KẾT LUẬN
Nghiên cứu và phẫu thuật sửa chữa toàn bộ
50 trường hợp tứ chứng Fallot, chúng tôi rút ra
những kết luận như sau:
Lâm sàng
- Bệnh nhân hết tím, không còn mệt, khó thở
khi gắng sức.
- Không còn những cơn tím do thiếu oxy gây
ngất.
- Hết nguy cơ tiềm ẩn có thể gây biến chứng
như tắc mạch, áp-xe não
Cận lâm sàng
- Hồng cầu, Hct, Hb và SaO2 trở về giá trị
bình thường.
- Thay đổi hình thể và huyết động trong tim.
- Kích thước đường ra thất phải đã tăng đủ
để đưa máu từ tim đến phổi, chấm dứt tình
trạng tắc nghẽn đường ra thất phải lâu ngày.
- Chênh áp tối đa tâm thu thất phải-động
mạch phổi giảm dần về giới hạn bình thường.
- Có mối tương quan khá chặt chẽ giữa chỉ số
McGoon với chênh áp tâm thu tối đa thất phải-
động mạch phổi trước mổ.
- Áp dụng chỉ số Mc Goon trong chỉ định
phẫu thuật và tiên lượng sau phẫu thuật.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng chỉ số mac Goon trong định hướng điều trị tứ chứng Fallot, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Ngoại Khoa 1
ỨNG DỤNG CHỈ SỐ MAC GOON
TRONG ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU TRỊ TỨ CHỨNG FALLOT
Lê Thành Khánh Vân*, Phạm Thọ Tuấn Anh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Tứ chứng Fallot thường gặp ở nước ta cũng như trên thế giới, chiếm tỉ lệ 6-15% trong tất cả các
bệnh tim bẩm sinh, 75% các bệnh tim bẩm sinh tím. Nhu cầu điều trị phẫu thuật về bệnh tim bẩm sinh rất lớn và
cấp thiết, trong đó có tứ chứng Fallot. Bệnh nhân sẽ có cuộc sống gần như người bình thường sau khi được phẫu
thuật. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và ứng dụng chỉ số MacGoon trong định hướng và tiên lượng điều trị phẫu
thuật tứ chứng Fallot rất quan trọng và cần thiết.
Phương pháp và kết quả nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu từ 5-2005 5- 2007. Gồm tất cả
bệnh nhân được chẩn đoán xác định tứ chứng Fallot đến khám và điều trị tại khoa Hồi Sức- Phẫu Thuật Tim
Bệnh Viện Chợ Rẫy. * Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu.
Kết quả Tuổi: trung bình: 14,58 ± 7,47 tuổi, nhỏ nhất: 5 tuổi, lớn nhất: 37 tuổi.* Cân nặng: trung bình:
30,98 ± 12 Kg, nhẹ nhất:14 Kg, nặng nhất:54 Kg. * Giới: nam nhiều hơn nữ (2,5/1). Trước mổ, số bệnh nhân
nặng nhiều hơn gấp 1,5 lần so với số bệnh nhân nhẹ dựa theo NYHA. Ngón tay dùi trống biểu hiện 100% BN. 2
bệnh nhân (4%) được phẫu thuật Blalock trước đó. Chúng tôi có 4% trường hợp phải mổ lại vì chảy máu, những
trường hợp này có rối lọan đông máu (TQ kéo dài) trước mổ rất nặng;12% có tràn dịch màng phổi một hoặc 2
bên do tình trạng tăng tính thấm ở mô kẽ; tỷ lệ ử vong 10%.
Kết luận: Tất cả bệnh nhân hết tím, không còn mệt, khó thở khi gắng sức, không còn những cơn tím do
thiếu oxy gây ngất. Xét nghiệm sinh học trở về bình thường. Những dị tật trong tim được sửa chữa.
ABSTRACT
MAC GOON INDEX IN COMPLETE REPAIR OF TETRALOGY OF FALLOT
Le Thanh Khanh Van, Pham Tho Tuan Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 125 - 133
Objective Tetralogy of the Fallot is common in our country and in the world, 6—15% in congenital heart
disease and 75% in cyanosis congenital heart disease. Today, in Vietnam, the necessary and hurry of the operation
for treating congenital heart disease is important include tetralogy of the Fallot. The patients have a good quality
of the life.
Methods and Results: Period of the Study 2005-2007, 50 patients were operated in the open heart surgery
Department, Cho Ray Hospital. Age: mean 14.58 ± 7.47, min: 5 year old, max: 37 year old. Weight: mean: 30.98
± 12 Kg, min:14 Kg, max:54 Kg. Sex:M/F = 2.5/1. Preoperation, severe patient is more than 1.5 times(NYHA),
there are 2 patients were operated Blalock, before. The complication was 4% for bleeding; 12% for fluid in pleural
cavities and 10% mortality.
