U sợi mạch vòm mũi họng: Nhân 3 trường hợp phẫu thuật với sự hỗ trợ của ống nội soi
Biến chứng
Hiện tại cả 3 ca mổ không gặp biến chứng
nào, các biến chứng đã được kể đến trong y văn
như chảy dịch não tủy, mù mắt, tắc lệ đạo chúng
tôi chưa gặp. Do số ca mổ chỉ mới có 3 trường
hợp nên vẫn phải nghiên cứu tiếp.
Đường vào
Mục tiêu của điều trị u sợi mạch vòm mũi
họng là phẫu thuật cắt khối u. Do đặc tính chảy
máu của khối u và tính phức tạp của giải phẫu
nền sọ nên phẫu thuật cắt khối u đòi hỏi phải
bộc lộ rõ phẫu trường để thấy rõ khối u và chân
bám của nó. Phẫu thuật đục xương mũi theo
đường ngoài có điểm lợi là tiếp cận được hố mũi,
xoang hàm, xoang sàng và vòm mũi họng. Tuy
nhiên nó để lại sẹo trên mặt và lấy đi 1 phần
xương mũi, xương hố lê, có khả năng làm biến
dạng xương mặt, đặc biệt là ở bệnh nhi xương
mặt chưa phát triển hoàn chỉnh. Đường mổ
ngoài giúp bộc lộ khối u tuy nhiên để lại sẹo mổ
dài và phải đục xương mặt, vì bệnh thường xảy
ra ở tuổi thiếu niên nên phẫu thuật đục xương
mặt ít nhiều có ảnh hưởng đến sự phát triển của
xương sọ mặt. Thông thường sự phát triển của
xương sọ mặt đến ít nhất là 20 tuổi(1). Trước đây,
nếu chân bám của khối u ở vòm mũi họng thì có
thể tiếp cận qua đường xuyên khẩu cái. Tuy
nhiên, nhờ tiếp cận qua nội soi chúng tôi có thể
tiếp cận khối u có chân bám ở vòm hoàn toàn
qua nội soi mũi. Kể cả trường hợp khối u phát
triển vào hố chân bướm hàm, tiếp cận qua nội
soi vẫn có thể thực hiện được bằng cách mở vào
thành sau xoang hàm.
Trong trường hợp khối u quá to phát triển
xâm lấn vào xoang bướm, xoang hang, việc tiếp
cận khối u qua đường phối hợp là cần thiết,
phẫu thuật khối u qua đường mổ ngoài và dùng
nội soi để lấy phần khối u trong xoang bướm(2).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 76 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu U sợi mạch vòm mũi họng: Nhân 3 trường hợp phẫu thuật với sự hỗ trợ của ống nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 17
U SỢI MẠCH VÒM MŨI HỌNG: NHÂN 3 TRƯỜNG HỢP
PHẪU THUẬT VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA ỐNG NỘI SOI
Lâm Huyền Trân*, Huỳnh Khắc Cường*, Ngô Thế Hải**, Nguyễn Bích Hạnh**, Xà Trường Thành**,
Phạm Bảo Long**, Phạm Đình Nguyên***, Thiều Vĩ Tuấn****
TÓM TẮT
U sợi mạch vòm mũi họng là 1 khối u mạch máu lành tính hiếm gặp. Mặc dù chọn lựa điều trị là phẫu thuật,
tuy nhiên vẫn chưa có sự đồng thuận đường tiếp cận nào là tốt nhất.
Mục tiêu nghiên cứu: Sử dụng ống nội soi trong phẫu thuật cắt u sợi mạch vòm mũi họng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tại khoa tai mũi họng bệnh viện Nguyễn Tri
Phương từ tháng 6/2011 đến tháng 10/2012. Có 3 bệnh nhân u sợi mạch vòm mũi họng được điều trị.
Thiết kế nghiên cứu: Báo cáo ca lâm sàng.
