Hạn chế và khắc phục các thuộc tính tiêu cực của điểm đến:
Tăng cường bố trí lực lượng hướng dẫn tại các điểm du lịch, nhất là vào mùa cao điểm
để tránh tình trạng chen lấn, xô đẩy trong khu vực tham quan.
Tăng cường lực lượng bảo vệ ở các điểm du lịch để ngăn chặn, xử lý triệt để tình trạng
đeo bám, bán hàng rong tại các điểm du lịch.
Xây dựng thêm một số bãi đỗ xe, cấm xe có trọng tải lớn vào trung tâm thành phố nhằm
giảm thiểu tình trạng kẹt xe, ùn tắc giao thông.
Xây dựng trung tâm dịch vụ y tế chất lượng đủ năng lực đáp ứng yêu cầu khám chữa
bệnh của du khách quốc tế.
Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống nhà vệ sinh công cộng đạt chuẩn ở khu vực di tích,
công viên, phố cổ. Đặc biệt, cần ghi chú vị trí của hệ thống vệ sinh công cộng vào các biển chỉ
dẫn đường, các bản đồ du lịch được cung cấp bởi các cơ sở du lịch, nhằm tạo sự thuận tiện
cho du khách.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức, cá nhân trong việc chấp
hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Đặc biệt, cần thực hiện các chế tài
nghiêm khắc đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, chính quyền địa phương
cần tiếp tục duy trì và đẩy mạnh triển khai các mô hình về quản lý chất thải rắn như: “Phân
loại rác thải tại nguồn”, “Nói không với túi nylon”, “Sản xuất phân compost tại hộ gia đình”,
“Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường”, “Giáo dục
môi trường trong học đường”, “Hội Phụ nữ thu gom phế liệu”, “Hội Nông dân với rác thải đồng
ruộng”,. Đây là những mô hình thiết thực góp phần nâng cao ý thức của cộng đồng trong
bảo vệ môi trường.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 311 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng mô hình Holsat để đánh giá sự hài lòng của khách du lịch quốc tế tại điểm đến Hội An, tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 05 (61) - 2019 61
Lê Thị Thanh Xuân
Khoa Du lịch, Đại học Huế
Hoàng Thị Thu Hương
Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ
Email liên hệ: lethanhxuankh@gmail.com
Ứng dụng mô hình Holsat để đánh giá sự hài lòng
của khách du lịch quốc tế tại điểm đến Hội An, tỉnh Quảng Nam
Tóm tắt: Nghiên cứu sử dụng mô hình HOLSAT để đánh giá sự hài lòng của khách du
lịch quốc tế tại điểm đến Hội An thông qua bộ dữ liệu được khảo sát từ 205 du khách. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra 33 thuộc tính (25 thuộc tính tích cực và 8 thuộc tính tiêu cực) của sự hài lòng
của du khách quốc tế đối với điểm đến Hội An. Kết quả nghiên cứu này cho phép chúng tôi
gợi mở một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao sự hài lòng của khách du lịch quốc tế đối với
điểm đến Hội An trong thời gian tới.
Từ khóa: Sự hài lòng; Du lịch; Kỳ nghỉ; Khách quốc tế; Mô hình HOLSAT; Hội An.
Abstract: The study applied HOLSAT model to assess international tourists’ satisfaction
at Hoi An destination through a set of survey data from 205 international tourists. The results
show 33 attributes (25 positive attributes and 8 negative attributes) in evaluating international
tourists’ satisfaction at Hoi An destination. The results from this research allow us to suggest
policy implications to improve the satisfaction of international tourists towards the destination
of Hoi An in the near future.
Keyword: Satisfaction; Tourism; Holidays; International travelers; HOLSAT model; Hoi An.
Ngày nhận bài: 6/9 /2019 Ngày duyệt đăng: 25/10/2019
1. Đặt vấn đề
Hội An là đô thị cổ nằm ven bờ sông Thu Bồn thuộc tỉnh Quảng Nam, là một trong năm
di sản văn hóa vật thể thế giới của Việt Nam. Nằm ở hạ lưu ngã ba sông Thu Bồn thuộc vùng
đồng bằng ven biển, Hội An có hệ sinh thái vô cùng đa dạng, gồm các bãi sậy, cồn cát, rừng
ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô, quần cư rong biển, rừng tự nhiên Cù Lao Chàm,... Bên
cạnh đó, Hội An còn lưu giữ các di sản văn hóa vật thể (hệ thống nhà cổ, hội quán, đình, đền,
chùa, nhà thờ tộc,...) và phi vật thể (nghề làm đèn lồng, nghề mộc Kim Bồng, hát bả chạo, hát
bài chòi,...) có giá trị (Thanh Hải, 2015). Đây là tiềm năng to lớn giúp Hội An phát triển ngành
du lịch lên tầm quốc tế.
Thời gian qua, Hội An đã trở thành điểm đến ưa thích của du khách trong và ngoài nước.