Conclusion: The patients have no cyanosis ;stop fatigue, dyspnea on exertion. Lab findings is near
normal.All defect in the heart was corrected.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tứ chứng Fallot là bệnh tim bẩm sinh phức
tạp. Bệnh thường có biểu hiện nặng dần theo
tuổi, làm cho trẻ chậm phát triển về tinh thần
và thể chất. Trẻ luôn sống trong tình trạng
thiếu dưỡng khí trầm trọng, có thể bị tử vong
* Khoa Hồi sức – Phẫu thuật Tim, Bệnh viện Chợ Rẫy
Chuyên Đề Ngoại Khoa 2
do cơn thiếu oxy cấp, do viêm nội tâm mạc
nhiễm trùng, do huyết khối mạch máu não, do
áp-xe não
Đối với trẻ sinh ra mang bệnh tứ chứng
Fallot mà không được điều trị bằng phẫu thuật
sớm: 25% tử vong trong năm đầu, 40% tử vong
lúc 3 tuổi, 70% tử vong lúc 10 tuổi và 95% tử
vong lúc 40 tuổi(3). Diễn tiến bệnh lý tự nhiên làm
cho khả năng sống còn, chất lượng sống của
bệnh nhân rất thấp.
Chính vì vậy mà chúng tôi thực hiện nghiên
cứu đề với mục tiêu như sau:
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá kết quả sớm và chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân sau sửa chữa toàn bộ tứ
chứng Fallot tại BV Chợ Rẫy.
Mục tiêu chuyên biệt
- Xác định vai trò của siêu âm và chụp đa lớp
cắt điện toán để chẩn đoán và ứng dụng chỉ số
Mc Goon trong định hướng điều trị tứ chứng
Fallot.
- So sánh trước và sau mổ các thông số về
lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân tứ chứng
Fallot.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Gồm 50 bệnh nhân đã được chẩn đoán xác
định tứ chứng Fallot và mổ sửa chữa toàn bộ với
sự hỗ trợ của máy tim phổi nhân tạo.
Thời gian nghiên cứu: 2005 – 2007
Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu
tiền cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Tứ chứng Fallot có teo ĐM phổi.
- Chỉ số McGoon < 0,5.
Chỉ số McGoon
Chỉ số McGoon = (ĐK ĐMP trái (mm) + ĐK
ĐMP phải (mm))/ ĐK ĐMC ngực xuống (mm)
- ĐK ĐMC ngực xuống đo ngang mức cơ
hoành
- Ở người bình thường chỉ số này từ 1,5 – 2,5.
- Đây là một chỉ số dùng để tiên đoán sau
mổ sửa chữa toàn bộ xem ĐM phổi có đủ rộng
hay đủ khả năng đưa máu lên phổi bình thường
hay không? Nhiều tác giả kết luận rằng nếu chỉ
số McGoon < 1,5 là ĐM phổi nhỏ và tiên lượng
nặng; còn khi chỉ số McGoon < 0,5 thì không có
chỉ định mổ sửa chữa toàn bộ, chỉ có chỉ định mổ
làm một cầu nối tạm thời theo kiểu Blalock để
đợi ĐM phổi phát triển đủ lớn khi đó sẽ tiến
hành lần thứ 2 để mổ sửa chữa toàn bộ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phẫu thuật sửa chữa toàn bộ áp dụng đối với
nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi bao
gồm: vá lỗ thông liên thất và làm rộng đường ra
thất phải. Phương pháp làm rộng đường ra thất
phải là dùng miếng vá bằng màng ngoài tim của
bệnh nhân ngang qua vòng van ĐM phổi 41
bệnh nhân (82%), miếng vá không qua vòng van
ĐM phổi 9 bệnh nhân (18%). Đường mổ vào tim
phần lớn qua đường nhĩ phải và dọc thân ĐM
phổi 36 bệnh nhân (72%) hay qua phần phễu
thất phải 14 bệnh nhân (28%).
Đặc điểm chung của bệnh nhân trước mổ.
Tuổi
Trung bình: 14,58 ± 7,47 tuổi, nhỏ nhất: 5
tuổi, lớn nhất: 37 tuổi.
Cân nặng
Trung bình: 30,98 ± 12 Kg, nhẹ nhất:14 Kg,
nặng nhất:54 Kg.
Bảng 1
Đặc điểm Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất
Tuổi (năm) 14,58 ± 7,47 5 37
Cân nặng (Kg) 30,98 ± 12 14 54
Giới tính
Bảng 2: Phân bố bệnh nhân theo giới.
Giới Tổng số %
Nam 36 72
Nữ 14 28
Tổng 50 100
Nhận xét: Nam nhiều hơn nữ (2,5/1).
Chuyên Đề Ngoại Khoa 3
Đặc điểm lâm sàng trước và sau mổ.
Bảng 3
Trước mổ (N=45) Sau mổ (N=45) Triệu chứng lâm sàng
% %
Cơn thiếu oxy cấp 41 91,11 0 0
Tím nặng 19 42,22 0 0
Tím nhẹ 26 52 0 0
Ngón tay dùi trống 43 95,56
2/6 0 0
3/6 41 91,11
4/6 4 8,89
Âm thổi tâm thu
> 4/6 0 0
I 0 0
II 20 40
III 30 60
NYHA
IV 0 0
Nhận xét:
- Trước mổ, số bệnh nhân nặng nhiều hơn
gấp 1,5 lần so với số bệnh nhân nhẹ dựa theo
NYHA.
- Sau mổ triệu chứng lâm sàng cải thiện rõ
rệt, 100% bệnh nhân hết tím hoàn toàn, không
còn cơn thiếu oxy cấp.
- Ngón tay dùi trống biểu hiện 100% BN
trước mổ.
