0,555 ALT (U/L) 51 (29,75;81,5 ) 74,5 (45,25; 119,5) 50,5 (35; 78,25) p1:0.973 p2:0.001 HCV- RNA* (x103cps/ mL) 4000 (1122,5;103 51,25) 4200 (538,5;1097 5) 3455 (787;11225) p1:0,597 p2:0,853 *trung vị; p1: so sánh giữa nhóm Geno1_PegIFN và Geno1_IFN; p2: so sánh giữa nhóm Geno1_PegIFN và Geno6. Geno1_PegIFN: Genotype 1 điều trị với Peg-IFN- và Geno1_IFN: Genotype 1 điều trị với IFN thường. Sự khác biệt về các biến số trước điều trị của 3 nhóm không có ý nghĩa thống kê. Đáp ứng điều trị Biểu đồ 1: Thay đổi men ALT trong quá trình điều trị ở 3 nhóm (Kiểu gien, KG: Genotype) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Lão Khoa 105 Biểu đồ 2: Tóm tắt các đáp ứng virus ở 3 nhóm nghiên cứu (Kiểu gien, KG: Genotype) Nhóm BN genotype 1 điều trị với Peg-IFN- có tỷ lệ đạt đáp ứng virus nhanh (RVR) cao hơn nhóm IFN thường. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,342). BN genotype 6 có tỷ lệ đạt RVR cao hơn nhóm genotype 1. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,011). Nhóm BN genotype 1 điều trị với PegIFN có tỷ lệ đạt đáp ứng virus sớm (EVR) cao hơn nhóm IFN thường. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,107). BN genotype 6 có tỷ lệ đạt EVR cao hơn nhóm genotype 1. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,761). Nhóm BN genotype 1 điều trị với PegIFN có tỷ lệ đạt đáp ứng virus bề vững (SVR) cao hơn nhóm IFN thường. Sự khác biệt về SVR giữa 2 nhóm BN genotype 1 điều trị với PegIFN và IFN thường có ý nghĩa thống kê (p=0,033). BN genotype 6 có tỷ lệ đạt SVR cao hơn nhóm genotype 1. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,167). Các yếu tố ảnh hưởng hiệu quả điều trị: Biểu đồ 3: Tỷ lệ đạt RVR trong từng nhóm (Kiểu gien, KG: Genotype) Trong nhóm genotype 1 điều trị với PegIFN đạt RVR có tỷ lệ đạt SVR cao hơn; sự khác biệt này có p<0,0001. Trong nhóm genotype 1 điều trị với IFN thường đạt RVR có tỷ lệ đạt SVR cao hơn nhóm không đạt RVR; sự khác biệt này có p<0,0001. Trong nhóm genotype 6 đạt RVR có tỷ lệ đạt SVR cao hơn nhóm không đạt RVR; sự khác biệt này có p=0,279. Trong nhóm genotype 1 điều trị với PegIFN đạt EVR có tỷ lệ đạt SVR cao hơn; sự khác biệt có p= 0,007. Trong nhóm genotype 1 điều trị với IFN thường đạt EVR có tỷ lệ đạt SVR cao hơn; sự khác biệt có p<0,0001. Trong nhóm genotype 6 đạt EVR có tỷ lệ đạt SVR cao hơn; sự khác biệt có p= 0,279. Ngoài ra, các biến số trước điều trị như: tuổi, giới, cân nặng, nồng độ HCV RNA không ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến tỷ lệ đáp ứng virus của genotype 1 và 6. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Lão Khoa 106 Tác dụng phụ: Biểu đồ 4. Sự thay đổi nồng độ Hb của 3 nhóm trong quá trình điều trị (Kiểu gien, KG: Genotype) Trong quá trình điều trị, ở cả 3 nhóm, sau điều trị 1 tháng, mức Hb bắt đầu giảm, sau 5 tháng nồng độ Hb giảm xuống đến mức thấp nhất là 10g/dl và ổn định trong quá trình điều trị. Tuy nhiên, sau khi kết thúc 12 tháng Hb ổn định trở lại gần bằng so với trước điều trị. Khi so sánh sự thay đổi Hb trong quá trình điều trị, thấy rằng mức Hb thay đổi tương tự ở 3 nhóm nghiên cứu. Bảng 2: Tần suất các tác dụng