KÊT LUẬN
Trên 41 bệnh nhân đang được theo dõi
phục hồi, và 25 bệnh nhân theo dõi được sau
12 tháng, kết quả bước đầu khá khả quan. Mặc
dù thời gian theo dõi chưa đủ dài, nhưng đây
sẽ là động lực để chúng tôi tiếp tục hoàn thiện
và phát triển một kỹ thuật điều trị tiên tiến mà
thế giới đang ứng dụng thường qui.
Kết quả bước đầu cho thấy nội soi khớp
vai giúp khảo sát rõ ràng các tổn thương trong
mất vững khớp vai, hiểu biết sâu hơn về
nguyên nhân gây mất vững, và điều trị chọn
lọc các cấu trúc thương tổn nhằm đạt kết quả
tối ưu và giảm thiểu nguy cơ gây tổn thương
thêm do thầy thuốc. Ngoài ra, kỹ thuật này
giúp giảm đau sau mổ, giảm thời gian nằm
viện, giảm biến chứng phẫu thuật, và bệnh
nhân tập phục hồi sớm sau mổ.
Do đó, mặc dù nội soi khớp vai phụ thuộc
nhiều vào trang thiết bị dụng cụ đắt tiền và tay
nghề tự đào tạo lâu dài của phẫu thuật viên,
nhưng đây là một phương pháp điều trị hiệu
quả và có nhiều ưu điểm có thể ứng dụng và
triển khai thành 1 kỹ thuật điều trị chuẩn mực
cho tổn thương mất vững khớp vai, và phổ
biến rộng rãi cho các phẫu thuật viên chỉnh
hình tại TP.HCM và trong cả nước.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng nội soi khớp vai trong chẩn đoán và điều trị mất vững khớp vai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỨNG DỤNG NỘI SOI KHỚP VAI TRONG CHẨN ĐOÁN
VÀ ĐIỀU TRỊ MẤT VỮNG KHỚP VAI
Nguyễn Trọng Anh*, Nguyễn Văn Thái*, Hoàng Mạnh Cường*
TÓM TẮT
Mục tiêu : Nội soi khớp vai đã dược ứng dụng trong điều trị nhiều bệnh lý khớp vai tại Việt nam từ năm 2004.
Chúng tôi đã dùng nội soi khớp điều trị mất vững khớp vai và theo dõi bệnh nhân với thời gian tối thiểu là 12 tháng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu : Chúng tôi nghiên cứu trên 41 bệnh nhân (trung bình 20-30 tuổi)
bị trật khớp vai tái hồi. Trung bình bệnh nhân đã trật 10 lần trước mổ. Thời gian từ lúc chấn thương cho đến lúc
phẫu thuật trung bình là 35 tháng. Phương pháp phẫu thuật là nội soi may sụn viền bao khớp và may khoảng trống
chóp xoay. bệnh nhân được theo dõi các thông số đau, sự vững khớp và chức năng theo Thang điểm Rowe.
Kết quả : Theo dõi tối thiểu 12 tháng sau mổ, có 20 bệnh nhân (80%) tốt, 5 (16%) khá, và 1 (4%) trung bình
theo thang điểm Rowe, không ghi nhận trường hợp nào trật lại. Hầu hết các bệnh nhân có thể trở lại các sinh hoạt
trước mổ.
Kết luận : Nội soi khớp cho phép phẫu thuật viên điều trị chính xác, đầy đủ các tổn thương sụn viền bao khớp
vai và giúp phục hồi vận động nhanh và giảm thiểu nguy cơ điều trị cho bệnh nhân.
ABSTRACT
ARTHROSCOPY APPLICATION IN DIGNOSIS AND TREATMENT
OF SHOULDER INSTABILITY
Nguyen Trong Anh, Nguyen Van Thai, Hoang Manh Cuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 1 - 2008: 303 – 309
Introduction: Shoulder arthroscopy has been applied to treat patients with shoulder pathologies in Viet nam
since 2004. We performed arthroscopic diagnosis and repair for shoulder instability and followed-up patients
prospectively for a minimum of 12 months.
