Vai trò của bộ luật dân sự năm 2015 trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa

Một trong những đặc điểm của KTTT là tính rủi ro cao của nó. Tính rủi ro cao này được phát sinh do sự năng động của hoạt động kinh tế, do khát vọng làm giàu không bao giờ có giới hạn của con người và do sự nghiệt ngã của môi trường cạnh tranh. Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng phải hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của các rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải, qua đó tạo điều kiện để thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, khuyến khích mọi người làm giàu cho mình và cho xã hội. Các BLDS của Nhà nước ta từ trước đến nay đều không làm được chức năng này. Điều này thể hiện ở chỗ, trong BLDS 1995 và ngay cả BLDS 2005 luôn luôn ghi nhận một cách cứng nhắc, tuyệt đối, không có ngoại lệ nguyên tắc tuân thủ đúng cam kết. Điều đó có nghĩa là theo các BLDS trước đây, khi đã cam kết điều gì thì các bên phải tuân thủ nghiêm chỉnh cam kết đó, cho dù việc tiếp tục thực hiện cam kết có thể gây ra một sự bất lợi vô cùng lớn cho một bên. Quy định này là có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh khi Việt Nam mới bắt đầu xây dựng nền KTTT, nhưng đến nay thì không thể chấp nhận được nữa. Thực tế cho thấy, bên cạnh nguyên tắc thực hiện đúng cam kết thì BLDS 2015 còn ghi nhận một nguyên tắc không kém phần quan trọng là nguyên tắc thiện chí, trung thực (khoản 3 Điều 3) trong ký kết, thực hiện hợp đồng. Vì vậy, xuất phát từ tính không thể lường trước được của môi trường kinh doanh trong nền KTTT, để vừa bảo đảm tính nghiêm minh trong việc tuân thủ các cam kết trong kinh doanh lại vừa bảo đảm được sự hợp lý, công bằng, chống lại sự bất công, pháp luật dân sự ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có BLDS 2015 của nước ta (Điều 420) đã “phát minh” ra một quy định, theo đó trong những trường hợp nhất định và với những điều kiện nhất định được luật định thì nguyên tắc tuân thủ đúng hợp đồng phải được có ngoại lệ. Đây là lý do ra đời của một điều luật, theo đó khi việc tiếp tục thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng có thể gây ra một sự bất lợi quá lớn về tài sản cho một bên thì bên đó có quyền yêu cầu bên kia thương thảo để thay đổi hoặc chấm dứt hợp đồng. Nếu yêu cầu này bị từ chối thì bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài thương mại can thiệp để đưa ra phán quyết về việc huỷ bỏ hoặc sửa đổi hợp đồng cho phù hợp với hoàn cảnh mới đã xảy ra sau khi hợp đồng được giao kết. Trong BLDS các nước, điều luật này thường được gọi là: “Sửa đổi, huỷ bỏ hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi một cách cơ bản”

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của bộ luật dân sự năm 2015 trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TROÂ CUÃA BÖÅ LUÊÅT DÊN SÛÅ NÙM 2015 TRONG VIÏåC XÊY DÛÅNG NÏÌN KINH TÏË THÕ TRÛÚÂNG ÀÕNH HÛÚÁNG XAÄ HÖÅI CHUÃ NGHÔA Dương Đăng Huệ* 1. Thế nào là tính thị trường của nền kinh tế Thế giới hiện đại đã và đang chứng kiến hai loại mô hình kinh tế là kinh tế kế hoạch hoá và KTTT. Một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế kế hoạch hoá, mà hiện thân đầy đủ nhất của nó là nền kinh tế Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây, là tính kế hoạch của các hoạt động kinh tế. Ở các nền kinh tế này, hoạt động kinh tế của các xí nghiệp được thực hiện trên cơ sở các chỉ tiêu kế hoạch được nhà nước giao, và vì vậy, các xí nghiệp hầu như không có động lực để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh, dẫn đến sự trì trệ và cuối cùng là sự phá sản của cả hệ thống nền kinh tế quốc dân ở các nước này. Việt Nam đã từng xây dựng một nền kinh tế như vậy2, nhưng đã buộc phải từ bỏ nó và bắt đầu xây dựng một nền kinh tế kiểu mới - nền KTTT định hướng XHCN từ năm 1986. Chủ trương xây dựng cũng như những * PGS,TS. Giám đốc Trung tâm Thông tin, Tư vấn pháp luật và Bồi dưỡng nghiệp vụ, Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp, Bộ Tư pháp. 1 Trong tờ trình số 287/TTr-CP ngày 15/8/2014 về dự án BLDS gửi Quốc hội, Chính phủ đã xác định bốn quan điểm chỉ đạo của việc xây dựng BLDS mới, trong đó có quan điểm thứ hai là: “(1) Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của các chủ thể; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ dân sự. (2) Bộ luật của quan hệ thị trường thông qua việc ghi nhận một cách nhất quán nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự”. 