Kết quả: 3 bệnh nhân nam trẻ có biểu hiện nghẹt mũi 1 bên, chảy máu mũi tái đi tái lại nhiều lần, 1 trong số
3 em trai này còn bị lồi mắt và sưng nửa mặt bất đối xứng. Nội soi mũi cho thấy khối u dưới niêm mạc vùng
cuốn mũi giữa và vòm mũi họng. Dấu hiệu của u tăng sinh mạch máu trên phim chụp CT có cản quang MSCTA
và MRI. 1 trường hợp khối u ở giai đoạn IV theo phân loại của Fish cần thiết phẫu thuật mở theo đường cạnh mũi
ngoài kết hợp với tiếp cận qua nội soi để lấy phần khối u trong xoang bướm. 2 trường hợp còn lại, khối u ở giai
đoạn I và giai đoạn II xâm lấn vào hố chân bướm hàm. Cả 2 trường hợp này phẫu thuật lấy khối u hoàn toàn qua
nội soi.
Kết luận: Tiến bộ chính trong phẫu thuật u sợi mạch vòm mũi họng là đưa vào tiếp cận qua nội soi. Phẫu
thuật cắt u qua đường ngoài là phương pháp kinh điển đã có từ rất lâu. Ngày nay, tiếp cận hiện đại hơn là tiếp
cận qua nội soi. Phẫu thuật cắt u qua nội soi có ưu thế hơn phẫu thuật mở là tránh được sẹo, giảm mất máu trong
khi mổ và giảm biến chứng. Phẫu thuật cắt u qua nội soi có thể được thực hiện an toàn đối với u ở giai đoạn sớm.
Trong trường hợp khối u đã tiến xa, phẫu thuật cắt u qua nội soi có thể dùng phối hợp với đường mổ ngoài để lấy
khối u. Phẫu thuật nội soi có vai trò lớn trong giảm máu mất trong khi mổ.
Từ khóa: U sợi mạch, vòm mũi họng.
ABSTRACT
JUVENILE NASOPHARYNGEAL ANGIOFIBROMA, 3 CASES REPORTS
USING ENDOSCOPIC EXCISION.
Lam Huyen Tran, Huynh Khac Cuong, Ngo The Hai, Nguyen Bich Hanh, Xa Truong Thanh,
Pham Bao Long, Pham Đinh Nguyen, Thieu Vi Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 17 - 21
Juvenile nasopharyngeal angiofibroma is a rare benign vascular tumor of the nasopharynx. Although the
treatment of choice is surgery, there is no consensus on what is the best approach.
Aim: Using endoscopic approach to remove a Juvenile nasopharyngeal angiofibroma.
Material and Methods: Study descriptive, in the Otorhinolaryngology department of Nguyễn Tri Phương
* Bộ môn Tai Mũi Họng ĐHYD TPHCM ** Khoa liên chuyên khoa – bệnh viện Nguyễn Tri Phương
*** Bệnh viện Nhi Đồng 1 **** Bộ môn Tai Mũi Họng Đại học Y Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Lâm Huyền Trân ĐT: 0913120599 Email: huyentranent@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 18
hospital from 6/2011- to 10/2012. We analyze 3 patients with angiofibroma undergoing surgical treatment.
Study design: Case report.
Results: 3 young boys presente unilateral nasal obstruction, recurrent epistaxis, 1 of 3 shows a exophtalmos
and facial asymmetry. On nasal endoscopy: a soft vascular and submucosal mass is seen beyond the middle
turbinate and nasopharyngeal mucosa. Diagnosis is confirmed by CT with IV contrast, MSCTA and MRI. 1 case
tumor in stage IV (according to Fish) needs an external rhinotomy combined an endoscopic approach to remove
the tumor in sphenoid sinus. The 2 others, in stage I and II, endonasal endoscopic excision.
Conclusion: The main advancement in the treatment of juvenile nasopharyngeal angiofibroma (JNA) is the
introduction of the endoscopic approach. Surgical excision of JNA has evolved from traditional open approaches to
newer endoscopic approaches. Endoscopic excision of JNA appears to be superior to open techniques in
intraoperative blood loss, and rate of complications. Endonasal endoscopic excision can be performed safety in
early-stage tumors. In advanced lesions, endoscopic sinus surgery can be used as an adjuvant to other external
techniques in order to achieve complete removal and minimal intraoperative blood loss. Endoscopic surgery plays
a great role in reducing the intraoperative bleeding.