phụ về tuyến giáp ở các nhóm nghiên cứu Nhóm Cường giáp Suy giáp Không Geno1 PegIFN 1 (1%) 1 (1%) 96 (98%) Geno1 IFN 3 (3%) 1 (1%) 96 (96%) Geno 6 1 (2,9%) 0 33 (97,1%) Tỷ lệ xảy ra các tác dụng phụ tuyến giáp ở các nhóm nghiên cứu thì rất thấp. Khoảng 1- 3%. Tác dụng phụ cường giáp thường gặp hơn. Bảng 3: Tỷ lệ giảm liều thuốc ở các nhóm nghiên cứu Nhóm Giảm liều IFN Giảm liều RBV IFN và RBV Không Geno1 PegIFN 8 (8,2%) 12 (12,2%) 1 (1%) 77 (78,6%) Geno1 IFN 3 (3%) 10 (10%) 2 (2%) 85 (85%) Geno 6 3 (9,1%) 1 (3%) 1 (3%) 28 (84,8%) Tỷ lệ giảm liều thuốc ở nhóm genotype 1 điều trị với PegIFN cao hơn nhóm genotype 6. Tỷ lệ giảm liều thuốc giữa các nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p=0,638). Tỷ lệ giảm liều thuốc ở nhóm genotype 1 điều trị với PegIFN cao hơn nhóm genotype 1 với IFN thường. Tỷ lệ giảm liều thuốc giữa các nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p=0,241). Bảng 4: Tần suất sử dụng Erythropoetin ở các nhóm nghiên cứu Nhóm Erythropoetin Không dùng Tổng Geno1 PegIFN 12 (12,2%) 86 (87,8%) 98 Geno1 IFN 9 (9%) 91 (91%) 100 Geno 6 5 (14,7%) 29 (85,3%) 34 Tỷ lệ dùng Erythropoetin ở nhóm genotype 1 với PegIFN cao hơn nhóm genotype 1 với IFN thường. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,458). Tỷ lệ dùng Erythropoetin ở nhóm genotype 1 với PegIFN cao hơn nhóm genotype 6. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,768). BÀN LUẬN Genotype 1 của VVGC là genotype khá phổ biến trên thế giới. Trong đó, genotype 1b thường gặp nhất. Genotype 2 cũng thường gặp nhưng tần suất thấp hơn nhiều. Genotype 3 chủ yếu được phát hiện ở Ấn Độ, Pakistan, Úc và Scotland, genotype 4 thường gặp ở Trung Đông và Châu Phi, genotype 5 ở Nam Phi. Genotype 6 thì ưu thế ở các nước Đông Nam Á như Việt Nam(1). Trong nghiên cứu của Hồ Tấn Đạt và cs., năm 2005, trên 229 BN Việt Nam, tỷ lệ nhiễm VVGC genotype 1 và 6 lần lượt là 58,4% và 23,9%(6). Gần đây, PegIFN phối hợp RBV là phác đồ điều trị chuẩn cho BN VGVC mạn tính. Hầu hết các nghiên cứu ghi nhận BN bị VGVC genotype 2 và 3 đạt SVR cao hơn BN genotype 1 (76–80% so với 46–52%)(5). Tuy nhiên, đáp ứng virus ở BN genotype 6 chưa được nghiên cứu nhiều và số lượng BN trong các nghiên cứu còn hạn chế. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Lão Khoa 107 Sau khi kết thúc 48 tuần điều trị, tỷ lệ đạt SVR tức là HCV RNA âm tính ở tuần thứ 24 sau kết thúc điều trị ở nhóm BN genotype 1 điều trị với PegIFN là 51%. Trong khi đó, tỷ lệ đạt SVR ở nhóm BN genotype 1 điều trị với IFN thường là 36% và tỷ lệ đạt SVR ở nhóm BN genotype 6 điều trị với PegIFN là 64,7%. Tỷ lệ đạt SVR ở nhóm genotype 1 điều trị với PegIFN cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm genotype 1 điều trị với IFN thường. Ghi nhận này phù hợp với các nghiên cứu trước đây so sánh hiệu quả điều trị của PegIFN với IFN thường(2, 3). Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi một lần nữa khẳng định PegIFN là thuốc điều trị hiệu quả cho BN VGVC mạn. Tuy nhiên, tỷ lệ đạt SVR trong nhóm genotype 1 điều trị với PegIFN của chúng tôi không cao như các tác giả khác trên người Châu Á(10,12). Tỷ lệ SVR trong nghiên cứu của Liu và cs. trên BN genotype 1 người Châu Á là 76%, cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi, có lẽ là do tỷ lệ hoàn thành đủ 48 tuần điều trị trong nghiên cứu của Liu cao hơn (88%) và đó là một nghiên cứu tiền cứu có thể theo dõi BN sau kết thúc điều trị nên giảm tỷ lệ mất theo dõi. Tỷ lệ SVR của chúng tôi vẫn cao hơn tỷ lệ SVR của các nghiên cứu trên người da đen và người da trắng. Trong nghiên cứu của Jeffers và cộng sự năm 2004, cho thấy tỷ lệ đạt SVR ở người da đen là 26% so với 39% ở nhóm da trắng(8). Nghiên cứu của Muir và cs., năm 2004, cho thấy tỷ lệ đạt SVR ở người da đen là 19% so với 52% ở nhóm da trắng(13). Tỷ lệ đạt SVR ở nhóm BN genotype 6 điều trị với PegIFN có cao hơn so với nhóm genotype 1 nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, có thể do chênh lệch số BN trong hai nhóm. Ghi nhận này thì thấp hơn các nghiên cứu trên BN Châu Á bị nhiễm VVGC genotype 6, có lẽ là do cỡ mẫu của chúng tôi nhỏ hơn. Nghiên cứu của Tsang và cs. Cho thấy tỷ lệ SVR của BN genotype 6 cũng cao hơn 75,7% so với 57,1% của genotype 1(16). Ghi nhận tương tự ở nghiên cứu của Fung và cs., tỷ lệ đạt SVR ở BN genotype 6 là 86% so với 52% của BN genotype 1(4). Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm BN thuộc genotype 1 điều trị với PegIFN có tỷ lệ SVR thấp hơn nghiên cứu của Võ Ngọc Quốc Minh với SVR ở 75 BN VGVC mạn điều trị với IFN thường là 69,3%(17). Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả chưa phân chia đáp ứng virus theo genotype và cỡ mẫu cũng nhỏ hơn nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu gần đây nhất của Dou Narith là nghiên cứu hồi cứu trên 129 BN Campuchia, tỷ lệ SVR của nhóm genotype 1 điều trị với PegIFN là 69,8%, nhóm genotype 6 là 86,9%(1). Tác giả cũng chưa tìm thấy sự khác biệt về tỷ lệ SVR có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm genotype. Nhận xét này tương tự kết quả của chúng tôi nhưng tỷ lệ SVR trong nhóm genotype 1 của chúng tôi thấp hơn có lẽ do tỷ lệ hoàn thành điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn. Nghiên cứu của Phạm Thị Thu Thủy (từ 2005 đến 2009) thực hiện trên 61 BN VGVC genotype 6 điều trị với Peg IFNα -2b cho thấy tỷ lệ SVR là 68,85%. Do đây là nghiên cứu hồi cứu nên có thể không thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết. Đánh giá hiệu quả điều trị theo ‘ý định điều trị’ có thể đánh giá thấp hiệu quả thật sự do mất theo dõi (15% BN), BN ngưng trị sớm vì lý do kinh tế chứ không phải thật sự không đáp ứng điều trị. Khi phân tích đơn biến cho thấy ở những BN VGVC genotype 1 điều trị với PegIFN thì giới tính, RVR, EVR là các yếu tố tiên đoán độc lập cho SVR, điều này tương tự trong các nghiên cứu khác(10, 14). Phân tích đa biến cho thấy giới tính và RVR vẫn là yếu tố tiên đoán độc lập cho SVR. Như vậy, ở những BN genotype 1 điều trị với PegIFN và RBV, giới nữ và việc đạt được RVR là các yếu tố tiên đoán độc lập cho việc đạt được SVR cao hơn. Nhận xét này tương tự kết quả nghiên cứu của Liu và cs(10).Tỷ lệ SVR ở genotype 1 cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi, có thể do việc đạt được RVR và EVR cao Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Lão Khoa 108 trong quá trình điều trị. Ở những BN VGVC genotype 6, khi phân tích đơn biến cho thấy mức HCV RNA khởi đầu thấp và men ALT khởi đầu cao có giá trị tiên đoán SVR. Nhưng phân tích đa biến, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, có thể do hạn chế của cỡ mẫu nhỏ. Các tác giả cho rằng tải lượng virus trước điều trị, tỷ lệ BN xơ gan và giới nữ làm cho SVR cao hơn(3,11). Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ nam/ nữ tương đương, nhưng tải lượng virus trước điều trị cao chiếm tỷ lệ cao hơn ở cả ba nhóm nghiên cứu. Do đó, vẫn có khả năng là người Châu Á nhạy cảm hơn với phác đồ phối hợp nên trong tương lai cần có các nghiên cứu sâu hơn về virus học để có thể giải thích cơ chế đáp ứng điều trị trên người Châu Á. Các nghiên cứu trước đây cố gắng giải thích nguyên nhân sự khác biệt của chủng tộc trong đáp ứng đối với điều trị VGVC mạn của người Mỹ gốc Phi(7,9,15). Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu vẫn chưa đưa ra được cơ chế phân tử giải thích cho sự khác biệt trong đáp ứng điều trị kháng VVGC ở người Châu Á. KẾT LUẬN Với mục đích xác định tỷ lệ đáp ứng virus bền vững ở BN VGVC mạn tính genotype 1 và 6, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau: Đáp ứng virus nhanh là yếu tố tiên lượng tin cậy đạt đáp ứng virus bền vững ở cả 2 nhóm genotype 1 và 6. Tỷ lệ SVR ở nhóm BN VGVC mạn genotype 1 điều trị với peg IFN phối hợp ribavirin là 51% và genotype 6 là 64,7%, nhóm genotype 1 điều trị với IFN thường phối hợp ribavirin là 36%. Tỷ lệ đáp ứng virus bền vững ở bệnh nhân genotype 1 thấp hơn nhóm genotype 6 nhưng không có ý nghĩa thống kê. Ở cả 2 nhóm nghiên cứu, đa số bệnh nhân đạt đáp ứng virus bền vững sẽ đạt đáp ứng sinh hóa khi kết thúc điều trị (82% đến 95%). Các biến số trước điều trị như nồng độ virus ban đầu thấp < 2triệu copies/ml, giới nữ có tương quan thuận với SVR. Phác đồ phối hợp pegylated interferon α và ribavirin là 1 phác đồ tương đối an toàn hiếm có tác dụng phụ nghiêm trọng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dev, A.T., McCaw, R., Sundararajan, V., Bowden, S., Sievert, W. (2002), "Southeast Asian patients with chronic hepatitis C: the impact of novel genotypes and race on treatment outcome". Hepatology, 36 (5), pp. 1259-1265. 2. Dou Narith (2010), Đánh giá hiệu quả của điều trị kết hợp peg Interferon alfa 2a và ribavitin trên bệnh nhân Campuchia bị viêm gan siêu vi C mạn mang kiểu gien 6, Luận văn thạc sĩ y học, Đai học y dược TP. Hồ Chi Minh, TP. Hồ Chi Minh. 3. Ferenci, P., Fried, M.W., Shiffman, M.L., Smith, C.I., Marinos, G., Goncales, F.L., Jr., et al. (2005), "Predicting sustained virological responses in chronic hepatitis C patients treated with peginterferon alfa-2a (40 KD)/ribavirin". J Hepatol, 43 (3), pp. 425-433. 4. Fried, M.W., Shiffman, M.L., Reddy, K.R., Smith, C., Marinos, G., Goncales, F.L., Jr., et al. (2002), "Peginterferon alfa-2a plus ribavirin for chronic hepatitis C virus infection". N Engl J Med, 347 (13), pp. 975-982. 