Đặc điểm cận lâm sàng trước và sau mổ.
Bảng 4
Thông số Trước mổ (N=45) Sau mổ (N=45) p
SLHC
(triệu/mm3) 6,95 ± 1,41 4,65 ± 0,73 < 0,001
Hb (g/dl) 18,382 ± 3,09 12,52 ± 1,53 < 0,001
Hct (%) 55,30 ± 10,30 37,26 ± 4,35 < 0,001
Tiểu cầu 214,476 ± 90,10 142,39 ± 44,34 < 0,001
TQ (%) 75,71 ± 21,38 70,71 ± 14,08 > 0,05
pH 7,35 ± 0,07 7,45 ± 0,05 < 0,001
SaO2(%) 80,32 ±7,30 97,75±2,12 <0,001
Nhận xét: Sự tăng bệnh lý số lượng hồng cầu,
Hemoglobin, Hematocrit và giảm SaO2 trước
mổ, sau mổ có sự trở về giá trị bình thường của
số lượng hồng cầu, Hb, Hct và tăng SaO2 có ý
nghĩa thống kê (p<0,001).
Đặc điểm của thông liên thất.
Bảng 5 Đặc điểm thông liên thất
Thông liên thất
Vị trí Kích thước Chiều shunt Chẩn đoán
Phần màng Dưới van T -> P 2 chiều P -> T
Siêu âm trước mổ (N=50) 48 (96%) 2 (4%) 15,72 ± 4,06 16 (32%) 31 (62%) 3 (6%)
Trong khi mổ (N=50) 50 (100%) 0 (0%) 23,32 ± 5,63
Siêu âm sau mổ (N=45) 5 (11%) 3,2 ± 0,83 5 (100%) 0 0
Nhận xét: Tất cả các bệnh nhân đều có lỗ
thông liên thất rộng, phần màng. Tỉ lệ thông liên
thất tồn lưu là 11%, 100% luồng thông T_P, kích
thước lỗ thông tồn lưu nhỏ.
Đặc điểm của hẹp đường ra thất phải.
Bảng 6 Đặc điểm của hẹp đường ra thất phải trước
và trong mổ
Bất thường giải phẫu Chẩn đoán siêu âm (N=50)
Chẩn đoán
trong mổ
(N=50)
Hẹp thân ĐMP 9 (18%) 0 (0%)
Hẹp van ĐMP 17 (34%) 4 (8%)
Hẹp van ĐMP +
thân 3 (6%) 5 (10%)
Hẹp
đuờng ra
thất (P)
Hẹp phễu+ van+ 21 (42%) 41 (82%)
Bất thường giải phẫu Chẩn đoán siêu âm (N=50)
Chẩn đoán
trong mổ
(N=50)
thân
Dày thất phải 50 (100%) 50 (100%)
Mức độ cưỡi ngựa ĐMC 50,20 ± 13,92 %
Nhận xét:
- Hầu hết các bệnh nhân đều có tổn thương
lan tỏa hẹp kết hợp phần phễu, van và thân đm
phổi; tỉ lệ 82%.
- 100% bệnh nhân có dày thất phải.
- Phần lớn kết quả trong mổ có tổn thương
nặng hơn so với trên siêu âm. Ít gặp tổn thương
tại một vị trí đơn thuần.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 4
Kích thước ĐM phổi và chỉ số McGoon.
Bảng 7: Đặc điểm ĐM phổi (N=50)
Vị trí Kích thước
ĐK thân ĐMP (mm) 18,02 ± 3,94
ĐK ĐMP trái (mm) 11,56 ± 2,56
ĐK ĐMP phải (mm) 11,32 ± 2,47
ĐK ĐMC ngực xuống (mm) 14,1 ± 2,14
Chỉ số McGoon 1,65 ± 0,33
Bảng 8 Chỉ số McGoon trước mổ
Chỉ sô McGoon Số trường hợp (N=50) %
1,5 35 70
< 1,5 15 30
Đường mổ vào tim
Bảng 9 Đường mổ vào tim
Đường mổ Số trường hợp (N=50) %
Qua phần phễu thất phải 14 28
Qua nhĩ phải + ĐM phổi 36 72
Miếng vá qua vòng van đm phổi.
Bảng 10: Miếng vá qua vòng van
Miếng vá Số trường hợp (N=50) %
Qua vòng van ĐM phổi 41 82
Không qua vòng van 9 18
Thời gian THNCT và ngưng tim.