Năm 2017, Hội An đón 3,3 triệu lượt du khách, tăng gấp 2 lần so với năm 2013, đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân giai đoạn 2013 - 2017 là 118,97%. Trong đó, lượng khách quốc tế tăng gấp
2,4 lần, tốc độ phát triển bình quân 5 năm (2013-2017) đạt 123,66%. Riêng 9 tháng đầu năm
62 Lê Thị Thanh Xuân & Hoàng Thị Thu Hương
2018, lượng khách đến Hội An đạt 4,55 triệu lượt, tăng 76,84% so với cùng kỳ năm trước. Trong
đó, tổng lượng khách quốc tế đạt 3,4 triệu lượt, tăng 42,83% so với cùng kỳ năm trước (Vĩnh
Lộc, 2018). Điều này cũng cho thấy rằng, Hội An là điểm đến có sức hút lớn đối với du khách
quốc tế.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nổi bật trong phát triển du lịch, điểm đến Hội An
vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần giải quyết như tình trạng bán hàng rong, chèo kéo khách,
bán phá giá, bắt chẹt du khách, vệ sinh môi trường, an toàn cho du khách, Do vậy, cần thiết
nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch của Hội An, nâng cao sự thỏa mãn, hài lòng của du khách,
nhất là du khách quốc tế là điều hết sức cấp thiết. Sử dụng mô hình HOLSAT, nghiên cứu này
tập trung đánh giá sự hài lòng của khách du lịch quốc tế đối với điểm đến Hội An, từ đó rút ra
một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao sự hài lòng của du khách quốc tế đối với điểm đến
Hội An trong thời gian đến.
2. Khung phân tích về sự hài lòng của du khách đối với điểm đến du lịch
2.1. Điểm đến du lịch
Tổ chức Du lịch Thế giới (UN-WTO) đã đưa ra quan niệm về điểm đến du lịch (Tourism
Destination), theo đó “Điểm đến du lịch là vùng không gian địa lý mà khách du lịch ở lại ít nhất
một đêm, bao gồm các sản phẩm du lịch, các dịch vụ cung cấp, các tài nguyên du lịch thu hút
khách, có ranh giới hành chính để quản lý và có sự nhận diện về hình ảnh để xác định khả
năng cạnh tranh trên thị trường”. Crouch và Ritchie (2003) quan niệm rằng, “Điểm đến du lịch
là một khu vực địa lý cụ thể, trong đó khách du lịch thích nhiều trải nghiệm du lịch khác nhau”.
Nguyễn Văn Mạnh và Nguyễn Đình Hòa (2008) cho rằng: “Điểm đến du lịch là một địa điểm
mà chúng ta có thể cảm nhận được bằng đường biên giới về địa lý, đường biên giới về chính
trị hay đường biên giới về kinh tế, có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút và đáp
ứng được nhu cầu của khách du lịch”.
Tóm lại, điểm đến du lịch được xem như là sự kết hợp của những yếu tố hấp dẫn, khả
năng tiếp cận, cơ sở vật chất và tiện nghi, cũng như các hoạt động và dịch vụ bổ trợ.
2.2. Hình ảnh điểm đến du lịch
Crompton (1979) quan niệm rằng, “Hình ảnh của điểm đến du lịch là sự kết hợp các ý
niệm, niềm tin, ấn tượng và nhận thức của khách hàng về điểm du lịch. Do vậy, nó là yếu tố
cơ bản tác động đến ứng xử mà người dân và du khách thể hiện đối với điểm đến. Tuy nhiên,
hình ảnh điểm đến không xuất hiện một cách nhất thời, rời rạc, chủ quan, giống như cảm
nhận ban đầu với các thông tin nhận được về sản phẩm cụ thể”. Gunn (2002) cho rằng, “Hình
ảnh điểm đến phát triển ở hai mức độ là hình ảnh vật chất và hình ảnh cảm nhận. Hình ảnh vật
chất là hình ảnh có thể truyền đạt, giao tiếp marketing và hình ảnh cảm nhận lại có được từ
những sự kiện, biểu tượng và quảng cáo của các tổ chức và nhà kinh doanh du lịch”. Trong khi
đó, Echtner và Ritchie (2003) quan niệm rằng, “Hình ảnh của điểm đến du lịch được định nghĩa
không chỉ là những cảm nhận về các thuộc tính của điểm đến mà còn là những ấn tượng tổng
thể mà điểm đến mang lại. Hình ảnh điểm đến bao gồm các đặc điểm mang tính chức năng,
liên quan đến những yếu tố hữu hình của điểm đến và các đặc điểm mang tính tâm lý liên
quan đến những yếu tố hữu hình của điểm đến và các đặc điểm mang tính tâm lý liên quan
đến những yếu tố vô hình. Hơn nữa, những hình ảnh của điểm đến nên sắp xếp một cách liên
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 05 (61) - 2019 63
tục trên một dãy từ các yếu tố phổ biến của hầu hết điểm đến cho đến các yếu tố độc đáo chỉ có
ở điểm đến đó”.