Methods and Materials: We studied 41 patients (mean age, 20-30 years) with recurrent shoulder
dislocations. They reported an average of 10 dislocations preoperatively. An average of 35 months elapsed from
initial dislocation to surgery. The shoulder instability were underwent with arthroscopic capsulolabral repair with
metal suture anchors and with or without rotator cuff interval closure. Patients were evaluated prospectively for
pain, motion, stability, and function using the Rowe score.
Results: At a minimum of 12 months postoperatively, 20(80%) excellent, and 4(16%) good, 1(4%) fair based
on Rowe score, and no recurrence rate. Most of the patient could return to their preinjury activities. Discussion and
conclusions: These results indicate that arthroscopic treatment of patients with shoulder instability yields good
results comparable to gold standard open procedures (Latarjet and Bankart-Jobe) ever used in Viet nam. We believe
that surgically addressing accurate site of labral defect, capsular laxity and combined lesions is critical, particularly
dealing with chronic instability.
Conclusions: This procedure allows the surgeon to reliably correct the labral detachment and the capsular
redundancy while preserving motion and minimizing morbidity.
*Khoa Chi trên- Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh hình TP.HCM.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mất vững khớp vai gây trật khớp vai tái
hồi là một bệnh lý thường gặp ở khớp vai và
có nhiều phương pháp phẫu thuật mở để điều
trị hiệu quả phục hồi sự vững của khớp vai.
Việc ứng dụng nội soi khớp đã tăng cường
khả năng xác định các tổn thương hiểu biết sâu
hơn về nguyên nhân gây mất vững và điều trị
chọn lọc các cấu trúc thương tổn nhằm đạt kết
quả tối ưu và giảm thiểu nguy cơ gây tổn
thương thêm do thầy thuốc. Ngòai ra, kỹ thuật
này giúp giảm đau sau mổ, giảm thời gian
nằm viện, giảm biến chứng phẫu thuật, và
bệnh nhân tập phục hồi sớm sau mổ.(1,7,9)
Trong một thập niên qua, điều trị mất
vững khớp vai đã trở nên phổ biến trên thế
giới và là chọn lựa điều trị hiệu quả cho mất
vững khớp vai. (9)
Mục đích bài báo cáo này nhằm giới thiệu
việc ứng dụng phương pháp mới, tiến bộ
trong điều trị mất vững khớp vai, và kết quả
trên 41 bệnh nhân tại khoa Chi trên, Bệnh viện
Chấn thương Chỉnh hình TP.HCM từ tháng
07/2004-11/2006.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Từ tháng 07/2004-11/2006 tại khoa Chi trên,
Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình TP.HCM,
41 bệnh nhân được khám và chẩn đoán trật
khớp vai tái hồi, và có khả năng kinh tế chấp
nhận chi phí điều trị bằng phẫu thuật nội soi
khớp.
Phương pháp nghiên cứu
Nhắc lại giải phẫu bệnh sự mất vững khớp vai
Khớp vai bị mất vững là tình trạng lỏng lẻo
khớp ổ chảo-cánh tay. Tình trạng này có thể
xảy ra đơn hướng -ở phía trước, dưới ,sau,
hoặc đa hướng. Trong đó, thường gặp nhất là
mất vững trước dưới.
Nguyên nhân thường gặp:
- Tổn thương rách sụn viền trước
dưới(Bankart).
- Lỏng lẻo bao khớp.
- Rách dây chằng ổ chảo-cánh tay.
- Tổn thương xương bờ ổ chảo, hay chỏm
xương cánh tay (Hill-Sachs)
Đánh giá trước mổ
Các yếu tố bệnh sử như tuổi tác, nghề
nghiệp, thời gian từ lúc trật đến lúc được điều
trị, số lần trật, cơ chế chấn thương, phương
pháp điều trị trước đó, và mức độ ảnh hưởng
đến sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân góp
phần quan trọng cho tiên lượng mức độ nặng
của tổn thương và việc chọn lựa điều trị.