Bảng 11: Thời gian THNCT và ngưng tim (N=50)
Đặc điểm Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất
Thời gian chạy máy
(phút)
124,60 ±
61,63 65 410
Thời gian kẹp ĐMC
(phút) 98,06 ± 43,42 32 293
Những biến chứng sau mổ
Bảng 12
Biến chứng Số trường hợp (N=50) %
Tràn dịch màng phổi (P) 3 6
Tràn dịch màng phổi (T) 2 4
Tràn dịch màng phổi 2 bên 1 2
Chảy máu 2 4
Máu tụ 1 2
Xẹp phổi 1 2
BÀN LUẬN
Lâm sàng trước mổ
Tuổi và giới
Trong nghiên cứu của chúng tôi tuổi bệnh
nhân rất đa dạng, trung bình: 14,58 ± 7,47, nhỏ
nhất: 5 tuổi, lớn nhất: 37 tuổi. Rất nhiều nghiên
cứu đã khẳng định bệnh nhân được phẫu thuật
càng sớm càng tốt vì những ích lợi sau đây: sự
tăng trưởng và phát triển của tất cả cơ quan bình
thường, tránh tình trạng không đủ oxy máu lâu
ngày, ít khi cần thiết xẻ rộng cơ thành thất phải
khi mổ, chức năng thất trái về sau tốt hơn và tỉ lệ
bị rối loạn nhịp muộn vì thế cũng ít hơn. Theo
tác giả Kirklin, bệnh nhân tứ chứng Fallot lớn
tuổi là một yếu tố nguy cơ tử vong sớm, cũng
như tử vong muộn sau phẫu thuật do hậu quả
có hại và không thể phục hồi được của phì đại
thất phải lâu ngày, do thiếu oxy mạn tính đến
cấu trúc của tim và các cơ quan đích khác như
thận... Phì đại thất phải của các bệnh nhân tứ
chứng Fallot bắt đầu ngay sau khi sinh, tiếp tục
tăng theo tuổi và không thể phục hồi được vào
lúc 4 tuổi. Theo tác giả Kirklin, tuổi khi tiến hành
phẫu thuật sửa chữa toàn bộ lớn hơn 5 tuổi là
một yếu tố nguy cơ tử vong sau mổ(3,4).
Tại Việt Nam, trong giai đoạn hiện tại, vì
những điều kiện khách quan khác nhau mà số
bệnh nhân tứ chứng Fallot được chẩn đoán rất
muộn hay đến bệnh viện để điều trị ở tuổi khá
lớn. Điều đó bao hàm nhiều khó khăn và nguy
cơ khi phẫu thuật.
Về giới, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
nam > nữ với tỉ lệ 72% nam, 28% nữ (2,5/1).
Kết quả này trùng hợp với kết luận của nhiều
tác giả khác.
Phần lớn bệnh nhân đến với chúng tôi
trong tình trạng nặng: NYHA III 60%, NYHA
II 40%.Tuổi lớn, một số trường hợp trong tiền
sử có biến chứng; nghĩa là bệnh nhân được
phẫu thuật trong tình trạng nguy cơ cao, nhiều
yếu tố không thuận lợi. Trong nhóm nghiên
cứu của chúng tôi, có 2 bệnh nhân (4%) được
làm shunt tạm thời trước đó (phẫu thuật
Blalock). Ghi nhận này phù hợp với khuynh
hướng ngày nay trên thế giới là phẫu thuật
sửa chữa toàn bộ ngay lần phẫu thuật đầu tiên
cho tất cả trẻ bị tứ chứng Fallot(13,2).
Chỉ số McGoon
Đây là một chỉ số dùng để tiên đoán sau mổ
sửa chữa toàn bộ xem ĐM phổi có đủ rộng hay
Chuyên Đề Ngoại Khoa 5
đủ khả năng đưa máu lên phổi bình thường hay
không? Bởi vì trong trường hợp teo ĐM phổi
hoặc ĐM phổi quá nhỏ, nếu ta mổ đóng lỗ thông
liên thất sẽ gây tình trạng tăng áp lực trong thất
phải dẫn đến suy tim phải cấp. Nhiều tác giả kết
luận rằng nếu chỉ số McGoon < 1,5 là ĐM phổi
nhỏ và tiên lượng nặng; còn khi chỉ số này < 0,5
thì không có chỉ định mổ sửa chữa toàn bộ(11).
Trong những trường hợp McGoon < 0,5 chỉ có
chỉ định mổ làm một cầu nối tạm thời theo kiểu
Blalock để đợi ĐM phổi phát triển đủ lớn khi đó
sẽ tiến hành lần thứ 2 để mổ sửa chữa toàn bộ.
Khả năng cho phép sửa toàn bộ thành công khi
chỉ số này phải > 0,5. Trong kết quả của chúng
tôi ghi nhận chỉ số McGoon trung bình 1,65 ±
0,33 (70% McGoon > 1,5, 30% < 1,5) và không có
bệnh nhân nào có tỷ lệ McGoon < 0,5; nghĩa là
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều
nằm trong giới hạn cho phép để tiến hành sửa
chữa toàn bộ.
Kết quả về siêu âm tim kiểm tra của chúng
tôi cũng tương tự nhận xét của nhiều tác giả
khác: Nguyễn Hữu Ước thấy những trường
hợp tử vong sớm sau mổ đều có chỉ số
McGoon < 1,5(10).
Theo Kirklin một trong những yếu tố nguy
cơ chính gây tử vong sớm sau mổ là kích thước
nhỏ của vòng van, của thân ĐM phổi (3).
Biểu hiện lâm sàng trước và sau mổ
Theo kết quả phân tích về bệnh sử của
bệnh nhân trước mổ cho thấy tím da, niêm
mạc là triệu chứng gặp ở tất cả trẻ bị tứ chứng
Fallot (100%), âm thổi tâm thu cạnh ức (100%),
ngón tay dùi trống (95%), cơn tím thiếu oxy
gây ngất (91%).