Có thể khẳng định rằng, hình ảnh điểm đến là sự nhận thức, hiểu biết tổng hợp về các
sản phẩm và tài nguyên du lịch của điểm đến, được hình thành qua thời gian và quá trình xử
lý từ nhiều nguồn thông tin khác nhau của du khách.
2.3. Sự hài lòng của du khách
Pizam và cộng sự (1978) xác định, “Sự hài lòng của du khách như là kết quả của sự so
sánh giữa trải nghiệm của du khách tại các điểm du lịch đã đến và những kỳ vọng của họ về
các điểm đến”. Moutinho (1987) lưu ý rằng, cảm nhận sau khi mua chủ yếu là một chức năng
của kỳ vọng tiền du lịch và trải nghiệm đi du lịch. Nghiên cứu này sử dụng khái niệm sự hài
lòng của Cadotte và cộng sự (1982) khi cho rằng “Sự hài lòng là sự so sánh của những kỳ vọng
với những trải nghiệm”
2.4. Tổng quan về mô hình HOLSAT
HOLSAT (Holiday Satisfaction) là một mô hình tương đối mới đề cập đến sự phức tạp
của việc đo lường mức độ hài lòng của du khách đối với một điểm đến. Tribe và Snaith (1998)
phát triển mô hình HOLSAT và ứng dụng nó để đánh giá sự hài lòng của kỳ nghỉ tại khu nghỉ
mát nổi tiếng của Varadero, Cuba. Đặc trưng chính của công cụ HOLSAT là khả năng đo lường
sự hài lòng của khách du lịch với trải nghiệm về kỳ nghỉ của họ tại một điểm đến hơn là một
nhà cung cấp dịch vụ cụ thể (như là một khách sạn).
Tribe và Snaith (1998) cho rằng mỗi điểm đến du lịch có nét độc đáo riêng. Điều này cho
phép thiết lập các thuộc tính điểm đến mang đặc trưng riêng thay vì bị áp đặt sẵn như trong
các mô hình khác. Cả hai thuộc tính tích cực và tiêu cực được sử dụng đồng thời trong mô
hình. Thuộc tính tích cực là các điểm truyền tải các ấn tượng tốt về điểm đến du lịch và thuộc
tính tiêu cực thì trái ngược. Như vậy, có thể xác định một điểm đến với một kết hợp của cả hai
loại thuộc tính. Nét đặc biệt của mô hình là thiết kế bảng câu hỏi trong đó người trả lời được
yêu cầu đánh giá mức kỳ vọng của mỗi thuộc tính kỳ nghỉ và đánh giá cảm nhận hoặc sự trải
nghiệm trên cùng một bộ thuộc tính tiếp sau những trải nghiệm về kỳ nghỉ. Một thang đo
Likert (5 mức độ) được sử dụng để cho điểm từng thuộc tính ở cả hai trạng thái thuộc tính.
Sự chênh lệch về điểm số giữa “kỳ vọng” và “cảm nhận” đối với từng thuộc tính mang lại sự đo
lường định lượng về mức độ hài lòng của du khách.
Các kết quả được trình bày trên một ma trận, theo đó điểm của cả thuộc tính tích cực và
tiêu cực sẽ được biểu diễn trên các ma trận riêng biệt với Cảm nhận (trục X) và Kỳ vọng (trục
Y). Các vùng “Được” và “Mất” được phân định bởi “Đường vẽ” - là đường chéo 45 độ. “Được” đại
diện cho những thuộc tính mà kỳ vọng của du khách được đáp ứng hoặc vượt quá, “Mất” miêu
tả cho trường hợp mà những mong đợi của du khách không được đáp ứng và “Đường vẽ” đưa
ra một kết hợp chặt chẽ giữa những mong đợi và cảm nhận của du khách. Tùy theo tính chất
tích cực hay tiêu cực của các thuộc tính mà các vùng “Được”, “Mất” nằm ở trên bên trái hoặc ở
dưới bên phải của “Đường vẽ”. Đối với mỗi thuộc tính, khoảng cách giữa các điểm được vẽ và
“Đường vẽ” càng xa thì mức độ hài lòng hoặc không hài lòng theo cảm nhận của các du khách
càng lớn. Trong trường hợp điểm nằm trực tiếp trên “Đường vẽ”, cảm nhận của khách du lịch
trùng với mong đợi của họ, do đó đã đạt được sự hài lòng.