Bệnh nhân được khám và làm các test lâm
sàng. Trong các test mất vững, test e sợ (+)
nhiều nhất, các test khác khó thực hiện hoặc
(-), các test phát hiện các tổn thương đi kèm
như rách sụn viền, rách gân nhị đầu và gân
chóp xoay cũng được thực hiện.
MRI giúp xác định tổn thương sụn viền,
bao khớp, và các tổn thương gân cơ chóp xoay
đi kèm.
Cuối tháng 06/2006, MRArthrography
được đưa vào ứng dụng tại Phân khoa MRI,
Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM và Trung
tâm Chẩn đoán Y khoa MEDIC. Kỹ thuật này
đã giúp khảo sát rõ ràng với độ nhạy và độ
chính xác cao hơn MRI kinh điển trong khảo
sát các dạng và mức độ tổn thương sụn viền,
các tổn thương dây chằng bao khớp, và các tổn
thương rách bán phần gân cơ chóp xoay hay
sạn khớp đi kèm.
Đánh giá bệnh nhân dưới gây mê: đây là
cách đánh giá hiệu quả sự lỏng lẻo khớp. Sau
khi gây mê dãn cơ, thực hiện lại các test ngăn
kéo, test load & shift nhằm đánh giá được vị trí
và mức độ mất vững chính xác hơn.
Phẫu thuật nội soi
Bệnh nhân sau khi tê tùng, gây mê nội khí
quản, nằm nghiêng trên bàn mổ, chi phẫu
thuật treo trên khung kéo với tạ, hoặc tư thế
beach chair.
Ngõ vào khớp: sau, trước và trước dưới.
Tiến hành nội soi khớp chẩn đoán đánh giá
tổn thương sụn viền, bao khớp, dây chằng và
các cấu trúc giải phẫu khác.
Cắt lọc sụn viền bị tổn thương, giải phóng
mô mềm khỏi cổ ổ chảo bằng shaver và dao
nội soi. Làm nhám bờ xương ổ chảo.
May lại sụn viền hoặc tạo gờ bao khớp
bằng 2-4 chỉ neo mini-revo (Linvatec Co.) kim
loại, với chỉ bện không tan số 2. Nếu bao khớp
lỏng lẻo, may rút bao khớp bằng chỉ bện
không tan số 2 fiberwire (Arthrex Co.). May
tăng cường khỏang trống chóp xoay cho
những trường hợp lỏng lẻo phía trước nhiều.
Các kỹ thuật cột chỉ và nốt chỉ thường dùng là
Duncan, Teneese và nốt chỉ đơn giản của phẫu
thuật viên.
Đánh giá lại độ vững của nốt chỉ bằng móc
nội soi, và độ vững của khớp bằng test ngăn kéo.
Sau đó, điều trị các tổn thương phối hợp
bằng phương pháp cắt lọc, may lại gân cơ hoặc
sụn viền trên.
Điều trị sau mổ
Chườm đá vùng vai 48 giờ sau mổ.
Tay phẫu thuật được đặt trong đai vai chi
trên 4-6 tuần.
Bệnh nhân được cho tập sớm ngày thứ 1
sau mổ: gồng cơ, co duỗi khuỷu và nắm thả
bàn tay. 3 tuần đầu tập tầm vận động thụ động
và chủ động có trợ giúp, hạn chế xoay ngoài,
tập sức cơ. Sau 3 tháng tập sức cơ tăng cường
tăng dần, tăng xoay ngoài và các bài tập kéo
dãn bao khớp (stretching).
Vận động nặng hoặc chơi lại thể thao sau
6-9 tháng.