5. Fung, J., Lai, C.L., Hung, I., Young, J., Cheng, C., Wong, D., et al. (2008), "Chronic hepatitis C virus genotype 6 infection: response to pegylated interferon and ribavirin". J Infect Dis, 198 (6), pp. 808-812. 6. Ghany, M.G., Strader, D.B., Thomas, D.L., Seeff, L.B. (2009), "Diagnosis, management, and treatment of hepatitis C: an update". Hepatology, 49 (4), pp. 1335-1374. 7. Hồ Tấn Đạt, Phạm Thị Thu Thủy (2006), "Kiểu gien của siêu vi viêm gan C ở Việt Nam". Y Học TP. Hồ Chí Minh, 10 (1), tr. 28- 34. 8. Ioannou, G.N., Dominitz, J.A., Weiss, N.S., Heagerty, P.J., Kowdley, K.V. (2003), "Racial differences in the relationship between hepatitis C infection and iron stores". Hepatology, 37 (4), pp. 795-801. 9. Jeffers, L.J., Cassidy, W., Howell, C.D., Hu, S., Reddy, K.R. (2004), "Peginterferon alfa-2a (40 kd) and ribavirin for black American patients with chronic HCV genotype 1". Hepatology, 39 (6), pp. 1702-1708. 10. Layden-Almer, J.E., Ribeiro, R.M., Wiley, T., Perelson, A.S., Layden, T.J. (2003), "Viral dynamics and response differences in HCV-infected African American and white patients treated with IFN and ribavirin". Hepatology, 37 (6), pp. 1343-1350. 11. Liu, C.H., Liu, C.J., Lin, C.L., Liang, C.C., Hsu, S.J., Yang, S.S., et al. (2008), "Pegylated interferon-alpha-2a plus ribavirin for treatment-naive Asian patients with hepatitis C virus genotype 1 infection: a multicenter, randomized controlled trial". Clin Infect Dis, 47 (10), pp. 1260-1269. 12. Mangia, A., Minerva, N., Bacca, D., Cozzolongo, R., Ricci, G.L., Carretta, V., et al. (2008), "Individualized treatment duration for hepatitis C genotype 1 patients: A randomized controlled trial". Hepatology, 47 (1), pp. 43-50. 13. Missiha, S., Heathcote, J., Arenovich, T., Khan, K. (2007), "Impact of asian race on response to combination therapy with Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Lão Khoa 109 peginterferon alfa-2a and ribavirin in chronic hepatitis C". Am J Gastroenterol, 102 (10), pp. 2181-2188. 14. Muir, A.J., Bornstein, J.D., Killenberg, P.G. (2004), "Peginterferon alfa-2b and ribavirin for the treatment of chronic hepatitis C in blacks and non-Hispanic whites". N Engl J Med, 350 (22), pp. 2265-2271. 15. Poordad, F., Reddy, K.R., Martin, P. (2008), "Rapid virologic response: a new milestone in the management of chronic hepatitis C". Clin Infect Dis, 46 (1), pp. 78-84. 16. Sugimoto, K., Stadanlick, J., Ikeda, F., Brensinger, C., Furth, E.E., Alter, H.J., et al. (2003), "Influence of ethnicity in the outcome of hepatitis C virus infection and cellular immune response". Hepatology, 37 (3), pp. 590-599. 17. Tsang, O.T., Zee, J.S., Chan, J.M., Li, R.S., Kan, Y.M., Li, F.T., et al. "Chronic hepatitis C genotype 6 responds better to pegylated interferon and ribavirin combination therapy than genotype 1". J Gastroenterol Hepatol, 25 (4), pp. 766-771. 18. Võ Ngọc Quốc Minh (2003), Đáp ứng điều trị nhiễm siêu vi viêm gan C mạn tính với công thức phối hợp interferon + ribavirin. Luận văn thạc sĩ y học, TP. Hồ Chí Minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_le_dap_ung_dieu_tri_bang_peg_interferon_phoi_hop_voi_riba.pdf
Tài liệu liên quan