64 Lê Thị Thanh Xuân & Hoàng Thị Thu Hương
Hình 1: Mô hình HOLSAT
Nguồn: Tribe và Snaith (1998)
3. Xây dựng mô hình nghiên cứu HOLSAT và mô tả dữ liệu
Theo Trible và Snaith (1998), các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách du lịch
gồm các thuộc tính thuộc các biến số chung như sau: Tài nguyên và điều kiện vật chất kỹ
thuật, môi trường, tham quan - ăn uống - vui chơi giải trí, sự di chuyển, di sản và văn hóa, chỗ
ở. Trên cơ sở khung phân tích trên, các tác giả đã sử dụng mô hình HOLSAT nhằm nghiên cứu
sự hài lòng của du khách về kỳ nghỉ tại khu nghỉ mát nổi tiếng của Varadero - Cu Ba. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra có 56 thuộc tính gồm 49 thuộc tính tích cực và 7 thuộc tính tiêu cực. Trương
Thúy Hường và David Foster (2006) đã sử dụng mô hình HOLSAT để đo lường sự hài lòng của
du khách Úc đối với điểm đến Việt Nam với 33 thuộc tính (26 thuộc tính tích cực và 7 thuộc
tính tiêu cực). Võ Lê Hạnh Thi (2010) cũng ứng dụng mô hình HOLSAT để đánh giá sự hài lòng
của khách du lịch quốc tế tại điểm đến thành phố Đà Nẵng với 35 thuộc tính (25 thuộc tính
tích cực và 10 thuộc tính tiêu cực).
Như vậy, mô hình HOLSAT không sử dụng một cách cứng nhắc các thuộc tính cố định
chung cho tất cả các điểm đến. Thay vào đó, một bộ thuộc tính đặc thù được tạo ra để đảm
bảo rằng những điều thích hợp nhất đang được xem xét tại điểm đến cụ thể để đo lường sự
hài lòng của khách du lịch (Trương Thúy Hường và David Foster, 2006). Nói cách khác, các
thuộc tính của điểm đến Hội An sẽ có sự khác biệt so với các thuộc tính của điểm đến Việt
Nam hay Đà Nẵng. Nghiên cứu này sử dụng mô hình HOLSAT để đánh giá sự hài lòng của du
khách quốc tế tại điểm đến Hội An với 33 thuộc tính, gồm 25 thuộc tính tích cực và 8 thuộc
tính tiêu cực.
Số liệu sơ cấp sử dụng trong nghiên cứu được thu thập bằng bảng hỏi thông qua
phương pháp chọn mẫu thuận tiện tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Hair và cộng sự
(1998) nhận định kích thước mẫu tối thiểu phải gấp 5 lần tổng số biến quan sát. Do vậy, quy
mô mẫu điều tra tối thiểu của nghiên cứu là 165 quan sát (5 * 33). Để đảm bảo yêu cầu về giới
hạn tối thiểu 20%, nghiên cứu tiến hành điều tra với quy mô mẫu là 220 du khách quốc tế, và
thu về 205 phiếu đạt yêu cầu. Nhìn chung, quy mô mẫu đủ lớn, đảm bảo độ tin cậy cho các
kết quả ước lượng.
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 05 (61) - 2019 65
4. Kết quả phân tích mô hình HOLSAT cho điểm đến Hội An
Bảng 1: Kết quả phân tích thang đo mô hình HOLSAT đối với các thuộc tính
STT Phát biểu về Hội An
Kỳ vọng Cảm nhận (Cảm
nhận
- Kỳ
vọng)
Sigt
N Mean SD N Mean SD
Các thuộc tính tích cực
C6.1 Thời tiết dễ chịu 205 3.77 0.730 205 3.86 0.835 0.09 0.139
C6.2 Kiến trúc đa dạng từ nhiều nền VH 205 3.61 0.730 205 3.80 0.750 0.19 0.002
C6.3 Thư giãn trên bãi biển 205 3.82 0.699 205 3.92 0.794 0.10 0.151
C6.4 Có thể thuê xe đạp hoặc xe mô tô đi ngắm cảnh 205 3.76 0.752 205 4.07 0.779 0.31 0.000
C6.6 Cảm thấy an toàn trong khi du lịch 205 3.63 0.778 205 3.76 0.802 0.13 0.043
C6.9 Hoạt động giải trí vào buổi tối không đơn điệu 205 3.54 0.703 205 3.70 0.774 0.16 0.007
C6.11 Có thể du ngoạn trên thuyền 205 3.49 0.697 205 3.63 0.677 0.14 0.003
C6.12 Có thể tham gia vào lễ hội với người dân đia phương 205 3.52 0.718 205 3.67 0.677 0.15 0.013
C6.13 Đồ ăn thức uống rẻ 205 3.99 0.840 205 3.57 0.708 -0.42 0.000
C6.14
Nhân viện phục vụ tại
điểm tham quan, KS và
NH thân thiên, lịch sự
205 3.80 0.805 205 4.01 0.714 0.21 0.000