Đánh giá tình trạng lâm sàng sau mổ: 100%
bệnh nhân hết tím hoàn toàn, không còn cơn tím
thiếu oxy cấp, bệnh nhân được cải thiện rất rõ rệt
về triệu chứng cơ năng như hết mệt hay khó thở
khi gắng sức, phân loại NYHA thấp hơn so với
trước mổ. Chứng tỏ kết quả sớm sau mổ sửa
chữa toàn bộ rất tốt. Kết quả này của chúng tôi
cũng giống như nhận xét của nhiều tác giả khác
là sau mổ sửa chữa toàn bộ tứ chứng Fallot
thành công thường mang lại cho bệnh nhân một
cuộc sống gần như bình thường, thậm chí nhiều
bệnh nhân sau mổ có thể tham gia các hoạt động
thể thao khác (10, 5).
Kết quả cận lâm sàng trước và sau mổ.
Kết quả của chúng tôi cho thấy rất rõ sự thay
đổi về huyết học xảy ra trước và sau mổ, đa số
bệnh nhân có tình trạng đa hồng cầu: hồng cầu
trung bình 6,95 ± 1,41, Hb: 18,382 ± 3,09, Hct:
55,30 ± 10,30 ; 36% bệnh nhân có dung tích hồng
cầu trên 60% và 8% bệnh nhân có dung tích
hồng cầu trên 70%. Đa hồng cầu cùng với tăng
Hb và Hct đều là hậu quả của sự kém bão hòa
oxy trong máu động mạch, là những yếu tố rất
quan trọng và quyết định để theo dõi tình trạng
tím mãn tính. Khi dung tích hồng cầu > 70%,
nguy cơ bị biến chứng rất cao: thuyên tắc mạch
não, mạch thận, mạch mạc treo hoặc xuất huyết
(1). Khi dung tích hồng cầu > 60% thì độ nhớt của
máu rất cao, làm tăng công của tim và làm tình
trạng tím trở nên trầm trọng hơn do ứ trệ tuần
hoàn. Các hồng cầu đựoc tủy xương tạo ra quá
nhiều không có chất lượng tốt, hồng cầu nhỏ,
nhược sắc. Người ta đã chứng minh được độ
quánh của máu có liên quan đến số lượng hồng
cầu và tốc độ chảy của máu như sau: nơi dòng
chảy thấp thì hồng cầu co cụm với nhau và hậu
quả là độ quánh của máu tăng lên nhanh chóng.
Mặt khác, Hct cao sẽ làm tăng sức cản của dòng
chảy và làm chậm dòng chảy(8).
Theo Kirklin, Hct trước mổ càng cao tức tình
trạng thiếu oxy mô càng nặng, cấu trúc và chức
năng cơ tim càng bị ảnh hưởng; đồng thời sau
khi chạy tuần hoàn ngoài cơ thể dễ bị rối loạn
chức năng tâm thất sau mổ. Nghĩa là Hct trước
mổ càng cao làm tăng nguy cơ tử vong sớm sau
mổ(2,3,4). Tóm lại có thể xem sự tăng cao của số
lượng hồng cầu, Hb và Hct có giá trị giúp đánh
giá mức độ nặng của bệnh.
Độ bão hòa oxy trong máu động mạch của
bệnh nhân trước mổ trung bình 80,32 ±7,30, luôn
thấp hơn bình thường rất nhiều. Bệnh nhân bị tứ
chứng Fallot, do có luồng thông phải-trái qua lỗ
thông liên thất, động mạch chủ cưỡi ngựa lên
Chuyên Đề Ngoại Khoa 6
vách liên thất đưa đến tình trạng một phần máu
từ thất phải vào ĐM chủ tạo thành máu trộn nên
độ bão hòa oxy trong máu động mạch luôn thấp
hơn bình thường ngay cả khi nghỉ ngơi. Khi
gắng sức, độ bão hòa oxy càng giảm xuống
nhanh chóng làm cho bệnh nhân tím rõ hơn và
gây ra cơn tím thiếu oxy cấp. Bởi vì do khi gắng
sức, các mạch máu ngoại biên dãn ra, sức cản
ngoại biên giảm xuống đồng thời với co thắt cơ
phần phễu thất phải làm cho shunt phải-trái
mạnh hơn.
pH trung bình của bệnh nhân đo sau dẫn
đầu 7,35 ± 0,07, trong mức giới hạn dưới của trị
số bình thường, nghĩa là bắt đầu toan nhẹ, nó
phản ảnh tình trạng thiếu oxy mô lâu dài. Trong
khi đó pH trung bình sau mổ 7,45 ± 0,05, trở về
giá trị bình thường, chứng tỏ tình trạng thiếu
oxy mãn tính đã được giải quyết. Sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê (p< 0,001).
Các thông số sinh học như số lượng hồng
cầu, Hb, Hct đều giảm nhanh chóng trở về trị số
bình thường và SaO2 tăng lên nhanh chóng về
giá trị bình thường so với trước mổ với sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Những sự thay đổi về huyết học ngay sau
mổ này rất tương xứng với những thay đổi
nhanh chóng trên lâm sàng. Đó là ngay sau mổ,
bệnh nhân vừa hết tím da- niêm mạc, hết triệu
chứng mệt và khó thở của lúc trước mổ.
Điều này khẳng định kết quả tốt của việc
làm rộng đường ra thất phải và đóng lỗ thông
liên thất giúp cho tim của bệnh nhân hoạt
động như bình thường, chấm dứt tình trạng đa
hồng cầu và giảm độ bão hòa oxy mãn tính
trong máu động.