2 Điều 22 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Các cơ sở kinh tế quốc doanh hoạt động theo phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước”; Điều 23 Hiến pháp này cũng viết: “hợp tác xã kinh doanh theo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch của cả nước và của địa phương”; Điều 33 viết: “Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo một kế hoạch thống nhất”. 10 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Việt Nam đã có 2 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 và năm 2005. Ngày 24/11/2015, Quốc hội đã ban hành BLDS mới (BLDS 2015), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Tuy nhiên, không phải bộ luật nào cũng được gọi là bộ luật của nền kinh tế thị trường (KTTT) như yêu cầu của thực tiễn xây dựng đất nước, cũng như mong đợi của Chính phủ. Khi trình dự án BLDS 2015, Chính phủ đã đề ra một yêu cầu là phải làm sao để BLDS này phải là bộ luật của nền KTTT định hướng XHCN1, tạo được cơ sở pháp lý tốt hơn để thúc đẩy giao lưu kinh tế, phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Yêu cầu này có đạt được không, đạt ở mức độ nào, tính thị trường của BLDS đã được thể hiện ra sao, ở quy định nào sẽ là những câu hỏi mà bài viết này muốn đưa ra câu trả lời. đặc điểm cơ bản của nền kinh tế này đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013. Tính thị trường của nền kinh tế thể hiện ở những điểm nào? Sau 20 năm xây dựng, chúng ta đang mong muốn được nhiều nước trên thế giới công nhận nền kinh tế nước ta là nền KTTT. Tuy nhiên, cho đến nay, chỉ mới khoảng 1/3 quốc gia trên thế giới đáp ứng mong muốn này. Như vậy, tuyệt đại đa số các nước vẫn chưa thừa nhận nền kinh tế nước ta là nền KTTT vì theo họ, một nền KTTT, về cơ bản, cần phải thỏa mãn 10 tiêu chí sau đây3: Thứ nhất, có sự tách bạch một cách rõ ràng về mặt tài sản của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Hình thức pháp lý của sự tách bạch này được thể hiện thông qua hệ thống các loại vật quyền, bao gồm quyền sở hữu và các loại vật quyền khác mà chủ thể của các quan hệ này có được đối với tài sản của mình. Như vậy, yêu cầu thứ nhất của tính thị trường của bất cứ nền kinh tế nào là mỗi một tài sản phải có một người chủ rõ ràng, cụ thể. Sự biệt lập (độc lập, tách bạch) về mặt tài sản của chủ thể quan hệ dân sự là rất quan trọng, vì sự độc lập về mặt tài sản là tiền đề để các chủ thể này có được sự độc lập trong quan hệ tài sản; sự độc lập trong quan hệ tài sản dẫn đến sự độc lập về quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau và cuối cùng, sự độc lập về quyền và nghĩa vụ của các bên tất yếu dẫn đến sự độc lập về lợi ích và trách nhiệm của mỗi bên trong quan hệ dân sự. Như vậy, một quốc gia không có một hệ thống vật quyền và pháp luật về vật quyền đầy đủ và ổn định thì khó có thể có được một hệ thống các quan hệ hàng hóa - tiền tệ phong phú, đa dạng, rõ ràng, minh bạch và ổn định - yêu cầu đầu tiên của KTTT; Thứ hai, sự bình đẳng về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tế của các chủ thể tham gia quan hệ tài sản; Thứ ba, sự bất khả xâm phạm về mặt tài sản của chủ sở hữu cũng như của các chủ thể các vật quyền khác; Thứ tư, sự tự do của các chủ thể kinh doanh trong việc ra các quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, và việc sử dụng tài sản của mình nói riêng. Cụ thể là, chủ sở hữu được tự mình quyết định cách thức sử dụng tài sản sao cho hợp lý nhất, có lợi nhất, và nhà nước không được can thiệp vào quá trình này, trừ các