Key Words: Angiofibroma, nasopharynx
MỞ ĐẦU
U sợi mạch vòm mũi họng là u lành tính,
giàu mạch máu thường xuất phát ở bờ trên của
lỗ bướm khẩu cái ở bé trai tuổi dậy thì. U sợi
mạch vòm mũi họng là khối u hiếm gặp, chiếm
0,5% khối u vùng đầu cổ. Tuổi trung bình
khoảng 15 tuổi. Triệu chứng phổ biến là nghẹt
mũi và chảy máu mũi. Khoảng 20% bệnh nhân u
phát triển lan vào sàn sọ vào thời điểm bệnh
được chẩn đoán. Thoái lui bệnh 1 cách tự nhiên
thì ít gặp nhưng cũng được quan sát thấy. Liston
(1841), là người đầu tiên thực hiện phẫu thuật cắt
u sợi mạch cho nam thanh niên 21 tuổi. U này có
thể điều trị thành công bằng phẫu thuật hoặc
bằng xạ trị. Có ít dữ liệu cho thấy hóa trị có hiệu
quả. Chủ yếu áp dụng khi cắt u không hoàn toàn
hoặc u tái phát sau xạ trị(1).
Mục tiêu nghiên cứu
Sử dụng ống nội soi trong phẫu thuật cắt u
sợi mạch vòm mũi họng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
3 trường hợp u sợi mạch vòm mũi họng tại
bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ tháng 6/2011-
10/2012.
Phương pháp nghiên cứu
Báo cáo ca lâm sàng.
KẾT QUẢ
Trường hợp 1
Bệnh nhân nam, 22 tuổi, nhập viện vì lồi mắt
bên phải.
Bệnh sử từ 1 năm nay, bệnh nhân phát hiện
nghẹt mũi P tăng dần, có vài lần chảy máu mũi
tự cầm, thỉnh thoảng khạc ra máu. Bệnh nhân đi
khám và điều trị vẫn thấy nghẹt mũi không
giảm. Từ 3 tháng nay, mắt P lồi dần, kèm đỏ mắt.
Bệnh nhân được chụp CT phát hiện có khối u
vùng vòm mũi họng.
Khám lúc vào viện: khối u vòm mũi họng rất
to che lấp toàn bộ vòm và hốc mũi bên phải, khối
u có chân bám rộng ở vùng vòm và phát triển
lên trên vào khe trên,xoang bướm, mật độ khối u
dai chắc. Mắt P lồi, kết mạc mắt cương tụ dãn nở
đặc biệt nhiều ở phần ngoài. Hình ảnh học cho
thấy khối u làm dãn rộng hố chân bướm hàm
bên phải, phát triển vào trong hốc mũi, hố chân
bướm hàm, xâm lấn vào xoang bướm, xâm lấn
ra thành ngoài xoang bướm vào xoang hang và
thần kinh thị giác. Phân loại theo Fish: u sợi
mạch vòm mũi họng giai đoạn IV.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 19
Bệnh nhân được chụp DSA và tắc mạch
trước mổ.
Gây mê hạ huyết áp động mạch xâm lấn,
kiểm soát huyết áp chỉ huy lúc mổ.
Phẫu thuật theo đường cạnh mũi, đục vào hố
lê, mở nắp xương phối hợp với đường rạch khẩu
cái mềm bộc lộ khối u trong hốc mũi và hố chân
bướm hàm. Lấy trọn khối u to 4x5 cm, sau đó
dùng ống nội soi kiểm soát vùng khe trên thấy
còn phần khối u lên khe trên vào xoang bướm và
xoang hang, lấy u qua nội soi ra phần u kích
thước 3x4cm. Máu mất 1500ml, bệnh nhân được
truyền 6 đơn vị máu. Hậu phẫu ổn định, mắt
giảm lồi, giảm cương tụ.
Trường hợp 2
Bệnh nhân nam 12 tuổi, nhập viện vì chảy
máu mũi ồ ạt.
Bệnh sử: bệnh nhân có những đợt chảy máu
mũi bên trái tái đi tái lại từ 1 năm nay, lúc đầu
lượng ít, tự cầm kèm theo triệu chứng nghẹt mũi
ngày càng tăng. Chiều ngày nhập viện, chảy
máu mũi lượng nhiều không cầm được.