Thay đổi về hình thể tim trước và sau mổ.
Thông liên thất
Theo kết quả ở bảng 5 chúng tôi thấy thông
liên thất thường gặp nhất là tại vị trí phần màng
chiếm 96% trường hợp, các lỗ thông đều rất lớn
trung bình 15,72 ± 4,061 (mm) khi đo trên siêu
âm. Đối chiếu kết quả này với kết quả ghi nhận
khi mổ cho thấy vị trí mà siêu âm xác định đều
đúng; kích thước lỗ thông đo trực tiếp khi mổ
trung bình là 23,32 ± 5,63 (mm) lớn hơn so với
kết quả siêu âm trước mổ có ý nghĩa thống kê
(p<0,001). Kiểm tra siêu âm ngay sau mổ được
tiến hành ở 45 bệnh nhân đạt kết quả tốt chúng
tôi ghi nhận có 5 trường hợp (11%) vẫn còn tồn
lưu lỗ thông liên thất. Theo các tác giả nước
ngoài tỉ lệ này thay đổi tùy theo từng báo cáo
khoảng 10 – 25%.
Tất cả các trường hợp thông liên thất tồn lưu
của chúng tôi đều có kích thước nhỏ trung bình
3,2 ± 0,83 mm; shunt qua lỗ thông liên thất ở các
bệnh nhân này đều là shunt trái – phải, điều này
cho thấy áp lực thất phải đã giảm xuống nhiều
ngay sau mổ; không ảnh hưởng gì đến huyết
động, không có trường hợp nào cần phải mổ
đóng lại. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng
những lỗ thông tồn lưu sau mổ này không ảnh
hưởng gì đến huyết động và thường tự đóng sau
1 thời gian.
Thay đổi huyết động trước và sau mổ.
Chênh áp tối đa thất phải – ĐM phổi.
Đo chênh áp tối đa thất phải - ĐM phổi bằng
cách sử dụng Doppler liên tục là một phương
pháp rất chính xác để phát hiện và xác định mức
độ hẹp của van ĐM phổi cũng như hẹp tại vị trí
khác của đường ra thất phải. Chênh áp tâm thu
qua vùng phễu và van ĐM phổi phản ánh mức
độ nặng của hẹp vùng phễu và van, chênh áp
càng cao mức độ hẹp càng nặng. Trong nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy chênh áp tối đa tâm
thu trung bình trước mổ là 83,91 ± 20,89 mmHg,
kết quả này cho thấy mức độ hẹp đường ra thất
phải của bệnh nhân Fallot của chúng tôi là rất
nặng. Chênh áp trung bình đo được sau mổ là
23,28 ± 13,38mmHg, thấp hơn rất nhiều so với
trước với sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê (p
< 0,001). Kết quả nghiên cứu cho thấy 66,67%
bệnh nhân được mở rộng đường ra thất phải đạt
kết quả tốt với chênh áp thất phải – ĐM phổi <
25 mmHg, 26,67 % bệnh nhân đạt kết quả trung
bình với chênh áp sau mổ nằm trong khoảng từ
25 – 50 mmHg và 6,67% trường hợp xấu với
chênh áp > 50 mmHg.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 7
Như vậy, đo kết quả chênh áp thất phải –
ĐM phổi sau mổ giảm về giá trị gần như bình
thường đã xác định việc mở rộng đường ra thất
phải bằng miếng vá màng ngoài tim ngang hay
không ngang qua vòng van ĐM phổi là hữu ích
và có kết quả tốt.
Tỉ lệ áp lực thất (P) / thất (T).
Theo Pinsky, tỉ lệ áp lực thất (P)/ thất (T) sau
mổ > 0,65 là một yếu tố nguy cơ của giảm cung
lượng tim nặng và tử vong trong giai đoạn hậu
phẫu sớm (11). Một số tác giả khác như Antunes,
Kaushai chấp nhận tỉ lệ này 0,62 – 0,7 mà vẫn đạt
kết quả tốt, điều quan trọng tỉ lệ áp lực thất (P)/
thất (T) giảm dần có ý nghĩa sau mổ. Theo
Kirklin tỉ lệ áp lực thất (P)/ thất (T) cao sau mổ là
một yếu tố nguy cơ nhưng cần đo tỉ lệ này ở hồi
sức 24 giờ sau mổ và trị số đo vào thời điểm này
mới có ý nghĩa tiên lượng(2). Kết quả của chúng
tôi 0,55 ± 0,16, thấp nhất 0,2, lớn nhất 0,88 là một
kết quả khá tốt, tiên lượng lạc quan, giải quyết
được tình trạng tắc nghẽn đường ra thất phảivà
đóng kín hoàn toàn lỗ thông liên thất.
Miếng vá ngang qua vòng van ĐM phổi.
Theo Kirklin nhận thấy xẻ vòng van không
phải là yếu tố nguy cơ độc lập của tử vong hậu
phẫu sớm(3,4). Nghiên cứu của chúng tôi có 41
bệnh nhân (82%) đặt miếng vá qua vòng van
ĐM phổi, đồng thời cho thấy xẻ vòng van ĐM
phổi không liên quan với giảm cung lượng tim
nặng sau mổ; vì nó rất cần thiết giải quyết tốt
tình trạng tắt nghẽn của đường ra thất phải khi
tổn thương hẹp cả vòng van ĐM phổi, làm giảm
tỉ lệ áp lực thất (P)/ thất (T) sau mổ và dễ thực
hiện ở những trung tâm bắt đầu phẫu thuật.