Đánh giá kết quả sau mổ
Bệnh nhân được mời đến bệnh viện tái
khám, theo dõi đau, chức năng, tầm vận động,
sức cơ, đánh giá theo thang điểm Rowe.
KẾT QUẢ
Tư liệu
Giới
Nam : nữ = 32 : 9
Tuổi
Tuổi 40
Số ca 5 25 10 1
20-30 tuổi chiếm đa số(25 trường hợp).
Tay thuận
- Trật khớp vai xảy ra trên tay thuận: 30
trường hợp (19 trường hợp do chấn thương
thể thao).
- Tay không thuận: 11 trường hợp (5
trường hợp chấn thương thể thao).
Nguyên nhân
- Chấn thương thể thao: 24 (đá bóng, bóng
chuyền, võ thuật, bơi lội, cử tạ, tennis).
- Té ngã: 14
- Động kinh: 1
- Tự làm trật: 2
Thời gian
Thời gian từ lúc bị chấn thương đến lúc
điều trị
Thời gian 3 năm
Số ca 4 15 15 7
Trung bình là 1-3 năm (30 trường hợp), có
trường hợp 15 năm, và sớm nhất là 2 tháng.
Số lần trật khớp vai
Số lần trật 10
Số ca 15 17 9
MRI trước mổ
18 trường hợp được chụp MRI trước mổ. MRI
giúp xác định tổn thương sụn viền, bao khớp, và
các tổn thương gân cơ chóp xoay đi kèm.
Test ngăn kéo dưới gây mê
- 38 trường hợp mất vững trước, dưới
- 1 trường hợp mất vững sau
- 2 trường hợp mất vững đa hướng(trước,
dưới, sau)
Nội soi khớp chẩn đoán
- Sụn viền : hầu hết là tổn thương Bankart,
với vị trí rách hầu hết là 2-6 giờ. 4 trường hợp
không còn sụn viền trước dưới.
- 2 trường hợp vỡ xương bờ trước dưới ổ
chảo(<25% đường kính ổ chảo).
- 2 trường hợp vỡ xương bờ trước-dưới ổ
chảo(>25% đường kính ổ chảo)
- 1 trường hợp dãn bao khớp sau.
- 2 trường hợp rách sụn viền trước dưới,
dãn bao khớp dưới và sau.
Tổn thương đi kèm :
Rách sụn viền trên trước-sau (SLAP): phân loại
theo Snyder
Loại I : 8
II :2
III :1
Rách gân chóp xoay
- Gân trên gai : 4 (phần mặt khớp, độ 1)
- Gân dưới vai: 1(phần mặt khớp, độ 1)
- Viêm hoạt mạc : hầu hết các ca, do trật cũ,
trật nhiều lần.
- Sạn khớp : 1 ca.
- Viêm gân 2 đầu : 5 ca
- Tổn thương Hill-Sachs có mặt hầu hết
trong các trường hợp.
Kỹ thuật điều trị
- May sụn viền hoặc tái tạo sụn viền bằng
tạo gờ bao khớp: 24 ca. Dùng chỉ mini-revo
trung bình 3 sợi/ 1ca.
- May chồng bao khớp đơn thuần : 1 ca do
lỏng lẻo bao khớp sau dưới.
- May tạo hình sụn viền bao khớp trước
dưới và may chồng bao khớp sau : 2 ca.
- 2 ca chuyển sang mổ mở Latarjet vì vỡ
xương >25% đường kính ổ chảo (loại trừ khỏi
khâu theo dõi kết quả trong nghiên cứu này).
- May khỏang trống chóp xoay tăng
cường : 6 ca.
- May tổn thương SLAP : 2 ca loại II.
- Cắt lọc gân cơ chóp xoay: 5 ca.
- Lấy sạn khớp: 1ca
Kết quả
- Không ghi nhận biến chứng trong và sau
mổ.
- Đau sau mổ: Thang điểm VAS : trung
bình 3/10. ngày thứ 3 sau mổ bệnh nhân hết
cảm giác đau vùng vai.