C6.15 Có thể du lịch biển đảo và lặn ngắm san hô 205 3.45 0.724 205 3.49 0.725 0.04 0.474
C6.16 Có thể mua các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rẻ 205 3.51 0.718 205 3.63 0.803 0.12 0.059
C6.17 Dễ dàng tham quan các vùng ven biển 205 3.44 0.716 205 3.62 0.774 0.18 0.007
C6.18 CSVC và CSHT tốt và tiện nghi 205 3.56 0.794 205 3.32 0.769 -0.24 0.000
C6.19 Dễ dàng tham quan các hội quán và địa điểm tôn giáo 205 3.52 0.697 205 3.85 0.753 0.33 0.000
C6.20 Dễ dàng đổi tiền và rút tiền tại ngân hàng,ATM 205 3.69 0.714 205 3.80 0.825 0.11 0.070
C6.21
Dễ dàng xem và tham gia
hội bài chòi
205 3.76 0.758 205 4.02 0.763 0.26 0.000
66 Lê Thị Thanh Xuân & Hoàng Thị Thu Hương
C6.22
Nhiều điểm tham quan
các di tích lịch sử
205 3.65 0.807 205 3.84 0.764 0.19 0.003
C6.24 Sử dụng Internet dễ dàng 205 3.83 0.738 205 4.05 0.800 0.22 0.000
C6.25 Người dân thân thiện 205 3.76 0.712 205 3.93 0.704 0.17 0.000
C6.27 Các món ăn đa dạng và hấp dẫn 205 3.72 0.771 205 4.07 0.764 0.35 0.000
C6.28 Mua sắm dễ dàng 205 3.75 0.730 205 4.04 0.753 0.29 0.000
C6.30 Có thể sử dụng phương tiện giao thông địa phương 205 3.90 0.734 205 3.99 0.679 0.09 0.000
C6.31 Có thể tham quan các bảo tang 205 3.65 0.737 205 3.73 0.799 0.08 0.135
C6.32
Dich vụ tại nhà hàng/
khách sạn tốt
205 3.76 0.739 205 4.00 0.738 0.23 0.000
Các thuộc tính tiêu cực
C6.5 Đông đúc tại các điểm du lịch 205 3.61 0.848 205 3.85 0.853 0.24 0.000
C6.7 Các dịch vụ y tế thiếu thốn 205 3.51 0.615 205 3.56 0.794 0.05 0.302
C6.8 Nhiều người bán hàng rong 205 3.41 0.917 205 3.62 0.754 0.21 0.001
C6.10 Thiếu nhà vệ sinh công cộng 205 3.45 0.842 205 3.86 0.744 0.49 0.000
C6.23 Thức ăn vỉa hè không an toàn 205 4.02 0.707 205 3.85 0.772 -0.17 0.007
C6.26 Người bán hàng chèo kéo 205 3.34 0.728 205 3.61 0.710 0.27 0.000
C6.29 Ô nhiễm trong thành phố 205 3.31 0.766 205 3.52 0.732 0.14 0.000
C6.33 Giao thông đông đúc 205 3.52 0.738 205 3.67 0.752 0.15 0.005
(Nguồn: Xử lý số liệu điều tra năm 2018)
4.1. Các thuộc tính tích cực của điểm đến Hội An
Các thuộc tính tích cực của điểm đến là các đặc điểm mang lại các ấn tượng tốt về điểm
đến đó. Kết quả nghiên cứu 25 thuộc tính tích cực của điểm đến Hội An thể hiện trong bảng 1
và được biểu diễn trên ma trận ở hình 2. Kết quả kiểm định t được thể hiện trong bảng 1 cho
thấy 19 trong tổng số 25 thuộc tính tích cực có sự khác biệt giữa cảm nhận và kỳ vọng với mức
ý nghĩa thống kê 5%. Các thuộc tính C6.1, C6.3, C6. 15, C.16, C6.20, C6.31 không có ý nghĩa
thống kê 5% (Sig > 0.05).
Các thuộc tính tích cực có sự chênh lệch giữa cảm nhận và kỳ vọng có giá trị dương lớn
tức là đạt mức độ hài lòng cao: C6.4 (Thuê xe đạp hoặc xe mô tô đi ngắm cảnh), C6.14 (Nhân
viện phục vụ tại điểm tham quan, khách sạn và nhà hàng thân thiện, lịch sự), C6.19 (Tham
quan các hội quán và địa điểm tôn giáo), C6.22 (Xem biểu diễn nghệ thuật cổ truyền Hội An),
C6.27 (Các món ăn đa dạng và hấp dẫn), C6.28 (Mua sắm dễ dàng) và C6.32 (Dịch vụ tại nhà
hàng/khách sạn tốt). Các thuộc tính này đều nằm trên vùng “Được” và cách xa “Đường vẽ”.
Các thuộc tính tích cực có mức kỳ vọng cao nhưng mức cảm nhận thấp chứng tỏ khách
du lịch không đạt được sự hài lòng. Các thuộc tính có mức độ không hài lòng cao đó là: C6.9
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 05 (61) - 2019 67
(Giải trí vào buổi tối không đơn điệu), C6.12 (Thức ăn thức uống rẻ) và C6.17 (Cơ sở vật chất và cơ
sở hạ tầng tốt và tiện nghi). Các thuộc tính này đều nằm trên vùng “Mất” và cách xa “Đường vẽ”.