Việc sử dụng miếng vá màng ngoài tim qua
vòng van động mạch phổi có thể ngăn ngừa các
biến chứng quan trọng của hẹp đường ra thất
phải tồn lưu sau phẫu thuật sửa chữa toàn bộ tứ
chứng Fallot vì các bệnh nhân này đã phải chịu
đựng sự tăng áp lực thất phải kéo dài(9). Ngoài ra
nó không làm gia tăng tỉ lệ tử vong hay hở van
động mạch phổi đáng kể sau phẫu thuật. Tuy
nhiên Klinner và Nollert cho rằng xẻ vòng van
ĐM phổi là một yếu tố nguy cơ của tử vong hậu
phẫu sớm(6).
Đường mở vào tim.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi số bệnh
nhân mở vào tim qua đường nhĩ phải và động
mạch phổi 36 bệnh nhân (72%) cao hơn số
bệnh nhân mở qua phần phễu thất phải 14
bệnh nhân (28%).
Nhiều tác giả nhận xét rằng đường mở tim
không qua phần phễu thất phải nghĩa là không
cắt cơ thất phải sẽ hạn chế tình trạng giảm co
bóp thất phải, giảm rối loạn nhịp thất, từ đó
hạn chế tình trạng giảm cung lượng tim nặng
sau mổ.
Thời gian THNCT
Trong tứ chứng Fallot nói riêng và tim bẩm
sinh tím nói chung có màng mao mạch phổi bất
thường nên rất nhạy đối với tác động bất lợi sau
THNCT. Hậu phẫu các bệnh nhân này thường
có hiện tượng thoát dịch từ nội mạch vào mô kẽ,
khoang màng phổi, màng bụng. Trên tâm thất
phải phì đại, phù cơ tim và miếng vá màng
ngoài cứng nhắc dùng làm rộng đường ra thất
phải càng làm suy giảm chức năng thất phải (12).
Cho nên thời gian THNCT kéo dài sẽ làm nặng
thêm tình trạng bệnh nhân tại hồi sức. Thời gian
THNCT trung bình của chúng tôi: 124,60 ± 61,63
(phút) (chúng tôi có 2 bệnh nhân phải chạy
THNCT trước để tìm và cột Shunt tạm trước
ngưng tim). Tác giả Phạm Nguyễn Vinh nhận
xét thời gian THNCT > 105 phút trong 24 giờ
đầu sau mổ cần theo dõi sát cân bằng xuất nhập,
dùng lợi tiểu một cách có hệ thống để tạo cân
bằng tránh phù mô kẽ và bù thể tích tuần hoàn
bằng các dung dịch giữ được lâu trong lòng
mạch, nếu có suy thận cấp, giảm cung lượng tim
nặng thì cần phải làm thẩm phân phúc mạc hay
chạy thận nhân tạo sớm để tránh hiện tượng ứ
nước phù mô kẽ(12).
Thời gian nằm hồi sức
Thời gian nằm hồi sức phản ánh sự thuận lợi
của diễn tiến bệnh, chúng ta hạn chế những
nguy cơ không từ bệnh nhân như: thời gian
Chuyên Đề Ngoại Khoa 8
THNCT và kẹp ĐM chủ ngắn, không pha loãng
nước quá nhiều khi chạy máy, mở rộng đường
ra thất phải hợp lý sẽ là tiền đề cho việc hồi sức
nhẹ nhàng, bệnh nhân mau hồi phục và rút ngắn
tối đa thời gian nằm hồi sức, tránh được nhiều
biến chứng đang đe dọa bệnh nhân. Thời gian
nằm hồi sức trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi 2,49 ± 1,67 ngày.
Vấn đề không thuận lợi sau mổ
Chúng tôi có 4% trường hợp phải mổ lại vì
chảy máu, những trường hợp này có rối lọan
đông máu (TQ kéo dài) trước mổ rất nặng nên
việc phục hồi ngay sau mổ chậm. Tuy nhiên
kết quả này vẫn thấp hơn so với nhiều nghiên
cứu khác(14).
Có 12% có tràn dịch màng phổi một hoặc 2
bên do tình trạng tăng tính thấm ở mô kẽ, điều
trị chủ yếu bằng chọc hút dịch màng phổi và lợi
tiểu. Đặc biệt 1 trường hợp có máu tụ ngòai
màng cứng mãn tính, phát hiện kịp thời tại hồi
sức tích cực và được mổ lấy máu tụ, bệnh nhân
hồi phục tốt.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu và phẫu thuật sửa chữa toàn bộ
50 trường hợp tứ chứng Fallot, chúng tôi rút ra
những kết luận như sau:
Lâm sàng
- Bệnh nhân hết tím, không còn mệt, khó thở
khi gắng sức.
- Không còn những cơn tím do thiếu oxy gây
ngất.
- Hết nguy cơ tiềm ẩn có thể gây biến chứng
như tắc mạch, áp-xe não
Cận lâm sàng
- Hồng cầu, Hct, Hb và SaO2 trở về giá trị
bình thường.