trường hợp do luật định; Thứ năm, các quan hệ tài sản phải được thực hiện, tồn tại chủ yếu dưới hình thức hàng hóa - tiền tệ; các hình thức trao đổi hàng hóa đơn giản hàng đổi hàng ngày càng bị loại bỏ và được thay thế bằng sự phát triển nhanh chóng của quan hệ hàng hóa - tiền tệ; Thứ sáu, tồn tại một loại đồng tiền quốc gia ổn định và được bảo đảm tốt cả về mặt kinh tế và về mặt pháp lý; Thứ bảy, có một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh doanh; hạn chế và đi đến loại bỏ mọi hình thức độc quyền; Thứ tám, các chủ thể quan hệ tài sản phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình; chấm dứt tình trạng bao cấp, xóa nợ, khoanh nợ một cách tùy tiện từ phía nhà nước cho doanh nghiệp. Đồng thời, các chủ thể quan hệ kinh tế phải thực hiện một cách kịp thời và đầy đủ các nghĩa vụ phát sinh; khắc phục sự dây dưa trong thanh toán các khoản nợ thương mại; Thứ chín, người sản xuất có quyền tự do quyết định giá cả của hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp; hạn chế đến mức thấp nhất việc định giá của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với hàng hóa, dịch vụ do các chủ thể quan hệ thị trường thực hiện; Thứ mười, có sự đảm bảo đáng tin cậy từ phía nhà nước trong việc bảo vệ quyền 11 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 3 Xem C.E.Rưlinxki, Giáo trình Luật Kinh doanh (Tiếng Nga), xuất bản lần thứ 5; M., 2004, tr. 80 - 82. của các chủ thể quan hệ thị trường; đảm bảo khi có quyền lợi bị vi phạm thì bên bị vi phạm có thể sử dụng một cách nhanh chóng và hiệu quả sự trợ giúp của nhà nước, nhất là của các cơ quan tài phán như Tòa án và trọng tài thương mại, chứ không phải thông qua các thế lực khác của xã hội đen. Căn cứ vào mức độ thỏa mãn 10 tiêu chí nêu trên mà các nước thừa nhận hay không thừa nhận một nền kinh tế là thị trường hay phi thị trường, trong đó có Việt Nam. Như vậy, tính thị trường của nền kinh tế được thể hiện trong nhiều tiêu chí khác nhau và để góp phần đạt được tất cả các tiêu chí này thì không một văn bản pháp luật nào hay một lĩnh vực pháp luật nào có thể đảm đương nổi. Đó phải là nhiệm vụ của hầu như toàn bộ hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, bắt đầu từ Hiến pháp đến các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý thấp nhất. Tuy nhiên, có thể nhận định rằng, BLDS là văn bản pháp luật có vai trò quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất trong việc tạo cơ sở pháp lý để xây dựng thành công nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam vì đa số các yêu cầu (tiêu chí) nêu trên của nền KTTT chỉ có thể đạt được nhờ sự tác động, hỗ trợ của bộ luật này. 2. Bộ luật Dân sự đã đáp ứng tính thị trường của nền kinh tế Việt nam như thế nào? KTTT không tự nhiên mà có. Đó là kết quả của hàng loạt các hoạt động và giải pháp đa tính chất, đa lĩnh vực được Nhà nước và các chủ thể khác thực hiện một cách bền bỉ, lâu dài, liên tục. Trong số các giải pháp, không thể không nhắc đến giải pháp pháp lý, và trong số các giải pháp pháp lý đó không thể không nhắc đến vai trò của BLDS. BLDS 2015 đã góp phần xây dựng nền KTTT ở nước ta thông qua các biện pháp sau đây: 2.1 BLDS đã xác lập một hệ thống quyền đối với tài sản (các nước gọi là hệ thống vật quyền) tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay Cũng như mọi chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự, các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể chủ yếu của nền KTTT, muốn hoạt động được thì phải có tài sản độc lập. Tính độc lập về mặt tài sản của doanh nghiệp phải được thể hiện thông qua các hình thức pháp lý nhất định, trước hết là quyền sở hữu và các loại quyền khác trên tài sản mà các nước gọi chung là các loại vật quyền. BLDS 2005 quan tâm rất nhiều đến việc ghi nhận quyền sở hữu, trong khi đó lại không mấy “mặn mà” với việc ghi nhận các loại vật quyền khác (vật quyền hạn chế). Điều này đã làm suy yếu tính độc lập về tài sản của doanh nghiệp, qua đó đã có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khắc