- Thời gian nằm viện trung bình: 2 ngày.
- Hầu hết bệnh nhân chưa thấy trật lại, có
lẽ vì thời gian theo dõi còn ngắn. Trong đó: 25
bệnh nhân theo dõi được sau 12 tháng với kết
quả theo thang điểm Rowe (tối đa 100 điểm):
Số ca Độ
vững
k.vai
Chức
năng
Tầm
vận
động
Điểm
tổng
cộng
Xếp loại
20(80%) 50 25 20 95 Tốt
4(16%) 40 20 15 75 Khá
1(4%) 40 15 10 65 Trung
bình
- 4 bệnh nhân còn hơi sợ trật ở tư thế test e
sợ.
- Tầm vận động: hầu hết bệnh nhân phục
hồi rất mau do tập vận động sớm theo chương
trình, nhưng xoay ngòai và xoay ngòai ở tư thế
dang vẫn khá hạn chế cho đến 3-5 tháng.
- Chức năng: hầu hết bệnh nhân đều có thể
trở lại sinh hoạt hàng ngày sau 3 tháng, tập thể
thao nhẹ sau 4-5 tháng. 1 vận động viên Judo
chuyên nghiệp có thể tập nặng sau 4 tháng, và
tập đối kháng sau 6 tháng.
BÀN LUẬN
Tư liệu
Trật khớp vai tái hồi do mất vững khớp vai
thường xảy ra ở nam giới, độ tuổi 20-30 do
chấn thương thể thao hay té ngã. Thường xảy
ra ở tay thuận. Thời gian từ lúc trật khớp vai
lần đầu cho đến lúc điều trị thường muộn 1-3
năm, với số lần trật khá nhiều. điều này góp
phần vào việc làm nặng thêm các tổn thương
và giảm chất lượng lành mô.
Bệnh sử và khám lâm sàng rất quan trọng
trong việc chẩn đoán và đánh giá tiên lượng
của việc điều trị(4,7,4,9).
MRI rất có giá trị để đánh giá trước mổ,
đặc biệt MRArthrography giúp xác định tổn
thương mất vững và các tổn thương đi
kèm.Tổn thương Hill-Sachs và mất xương ổ
chảo có thể được đánh giá qua XQ thường qui
và MRI, nhưng tốt nhất là CT Scanner (7). Tuy
nhiên, các phương tiện chẩn đoán hình ảnh
này khá tốn kém nên phần lớn các trường hợp
có thể xác định tổn thương chính xác hơn khi
nội soi khớp chẩn đoán. Do đó, MRI và CT
Scanner chưa được làm thường qui mà chỉ giới
hạn ở những bệnh nhân có khả năng tài chính,
và giúp làm tư liệu nghiên cứu khoa học.
Kỹ thuật khám đánh giá lại khớp vai bệnh
nhân dưới gây mê rất quan trọng cho phép
đánh giá lại vị trí và mức độ mất vững của
khớp một cách chính xác(3,4,7,4,9). Nhờ kỹ thuật
này chúng tôi đã phát hiện 1 ca mất vững phía
sau do lỏng lẻo bao khớp, và 2 ca mất vững đa
hướng mà khám lâm sàng và MRI chẩn đoán
lầm là mất vững phía trứơc.
Kỹ thuật điều trị
Nội soi khớp vai là 1 phương tiện hiện đại
đang được sử dụng phổ biến trên thế giới
trong việc chẩn đoán và điều trị các tổn
thương khớp vai(9) . Tại Việt nam, nội soi khớp
vai mới được ứng dụng lần đầu tiên tại khoa
Chi trên, BV Chấn thương Chỉnh hình từ
tháng 07/2004 và đang được xây dựng và phát
triên. Đây là 41 ca điều trị mất vững khớp vai
bằng nội soi khớp trong số trên 100 trường
hợp điều trị các tổn thương khớp vai bằng nội
soi khớp tại khoa chúng tôi.