- Thay đổi hình thể và huyết động trong tim.
- Kích thước đường ra thất phải đã tăng đủ
để đưa máu từ tim đến phổi, chấm dứt tình
trạng tắc nghẽn đường ra thất phải lâu ngày.
- Chênh áp tối đa tâm thu thất phải-động
mạch phổi giảm dần về giới hạn bình thường.
- Có mối tương quan khá chặt chẽ giữa chỉ số
McGoon với chênh áp tâm thu tối đa thất phải-
động mạch phổi trước mổ.
- Áp dụng chỉ số Mc Goon trong chỉ định
phẫu thuật và tiên lượng sau phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Castaneda AR. (1994), “Tetralogy of Fallot”, Cardiac Surgery of
the Neonate and Infant, WB. Saunders Company, U.S.A, Vol. 1
(13), pp. 215-234.
2. Cullen S, Shore D, Redington A, (1995), “Characterization Of
Right Ventricular Diastolic Performance After Complete
Repair Of Tetralogy Of The Fallot:Respective Physiology
Predicts Slow Postoperative Recovery”, Circulation, 91,
pp:1782-1789.
3. Duncan BW. and Mee RBB., (2005), “Tetralogy of Fallot with
Pulmonary Stenosis”, Sabiston & Spencer - Surgery of the Chest,
Elsevier Saunders, seventh edition, U.S.A, Vol. 2, (114), pp.
2013-2034.
4. Giannopolos N., Chatzis AA., Karros P., et al, (2002), “Early
results after transatrial/ transpulmonary repair of tetralogy of
Fallot”, European Journal of Cardio-thoracic-Surgery, 22, pp. 582-
586.
5. Hizschand JC. Bove EL., (2003), “Tetralogy of Fallot”,
Mavroudis - Pediatric Cardiac Surgery, Mosby Elsevier, third
edition, U.S.A, (23), pp. 383-397.
6. Hoffman J., (1996), “Tetralogy of Fallot”, In: Rudolph’s
Pediatrics, 20th Ed. By Rudolph M, Hoffman J.IE, Rudolph D.
Appleton & Lange, pp. 1493 – 1502.
7. Kenneth G., Peter J., Stuart A., (1988), “Long term valvular
function after total repair of tetralogy of Fallot”, Circulation,
78 (5), pp. III-14-19.
8. Kirklin JW. (1993), “Anatomy, Dimensions and
Terminology”, Cardiac Surgery, Churchill Livingstone, second
edition, U.S.A, Vol. 1, (1), pp. 3 – 60.
9. Kirklin JW., Barratt BBG (1993), “Ventricular Septal Defect
and Pulmonary Stenosis or Atresia”, Cardiac Surgery,
Churchill Livingstone, second edition, U.S.A, Vol. 2, (23), pp.
861-1012.
10. Nguyễn Hữu Ước, Đặng Hanh Đệ (2001), “Kết quả ban đầu
của phẫu thuật sửa toàn bộ bệnh Fallot ở trẻ lớn”, Tạp chí tim
mạch học Việt Nam, (28), tr. 46 - 54.
11. Nollert G, Fischlein T, Bouterwek S, Bohmer C, Klinner W,
Reichart B, (1997), “Long-term survival in patients with repair
of tetralogy of Fallot: 36-year follow-up of 490 survivors of the
first year after surgical repair”, J Am Coll Cardiol, 30, pp:1374–
1383.
12. Phạm Nguyễn Vinh, Hồ Quang Trí (2002), “Khảo sát các yếu
tố nguy cơ của giảm cung lượng tim nặng sau phẫu thuật sửa
chữa triệt để tứ chứng Fallot”, Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 6
(phụ bản số 1), tr. 25-29.
13. Phan Hùng Việt (2005), “Đánh giá biến đổi sớm về hình thể
và huyết động của tim sau mổ điều trị triệt để tứ chứng Fallot
bằng siêu âm Doppler tim”, Luận án tiến sĩ y học, Hà Nội 2005.
14. Phan Kim Phương và cộng sự (1996), “Kết quả phẫu thuật
triệt để tứ chứng Fallot ghi nhận trên 240 trường hợp tại Viện
Tim TP.HCM”, Tóm tắt nội dung hội nghị tim mạch Việt-
Pháp lần thứ 2, Hà Nội, tr:117-118.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 9
15. Pinsky WW, Arciniegas E, (1990), “Tetralogy Of The Fallot”,
Ped Clin North America, 37, pp:179-192.
16. Pozzi M., Trivedi D., Kitchiner D., (2000), “Tetralogy of Fallot:
what operation, at which age”, Eur Cardiothorac Surg, 17 (6),
pp. 631 – 636.
17. Roderic H, (1996), “Neonatal polycythemia”, In: Rudolph’s
Pediatrics, 20th Ed. By Rudolph M, Hoffman J.IE, Rudolph D.
Appleton & Lange, pp. 252-255.
18. Schamberger MS, Hurwitz RA, (2000), “Course of right and
left ventricular function in patients with pulmonary
insufficiency after repair of Tetralogy of Fallot”, Pediatr
Cardiol, 21 (3), pp. 244-248.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 10
Chuyên Đề Ngoại Khoa 11
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_dung_chi_so_mac_goon_trong_dinh_huong_dieu_tri_tu_chung.pdf