phục tình trạng này, BLDS 2015 đã dành hẳn một chương là Chương XIV để quy định về các loại quyền khác đối với tài sản ngoài quyền sở hữu là (1) Quyền đối với bất động sản liền kề (quyền địa dịch) tại Mục 1, Chương XIV, (2) Quyền hưởng dụng (Mục 2, Chương XIV) và (3) Quyền bề mặt (Mục 3, Chương XIV). Có được các quyền này, tính độc lập về tài sản và năng lực về mặt tài sản - một yêu cầu quan trọng hàng đầu của các doanh nghiệp đã được cải thiện một cách cơ bản. Tóm lại, không có các chủ thể độc lập với nhau về mặt tài sản thì sẽ không có các chủ thể đích thực trên thương trường và do đó, sẽ không có KTTT. 2.2 BLDS 2015 đã củng cố vững chắc hơn nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh; xoá bỏ hoàn toàn sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại hình doanh nghiệp khác Nghiên cứu Hiến pháp và các đạo luật quan trọng của Nhà nước ta trong thời gian 12 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT trước khi BLDS 2015 có hiệu lực cho thấy, tiêu chí về sự bình đẳng của các chủ thể trong nền KTTT đã không được ghi nhận và bảo đảm thực hiện một cách đầy đủ và triệt để. Cụ thể là: - Hiến pháp năm 1959, tại Điều 12 quy định: “Kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm ưu tiên phát triển”. - Hiến pháp năm 1980, tại Điều 18 quy định: “Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triểu ưu tiên”. Trong khi đó, theo Điều 23 của Hiến pháp này thì kinh tế hợp tác xã chỉ được Nhà nước “hướng dẫn và giúp đỡ”; kinh tế phụ gia đình xã viên (biểu hiện sơ khai của kinh tế cá thể) thì lại chỉ được “Nhà nước thừa nhận và bảo hộ theo pháp luật” (Điều 23), còn kinh tế tư nhân thì dường như đã được coi là ngoài vòng pháp luật. - Hiến pháp năm 1992 và BLDS 2005 bước đầu đã khắc phục tình trạng phân biệt đối xử giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh nhưng vẫn chưa đảm bảo tính triệt để, vẫn còn thể hiện tính nửa vời. Ví dụ, Hiến pháp năm 1992 vẫn duy trì quan điểm ưu tiên cho kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước thông qua việc quy định tại Điều 15, theo đó, vẫn coi “sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” của hệ thống quan hệ sở hữu tồn tại trong nền kinh tế. BLDS 1995 và ngay cả BLDS 2005 vẫn chưa chấm dứt được tình trạng “nhất bên trọng nhất bên khinh” vì tài sản nhà nước vẫn được ưu tiên bảo vệ hơn tài sản của các chủ sở hữu khác. Cụ thể là, theo khoản 1 Điều 247 BLDS 2005, đối với tài sản tư nhân thì chủ sở hữu sẽ mất quyền sở hữu đối với tài sản đó nếu tài sản đã rời khỏi sự quản lý của mình quá 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản. Trong khi đó, đối với tài sản của Nhà nước thì thời hạn này là không được áp dụng, tức là nếu đã là tài sản của Nhà nước thì không bao giờ có thể trở thành tài sản của người khác (tư nhân) cho dù họ có chiếm hữu tài sản này một cách liên tục, ngay tình, công khai trong thời gian dài bao lâu chăng nữa (khoản 2 Điều 247). Hiện nay, với sự ra đời của BLDS 2015 thì sự bất bình đẳng này đã được loại trừ. Theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này thì “người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Như vậy, BLDS 2015 đã áp dụng chung thời hiệu xác lập quyền sở hữu do chiếm hữu, được lợi không có căn cứ pháp luật mà không phân biệt tài sản đó thuộc sở hữu của ai (Nhà nước hay tư nhân). Như vậy, xét về mặt pháp lý thì biểu hiện cuối cùng của sự phân biệt đối xử giữa các chủ sở hữu khác nhau thông qua quy định về việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đã bị loại bỏ ở nước ta từ ngày 01/01/2017 - khi BLDS 2015 có hiệu lực thi hành. 2.3 Một trong những tiêu chí quan trọng của nền KTTT là sự tôn trọng của Nhà nước ở mức độ cao nhất đối với tài sản thuộc mọi hình thức sở hữu. Nói cách khác, đây là tiêu chí về sự bất khả xâm phạm về mặt tài sản của tất cả các chủ sở hữu Cơ chế pháp lý để bảo đảm thực hiện tiêu chí này đã được đặt nền móng trong Hiến pháp năm 2013, cụ thể là: - Hiến pháp quy định ai có