Trong các tổn thương khớp vai, trật khớp vai
là một tổn thương chiếm tỷ lệ khá cao. Trong đó,
ở người trẻ tỷ lệ trật khớp vai tái hồi do chấn
thương chiếm tỷ lệ 66-94% , và tổn thương
Bankart chiếm 94-97% trong trật khớp vai(1,2) .
Nhờ có nội soi khớp vai chúng ta có thể khảo sát
rõ ràng trực tiếp các tổn thương sụn viền bao
khớp, dây chằng, cũng như hiểu rõ sự liên quan
hợp lý giữa mức độ tổn thương cấu trúc giải
phẫu và biểu hiện lâm sàng. Từ đó có cách điều
trị chọn lọc thích hợp trên cấu trúc tổn thương
và dự hậu được kết quả điều trị.
Trong các trường hợp, chúng tôi đã khảo
sát được tổn thương Bankart với nhiều hình
thái khác nhau :kiểu rách , vị trí rách khác
nhau của sụn viền trứơc dưới; lỏng lẻo bao
khớp hay rách dây chằng, và chất lượng mô,
cũng như mức độ tổn thương xương. Ngoài ra,
nội soi khớp giúp phát hiện được các tổn
thương kèm theo mà trước đây mổ mở khó
phát hiện và dễ bỏ sót điều trị.
Sau khi xác định rõ tổn thương, mô mềm
và xương ổ chảo được chuẩn bị kỹ giúp tăng
cường khả năng lành mô. Vị trí và số lượng chỉ
neo được bắt chính xác, dễ dàng trên bờ ổ chảo
giúp may đính lại toàn bộ vị trí tổn thương.
Với các kỹ thuật cột chỉ qua nội soi khớp giúp
cố định vững chắc mô vào xương hơn so với
mổ mở(3,4).
Thời gian mổ ban đầu kéo dài 5 giờ và đến
nay chỉ còn 2 giờ, với số lượng dung dịch
truyền vào khớp cũng giảm đáng kể. điều này
phụ thuộc nhiều vào tay nghề phẫu thuật viên,
đội ngũ phòng mổ và trang thiết bị chuyên
dùng
Kết quả
Hầu hết bệnh nhân hài lòng với cuộc mổ.
Đau sau mổ không đáng kể với việc dùng kháng
viêm giảm đau thông thường, do phẫu thuật ít
tàn phá chỉ có 3 vết mổ nhỏ hơn 0,5cm ở vùng
vai và thẫm mỹ. Thời gian nằm viện ngắn.
Bệnh nhân được tập phục hồi sớm ngay
sau mổ theo chương trình tập phục hồi tối ưu
theo từng giai đoạn phục hồi.
Do tiêu chí đánh giá lớn nhất là sự vững
khớp vai và chức năng sau khi bệnh nhân trở
lại hoạt động hằng ngày hoặc chơi thể thao
như trước lúc chấn thương , nên thời gian theo
dõi phải ít nhất 12-36 tháng. Trong số các
trường hợp của chúng tôi, sau mổ 3 tháng hầu
hết bệnh nhân đều có thể có tầm vận động và
sức cơ tương đối để có thể trở về sinh hoạt
hàng ngày. Đây là kết quả theo dõi sau 12
tháng trên 25 bệnh nhân, với kết quả rất khả
quan. Bệnh nhân có thể chơi lại môn thể thao
của mình, hoặc lao động nặng, chỉ có 4 bệnh
nhân còn giới hạn nhẹ xoay ngoài và hơi sợ
trật, và 1 ca bị giới hạn tầm vận động mức độ
trung bình.
Thời gian theo dõi bệnh nhân của các
nghiên cứu trên thế giới trung bình 2-3 năm(5),
là thời gian các bệnh nhân trở lại lao động
nặng hoặc chơi thể thao với cường độ như
trước lúc chấn thương, và điều này giúp thu
thập đánh giá tỷ lệ trật lại sau mổ.