Khám thấy có nhiều máu trong hốc mũi, hút
sạch thấy hốc mũi bên trái bị khối u che lấp và
che lấp vòm mũi họng, khối u to phát triển qua
vòm bên phải, che lấp cửa mũi sau bên phải.
Chụp CTScan và MRI cho thấy hình ảnh khối u
tăng sinh mạch máu với thuốc cản quang, chân
bám ở vòm diện rộng, làm dãn rộng lỗ chân
bướm khẩu cái, đẩy phồng thành sau xoang
hàm. Phân loại u giai đoạn I theo hệ thống phân
loại của Fish.
Bệnh nhân được chụp DSA và tắc mạch
trước mổ 2 ngày.
Hạ huyết áp chỉ huy bằng phương pháp
động mạch xâm lấn.
Phẫu thuật được tiến hành hoàn toàn qua nội
soi mũi.
Đặt thuốc co niêm mạc bằng dung dịch
Xylopha 2 mũi.
Chích tê đuôi cuốn mũi giữa bên trái bằng
dung dịch Lidocain 2%- Adrenalin 1/100.000. cắt
toàn bộ khối u bằng dao điện cắt hút Bovie
suction, lấy ra được khối u to khoảng 4x5cm.
Cầm máu kỹ, máu mất khoảng 300ml.
Trường hợp 3
Bệnh nhân nam 16 tuổi, nhập viện vì chảy
máu mũi.
Bệnh sử từ 6 tháng nay, bệnh nhân thấy
nghẹt mũi ngày càng tăng, kèm chảy máu mũi
tái đi tái lại, lúc đầu chảy máu mũi tự cầm, về
sau có 2 lần chảy máu mũi không tự cầm phải
nhập bệnh viện tỉnh.
Khám lúc vào viện, hốc mũi trái có khối u to
mật độ chắc, chạm vào dễ chảy máu, vị trí chân
bám rộng ở vùng vòm mũi họng, làm bít cửa
mũi sau cả 2 bên.
Hình ảnh học cho thấy khối u tăng quang
mạnh sau khi tiêm thuốc cản quang, khối u có 2
phần: phần trong hốc mũi và phần trong hố chân
bướm hàm. Phân loại u giai đoạn II theo hệ
thống phân loại của FISH.
Bệnh nhân được chụp DSA và tắc mạch
trước mổ.
Phẫu thuật được tiến hành qua nội soi mũi.
Sau khi đặt thuốc co niêm mạc và chích tê
niêm mạc cuốn mũi giữa bên trái.
Cắt mỏm móc, mở lỗ thông xoang hàm, mở
vách mũi xoang.
Dùng dao cắt đốt cắt phần chân bám của
khối u ở lỗ bướm khẩu cái và vòm mũi họng, u
phát triển lên trên vào xoang bướm và vào đuôi
cuốn mũi giữa. Lấy ra được u kích thước 4x5 cm.
Rạch niêm mạc thành sau xoang hàm. Dùng
đục bật nắp xương thành sau xoang hàm, tìm
phần khối u ở hố chân bướm hàm. Lấy ra được u
kích thước 2x3 cm.
Máu mất khoảng 250ml.
Đặt surgicel hố mổ. Nhét mèche mũi trước
cầm máu.
Hậu phẫu ổn định.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 20
BÀN LUẬN
Phân loại
Mục đích của việc phân loại khối u là giúp việc phân giai đoạn khối u để xác định có khả năng cắt
khối u hoàn toàn khi phẫu thuật không và có nguy cơ có biến chứng không ?
Bảng 1: Phân giai đoạn u.
Chandler 1984 Sessions 1981 Radkowski 1996 Fish
I: khối u ở vòm mũi họng IA: u giới hạn ở mũi hoặc ở
vòm mũi họng
IB: u lan vào ≥ 1 xoang
IA: u giới hạn ở mũi hoặc vùng
mũi họng
IB: u lan vào 1 hoặc nhiều xoang
I: khối u giới hạn trong vùng mũi
họng, phá hủy xương không
đáng kể hoặc chỉ giới hạn đến
vùng lỗ bướm khẩu cái
II: khối u lan vào hốc mũi
hoặc lan vào xoang
bướm
IIA: u lan rộng tối thiểu vào hố
chân bướm hàm
IIB: U chiếm toàn bộ hố chân
bướm hàm ± kèm theo ăn
mòn xương ổ mắt
IIC: U phát triển vào hố dưới
thái dương ± xâm lấn vào
má
IIA: u lan tối thiểu vào hố chân
bướm hàm
IIB: khối u chiếm hố chân bướm
hàm nhưng không ăn mòn ổ
mắt.