Hình 2. Ma trận các thuộc tính tích cực của điểm đến Hội An
4.2. Các thuộc tính tiêu cực của điểm đến Hội An
Các thuộc tính tiêu cực của điểm đến là những đặc điểm xấu về điểm đến đó. Du khách
ghé thăm một điểm đến cụ thể với hy vọng có một trải nghiệm thú vị. Tuy nhiên, có thể có
những điều tiêu cực ở điểm đến mà du khách đã nhận thức một cách đầy đủ trước khi bắt đầu
kỳ nghỉ, thừa nhận rằng họ sẽ gặp phải (ví dụ như ô nhiễm, đám đông, ...) và có thể làm giảm
sự hài lòng về tổng thể kỳ nghỉ. Mặc dù một điểm đến có thể có một số thuộc tính tiêu cực, du
khách vẫn có thể thể hiện sự hài lòng với những trải nghiệm của mình nếu vượt quá mong đợi
của họ. Bảng 1 tóm lược về các thuộc tính của sự hài lòng cho thấy, trong số 8 thuộc tính tiêu
cực có 1 thuộc tính C6.7 (Các dịch vụ y tế thiếu thốn) không mang ý nghĩa thống kê ở mức 5%
(Sig >0.05) và 7 trong 8 thuộc tính tiêu cực có sự khác biệt giữa cảm nhận và kỳ vọng với mức
ý nghĩa thống kê 5%. Trong các thuộc tính này, thuộc tính tiêu cực C6.23 (Cẩn thận với thức ăn
vỉa hè) có giá trị chênh lệch giữa cảm nhận và kỳ vọng âm (-0.17). Điều này chỉ ra rằng, khách
du lịch có mức độ hài lòng cao đối với thuộc tính này. Do đó, trên ma trận hình 3, thuộc tính
này được biểu diễn nằm bên vùng “Được” và cách xa “Đường vẽ”. Sự hài lòng này cho thấy, cảm
nhận thực tế tốt hơn so với kỳ vọng ban đầu của du khách quốc tế.
Vì sự chênh lệch giữa cảm nhận và kỳ vọng của 6 thuộc tính lần lượt: C6.5 (Đông đúc
tại các điểm du lịch), C6.8 (Nhiều người bán hàng rong), C6.10 (Thiếu nhà vệ sinh công cộng),
C6.26 (Người bán hàng chèo kéo), C6.29 (Ô nhiễm trong thành phố) và C6.33 (Giao thông
đông đúc) là dương nên cảm nhận thực tế đã không đáp ứng được sự mong đợi của khách du
lịch. Kết quả là có sự giảm sút về mức độ hài lòng và được biểu diễn nằm trong vùng “Mất” và
cách xa “Đường vẽ” của ma trận, thể hiện ở hình 3.
68 Lê Thị Thanh Xuân & Hoàng Thị Thu Hương
Hình 3. Ma trận các thuộc tính tiêu cực của điểm đến Hội An
5. Kết luận và những hàm ý chính sách
Sử dụng mô hình HOLSAT, nghiên cứu này đo lường sự hài lòng của khách du lịch quốc
tế đối với điểm đến Hội An thông qua so sánh giữa cảm nhận với kỳ vọng của du khách về kỳ
nghỉ. Kết quả phân tích cho thấy, những nhân tố đáp ứng được sự hài lòng của khách du lịch
quốc tế gồm: dễ dàng thuê xe đạp hoặc xe mô tô đi ngắm cảnh; nhân viên phục vụ tại điểm
tham quan, khách sạn và nhà hàng thân thiện, lịch sự; tham quan các hội quán và địa điểm tôn
giáo; xem biểu diễn nghệ thuật cổ truyền Hội An; các món ăn đa dạng và hấp dẫn; mua sắm dễ
dàng và dịch vụ tại nhà hàng/khách sạn tốt; người dân thân thiện,... Đó chính là những điểm
mạnh, điểm tích cực cần duy trì để nâng cao sự hài lòng cho du khách quốc tế khi du lịch Hội
An. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng khắc phục các hạn chế làm giảm sự hài lòng của du khách
quốc tế: sự đông đúc tại các điểm du lịch; nhiều người bán hàng rong; thiếu nhà vệ sinh công
cộng; người bán hàng chèo kéo; ô nhiễm trong thành phố; giao thông đông đúc,... Từ kết quả
phân tích mô hình HOLSAT, nghiên cứu này đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao
sự hài lòng của du khách quốc tế đối với điểm đến Hội An như sau:
Duy trì và phát huy các thuộc tính tích cực của điểm đến:
Tiếp tục duy trì và xem xét điều chỉnh khung thời gian đi bộ trong khu phố cổ một cách
hợp lý theo mùa, có thể ngắn hơn vào mùa đông và kéo dài hơn vào mùa hè. Bên cạnh đó, ở
thời điểm chuyển giao giữa khung giờ quy định đi bộ và cho phép các phương tiện động cơ
được vào khu phố cổ, thường xảy ra hiện tượng ách tắc giao thông cục bộ. Do vậy, cần bố trí
tổ điều phối giao thông ở thời điểm này để tránh tình trạng lộn xộn, mất mỹ quan, gây ảnh
hưởng tiêu cực đến hình ảnh điểm đến. Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng đường bộ ở những
tuyến, khu vực bị xuống cấp, chú trọng phân luồng các tuyến lưu thông vào giờ cao điểm.