Chúng tôi sẽ theo dõi tiếp và báo cáo trong
một nghiên cứu khác với thời gian theo dõi dài
hơn.
CA LÂM SÀNG MINH HỌA
BN Nam, 23t, Trật khớp vai ra trước 3 lần
trong 6 tháng sau té đập vai khi thi đấu Judo.
MRArthrography cho thấy tiêu mất sụn viền
trước dưới.Điều trị bằng nội soi khớp vai tạo
gờ bao khớp với 3 chỉ neo. Kết quả sau mổ 6
tháng: tầm vận động hoàn toàn, bệnh nhân trở
lại thi đấu.
KÊT LUẬN
Trên 41 bệnh nhân đang được theo dõi
phục hồi, và 25 bệnh nhân theo dõi được sau
12 tháng, kết quả bước đầu khá khả quan. Mặc
ARTHROSCOPIC
BANKART REPAIR
dù thời gian theo dõi chưa đủ dài, nhưng đây
sẽ là động lực để chúng tôi tiếp tục hoàn thiện
và phát triển một kỹ thuật điều trị tiên tiến mà
thế giới đang ứng dụng thường qui.
Kết quả bước đầu cho thấy nội soi khớp
vai giúp khảo sát rõ ràng các tổn thương trong
mất vững khớp vai, hiểu biết sâu hơn về
nguyên nhân gây mất vững, và điều trị chọn
lọc các cấu trúc thương tổn nhằm đạt kết quả
tối ưu và giảm thiểu nguy cơ gây tổn thương
thêm do thầy thuốc. Ngoài ra, kỹ thuật này
giúp giảm đau sau mổ, giảm thời gian nằm
viện, giảm biến chứng phẫu thuật, và bệnh
nhân tập phục hồi sớm sau mổ.
Do đó, mặc dù nội soi khớp vai phụ thuộc
nhiều vào trang thiết bị dụng cụ đắt tiền và tay
nghề tự đào tạo lâu dài của phẫu thuật viên,
nhưng đây là một phương pháp điều trị hiệu
quả và có nhiều ưu điểm có thể ứng dụng và
triển khai thành 1 kỹ thuật điều trị chuẩn mực
cho tổn thương mất vững khớp vai, và phổ
biến rộng rãi cho các phẫu thuật viên chỉnh
hình tại TP.HCM và trong cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bjorn M (2006): Arthroscopic Bankart Repair In Traumatic
Anterior Shoulder Instability Using A Suture Anchor
Technique. JARS; Vol22 :931-936.
2. Garstman GM (2000): Arthroscopic treatment of anterior-
inferior glenohumeral instability. Two to five year follow-
up. J Bone Joint Surg Am; 82:991-1003.
3. Kelley MJ. (1995): Bankart procedure, Orthopedic therapy
of the shoulder, 195-196.
4. Kim SH(2003): Arthroscopic Anterior Stabilization of the
Shoulder. JBJS; Vol 85:p1511-1518.
5. Mishra DK. (2001): 2-yr outcome of Arthroscopic Bankart
Repair and Electrothermal-assissted Capsulography for
Recurrent Traumatic Anterior Shoulder Instability.
JARS;Vol17:844-849.
6. Morgan CD, Bodenstab AB (1987): Arthroscopic Bankart
suture repair: technique and early results. Arthroscopy;
3:111-122.
7. Rockwood CA. (1996): Subluxation and dislocation about
the Glenoohumeral joint. Fractures in Adults. Vol2, ,1193-
1302.
8. Rowe CR, Patel D, and Southmayd WW (1978): The
Bankart procedure: A long-term end-result study. J Bone
Joint Surg 60A: 1-16,.
9. Snyder SJ, ed (1996). Shoulder arthroscopy. NY: Mc
GrawHill.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_dung_noi_soi_khop_vai_trong_chan_doan_va_dieu_tri_mat_vu.pdf