IIC: u phát triển vào hố dưới thái
dương nhưng không xâm
nhập vào vùng má hoặc
mảnh chân bướm
II: khối u phát triển vào hố chân
bướm hoặc phát triển vào trong
xoang hàm, xoang sàng hoặc
xoang bướm có phá hủy xương
III: khối u lan vào xoang
hàm, xoang sàng, hố
chân bướm hàm, ổ
mắt hoặc vùng má
III: u phát triển vào nội sọ III
IIIA: u ăn mòn đáy sọ (hố sọ giữa
hoặc chân bướm)
III B: u ăn mòn đáy sọ kèm lan
rộng vào nội sọ có hoặc
không có tổn thương xoang
hang
III: khối u xâm lấn vào hố dưới thái
dương hoặc ổ mắt
IIIA: không xâm lấn vào nội sọ
IIIB: xâm lấn nội sọ nhưng ở ngoài
màng cứng
IV: u nội sọ IV: u xâm lấn nội sọ trong màng
cứng
IVA: không xâm lấn xoang hang,
hố yên hoặc giao thoa thị
IVB: có xâm lấn xoang hang, hố
yên hoặc giao thoa thị giác
Chúng tôi chọn cách phân loại của Fish vì
cách phân loại này rất chi tiết đến các cấu trúc
giải phẫu quan trọng như xoang hang và giao
thoa thị đặc biệt là đối với khối u ở giai đoạn III
và giai đoạn IV.Phân loại tỷ mỉ giúp thầy thuốc
chọn lựa phương pháp điều trị tối u, kiểm soát u
tại chỗ tối đa, giảm thiểu biến chứng.
Phương pháp điều trị
Hai phương pháp điều trị được nhiều tác giả
ủng hộ nhất ngày nay đứng đầu là phẫu thuật và
kế đến là xạ trị. Phẫu thuật được áp dụng cho đa
số trường hợp. Xạ trị dùng cho những trường
hợp u quá to xâm lấn nội sọ mà không thể phẫu
thuật được.
Hình ảnh học: Hình ảnh chụp CT, MRI có cản
quang là thực sự cần thiết. Không những cung
cấp dấu hiệu đặc trưng của bệnh là dãn rộng lỗ
bướm khẩu cái mà hình ảnh học còn giúp phẫu
thuật viên có hình ảnh vị trí giải phẫu của khối u,
kích thước khối u, mối liên quan của khối u và
các cấu trúc quan trọng như hố chân bướm hàm,
hố dưới thái dương, ổ mắt, thần kinh thị, xoang
hang, dấu hiệu xâm lấn nội sọ (1)
Tắc mạch trước mổ
Chụp mạch máu xoá nền giúp xác định
mạch máu nuôi chính của khối u, thường khối u
được nuôi bởi động mạch hàm trong thuộc động
mạch cảnh ngoài. Cũng có trường hợp u được
nuôi bằng động mạch cảnh trong hoặc động
mạch cảnh chung hoặc động mạch họng lên.
Ngày nay, vai trò quan trọng nhất của chụp
mạch máu xóa nền là tắc mạch trước mổ.
Đã có nhiều báo cáo trong y văn về khả năng
giảm chảy máu trong khi mổ nhờ tắc mạch trước
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 21
mổ(1). Chụp mạch máu kỹ thuật số xóa nền, xác
định mạch máu chính nuôi khối u thường là
động mạch hàm trong và gây tắc mạch trong 2
ngày trước mổ. Có tác giả cho phép thời gian tối
đa là 4 ngày. Hiệu quả của tắc mạch có khả năng
giảm chảy máu khoảng 1000ml. Tuy nhiên có tác
giả lại cho rằng tắc mạch làm khó xác định biên
của khối u chủ yếu khi u xâm lấn sâu vào xương
bướm. Một vài tác giả lại cho rằng tắc mạch đôi
khi không có lợi vì nó làm tăng nguy cơ tái phát
và tắc mạch cũng có tỷ lệ tai biến như mù mắt,
dò mũi miệng do hoặc tử mô, tắc động mạch
võng mạc trung tâm gây giảm thị lực mắt thoáng
qua hoặc tắc động mạch mắt gây mù mắt, tắc
động mạch não giữa gây đột quị(2).