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 05 (61) - 2019 69
Phân bố và tái phân bố hợp lý các điểm kinh doanh trên các tuyến phố, nhất là các điểm
kinh doanh lưu động. Đưa ra những quy định nghiêm ngặt trong việc trưng bày các sản phẩm
của các hộ kinh doanh, trưng bày đảm bảo không lấn chiếm vỉa hè, không che mờ các di tích,
không làm che khuất những công trình kiến trúc khu phố.
Người dân mến khách là một trong những điểm du khách quốc tế hài lòng về Hội An,
do đó cần thường xuyên vận động, tuyên truyền người dân hành xử thân thiện, vui vẻ với du
khách.
Chính quyền địa phương và các cơ sở dịch vụ du lịch cần tăng cường hơn nữa các biện
pháp để đảm bảo an ninh trật tự trong thành phố. Kiên quyết xử lý nghiêm các tệ nạn móc túi,
trộm cắp, cướp giật tài sản của du khách, nhất là vào mùa cao điểm du lịch.
Các phương tiện đi lại ở địa phương như xe xích lô, xe đạp, thuyền, là những phương
tiện phù hợp để du khách có thể tự do khám phá Hội An. Do vậy, cần tổ chức lại một cách
chuyên nghiệp các đội xe xích lô hoạt động ở Hội An, kiên quyết không để xảy ra tình trạng
giành giật khách du lịch.
Tiếp tục duy trì và phát triển mô hình chợ đêm nhằm cung cấp và quảng bá những sản
phẩm và các món ăn đặc trưng của địa phương và miền Trung đến với du khách quốc tế. Cần
kết hợp triển khai các hoạt động mua sắm, vui chơi giải trí sinh động để tạo được nét đặc
trưng cho khu chợ đêm.
Tăng cường quản lý nhà nước về kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, giá cả của các cơ
sở kinh doanh ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí, nhất là vào dịp lễ hội, vào mùa cao điểm.
Các cơ sở lưu trú cần nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ du khách quốc tế. Chú trọng
cải thiện phong cách phục vụ chuyên nghiệp, thân thiện, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của du
khách nhằm góp phần tạo nên ấn tượng tốt đẹp về điểm đến Hội An.
Nghiên cứu phát triển nghệ thuật Bài chòi với cách thức phù hợp nhằm đáp ứng nhu
cầu du khách quốc tế. Chú trọng sử dụng tiếng Anh vào các hội Bài chòi để thu hút và tương
tác với khách quốc tế. Sưu tầm nhiều nội dung các câu hát sử dụng trong hội Bài chòi mang ý
nghĩa nhân văn và có tính giáo dục cao. Các câu hát được sử dụng nói về tình yêu quê hương
đất nước, ca ngợi tình phụ mẫu, tình phu thê; đề cao những đức tính và phẩm chất tốt đẹp của
con người; phê phán những tệ nạn xã hội, những tập tục lỗi thời, lạc hậu,
Hạn chế và khắc phục các thuộc tính tiêu cực của điểm đến:
Tăng cường bố trí lực lượng hướng dẫn tại các điểm du lịch, nhất là vào mùa cao điểm
để tránh tình trạng chen lấn, xô đẩy trong khu vực tham quan.
Tăng cường lực lượng bảo vệ ở các điểm du lịch để ngăn chặn, xử lý triệt để tình trạng
đeo bám, bán hàng rong tại các điểm du lịch.
Xây dựng thêm một số bãi đỗ xe, cấm xe có trọng tải lớn vào trung tâm thành phố nhằm
giảm thiểu tình trạng kẹt xe, ùn tắc giao thông.
Xây dựng trung tâm dịch vụ y tế chất lượng đủ năng lực đáp ứng yêu cầu khám chữa
bệnh của du khách quốc tế.
Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống nhà vệ sinh công cộng đạt chuẩn ở khu vực di tích,
công viên, phố cổ. Đặc biệt, cần ghi chú vị trí của hệ thống vệ sinh công cộng vào các biển chỉ
70 Lê Thị Thanh Xuân & Hoàng Thị Thu Hương
dẫn đường, các bản đồ du lịch được cung cấp bởi các cơ sở du lịch, nhằm tạo sự thuận tiện
cho du khách.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức, cá nhân trong việc chấp
hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Đặc biệt, cần thực hiện các chế tài
nghiêm khắc đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, chính quyền địa phương
cần tiếp tục duy trì và đẩy mạnh triển khai các mô hình về quản lý chất thải rắn như: “Phân
loại rác thải tại nguồn”, “Nói không với túi nylon”, “Sản xuất phân compost tại hộ gia đình”,
“Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường”, “Giáo dục
môi trường trong học đường”, “Hội Phụ nữ thu gom phế liệu”, “Hội Nông dân với rác thải đồng
ruộng”,... Đây là những mô hình thiết thực góp phần nâng cao ý thức của cộng đồng trong
bảo vệ môi trường.
Tài liệu tham khảo
Arnould, E. J., & Price, L. L. (1993). River magic: Extraordinary experience and the extended
service encounter. Journal of consumer Research, 20(1), 24-45.
Cadotte, E. R., Woodruff, R. B., & Jenkins, R. L. (1982). Norms and expectation predictions:
how different are the measures?. International fare in consumer satisfaction and complaining
behavior, 644-668.
Crompton J. L. (1979). Motivations for Pleasure Vacations. Annals of Tourism Research,
6(4), 408–424.
Echtner, C. M., & Ritchie, J. R. (2003). The meaning and measurement of destination
image:[Reprint of original article published in v. 2, no. 2, 1991: 2-12.]. Journal of tourism studies,
14(1), 37.
Gunn, C. A., & Var, T. (2002). Tourism planning: Basics, concepts, cases. Psychology Press.
Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., Anderson, R. E., & Tatham, R. L. (1998). Multivariate data
analysis (Vol. 5, No. 3, pp. 207-219). Upper Saddle River. Prentice Hall. New Jersey.
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc. (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS.
Nxb Hồng Đức. Thành phố Hồ Chí Minh.
Moutinho, L. (1987). Consumer behavior in tourism. European Journal of Marketing.
Nguyễn Văn Mạnh và Nguyễn Đình Hòa. (2008). Giáo trình Marketing du lịch. NXB Đại học
Kinh tế Quốc Dân Hà Nội.
Pizam, A., Neumann, Y., & Reichel, A. (1978). Dimentions of tourist satisfaction with a
destination area. Annals of tourism Research, 5(3), 314-322.
Ritchie, J. B., & Crouch, G. I. (2003). The competitive destination: A sustainable tourism
perspective. Cabi.
Thanh Hải. (2015). Du lịch Hội An hướng tới phát triển bền vững. Truy xuất từ
hoianworldheritage.org.vn/vi/news/Du-lich-Hoi-An/du-lich-hoi-an-huong-toi-phat-trien-
ben-vung-1079.hwh, ngày 13/04/2015.
Tribe, J., & Snaith, T. (1998). From SERVQUAL to HOLSAT: holiday satisfaction in Varadero,
Cuba. Tourism management, 19(1), 25-34.
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 05 (61) - 2019 71
Trương Thúy Hường và David Foster. (2006). Using HOLSAT to evaluate tourist satisfaction
at destinations: The case of Australian holidaymakers in Vietnam. Tourism management, 27(5),
842-855.
Truy xuất từ
hoi-an-nam-2018-829890/index.htm, ngày 19/12/2018.
Truy xuất từ
thu-hut-khach-truyen-thong.html, ngày 26/11/2019.
Truy xuất từ https://trithuccongdong.net/khai-niem-diem-du-lich-va-cac-yeu-cau-
thanh-diem-du-lich.html, ngày 26/11/2019.
Truy xuất từ https://www.24h.com.vn/du-lich-24h/viet-nam-co-bao-nhieu-di-san-van-
hoa-the-gioi-duoc-unesco-cong-nhan-c76a1027477.html, ngày 11/02/2019.
Vĩnh Lộc. (2018). Du lịch Hội An quá tải. Báo Quảng Nam Online. Truy xuất từ http://
baoquangnam.vn/du-lich/201811/du-lich-hoi-an-qua-tai-823548/, ngày 13/11/2018.
Võ Lê Hạnh Thi. (2010). Ứng dụng mô hình HOLSAT để đánh giá sự hài lòng của khách
du lịch quốc tế tại một điểm đến: trường hợp thành phố Đà Nẵng. Tuyển tập báo cáo hội nghị
sinh viên nghiên cứu khoa học lần thứ 7. Đại học Đà Nẵng năm 2010.
Woodside, A. G., Frey, L. L., & Daly, R. T. (1989). Linking service quality, customer
satisfaction, and behavioral intention. Journal of health care marketing, 9(4), 5-17.
World Tourism Organization. (2007). A practical guide to tourism destination
management. World Tourism Organization.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_dung_mo_hinh_holsat_de_danh_gia_su_hai_long_cua_khach_du.pdf