Biến chứng
Hiện tại cả 3 ca mổ không gặp biến chứng
nào, các biến chứng đã được kể đến trong y văn
như chảy dịch não tủy, mù mắt, tắc lệ đạo chúng
tôi chưa gặp. Do số ca mổ chỉ mới có 3 trường
hợp nên vẫn phải nghiên cứu tiếp.
Đường vào
Mục tiêu của điều trị u sợi mạch vòm mũi
họng là phẫu thuật cắt khối u. Do đặc tính chảy
máu của khối u và tính phức tạp của giải phẫu
nền sọ nên phẫu thuật cắt khối u đòi hỏi phải
bộc lộ rõ phẫu trường để thấy rõ khối u và chân
bám của nó. Phẫu thuật đục xương mũi theo
đường ngoài có điểm lợi là tiếp cận được hố mũi,
xoang hàm, xoang sàng và vòm mũi họng. Tuy
nhiên nó để lại sẹo trên mặt và lấy đi 1 phần
xương mũi, xương hố lê, có khả năng làm biến
dạng xương mặt, đặc biệt là ở bệnh nhi xương
mặt chưa phát triển hoàn chỉnh. Đường mổ
ngoài giúp bộc lộ khối u tuy nhiên để lại sẹo mổ
dài và phải đục xương mặt, vì bệnh thường xảy
ra ở tuổi thiếu niên nên phẫu thuật đục xương
mặt ít nhiều có ảnh hưởng đến sự phát triển của
xương sọ mặt. Thông thường sự phát triển của
xương sọ mặt đến ít nhất là 20 tuổi(1). Trước đây,
nếu chân bám của khối u ở vòm mũi họng thì có
thể tiếp cận qua đường xuyên khẩu cái. Tuy
nhiên, nhờ tiếp cận qua nội soi chúng tôi có thể
tiếp cận khối u có chân bám ở vòm hoàn toàn
qua nội soi mũi. Kể cả trường hợp khối u phát
triển vào hố chân bướm hàm, tiếp cận qua nội
soi vẫn có thể thực hiện được bằng cách mở vào
thành sau xoang hàm.
Trong trường hợp khối u quá to phát triển
xâm lấn vào xoang bướm, xoang hang, việc tiếp
cận khối u qua đường phối hợp là cần thiết,
phẫu thuật khối u qua đường mổ ngoài và dùng
nội soi để lấy phần khối u trong xoang bướm(2).
KẾT LUẬN
Phẫu thuật là điều trị chọn lựa đầu tiên đối
với u sợi mạch vòm mũi họng. Mục tiêu của
phẫu thuật là lấy khối u, chọn lựa đường vào
thích hợp để có thể bộc lộ khối u, kiểm soát mất
máu, tăng tính an toàn phẫu thuật. Việc sử dụng
ống nội soi rất hữu ích ngay cả trong những
trường hợp u xâm lấn xoang bướm, xoang hang
và hố châm bướm hàm. Tùy theo độ lớn của
khối u, mà phẫu thuật có thể là đường mổ ngoài
kết hợp với nội soi hoặc phẫu thuật cắt khối u
hoàn toàn qua nội soi mũi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mendenhall WM, Werning JW, Hinerman RW, et al, (2003)
“Juvenile Nasopharyngeal Angiofibroma”, J HK Coll Radiol;
6:15-19
2. Oliveira JAA, Tavares MG, Aguiar CV, et al (2012),
“Comparison between endoscopic and open surgery in 37
patients with nasopharyngeal angiofibroma” Braz J
Otorhinolaryngol 78(1):75-80.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- u_soi_mach_vom_mui_hong_nhan_3_truong_hop_phau_thuat_voi_su.pdf