quyền hạn chế và khi nào thì quyền dân sự bị hạn chế: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng” (khoản 2 13 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 14 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Điều 14). Cụ thể hơn, để thể hiện chính sách tôn trọng quyền tài sản với tư cách là một loại quyền quan trọng bậc nhất của tổ chức, cá nhân, Hiến pháp năm 2013 cũng đã ghi nhận nguyên tắc, theo đó, việc Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện trong những trường hợp thật sự cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai mà thôi (khoản 3 Điều 32); - Hiến pháp ghi nhận quyền của tổ chức, cá nhân được làm gì khi quyền dân sự của mình bị vi phạm: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” (khoản 1 Điều 30); - Hiến pháp ghi nhận quyền được bồi thường các loại thiệt hại khi tổ chức, cá nhân bị người khác gây thiệt hại cho mình: “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật” (khoản 2 Điều 30). Những gì quy định trong Hiến pháp như vừa nêu trên là cần thiết, nhưng rõ ràng là chưa đủ để ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế yêu cầu về tính bất khả xâm phạm về mặt tài sản của các chủ sở hữu tài sản. BLDS 2015 với tư cách là đạo luật gốc trong hệ thống pháp luật dân sự không chỉ dừng lại ở chỗ nhắc lại các quy định nêu tại Hiến pháp năm 2013 mà còn đã ghi nhận thêm nhiều cơ chế, biện pháp cụ thể nhằm góp phần thực hiện yêu cầu này. Cụ thể là: Thứ nhất, không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản (khoản 1 Điều 163 BLDS 2015); Thứ hai, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản được tự mình sử dụng mọi biện pháp không trái với quy định của pháp luật để bảo vệ các quyền tài sản của mình khi chúng bị vi phạm bởi bất kỳ ai (khoản 1 Điều 164); Thứ ba, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản cũng được quyền yêu cầu Toà án, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để buộc trả lại tài sản cho mình, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại (khoản 2 Điều 164). 2.4 Một tiêu chí quan trọng nữa của nền KTTT là các chủ thể kinh doanh phải được tự mình quyết định các công việc của mình theo ý chí, nguyện vọng và vì lợi ích của mình mà không chịu bất cứ sự can thiệp trái pháp luật của bất kỳ ai từ bên ngoài Có thể nói, yêu cầu này đã được BLDS 2015 đáp ứng một cách tương đối đầy đủ thông qua các quy định tại phần thứ 3: “Nghĩa vụ và Hợp đồng”, cụ thể là: - Thứ nhất, cá nhân, pháp nhân được tự do quyết định việc giao kết hợp đồng với ai và với nội dung gì (quyền tự do thỏa thuận); không ai, kể cả cơ quan nhà nước, có thể can thiệp, trừ những trường hợp đặc biệt được quy định bởi luật (khoản 2, Điều 2; khoản 2, Điều 3; khoản 1 Điều 398); - Thứ hai, cá nhân, pháp nhân được quyền tự do quyết định ngành nghề kinh doanh và quy mô kinh doanh (khoản 2 Điều 205); - Thứ ba, BLDS có nhiều quy định mới giúp các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự được dễ dàng, thuận lợi hơn trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng. Ví dụ, theo quy định tại khoản 2 Điều 137 BLDS 2015 thì một pháp nhân có thể có hơn một đại diện theo pháp luật. Như vậy, quy định này đã chấm dứt tình trạng một pháp nhân chỉ có thể có một người đại diện theo pháp luật đã tồn tại hàng chục năm qua ở nước ta trong BLDS 1995 và 2005, qua đó, góp phần khắc phục được rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp lớn, có quy mô kinh doanh đa ngành, đa nghề, hoạt động ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, theo quy định của BLDS 2005 thì người được ủy quyền được hiểu chỉ có thể là cá nhân mà không thể là pháp nhân. Quy định này đã hạn chế quyền của doanh nghiệp trong việc ủy quyền cho pháp nhân khác thực hiện các công việc mà mình không thể thực hiện một cách trực tiếp, làm giảm khả năng giao kết hợp đồng trong điều kiện kinh doanh năng động của các doanh nghiệp. Khắc phục tình trạng này, BLDS 2015 đã bổ sung quy định mới rất quan trọng, có khả năng giúp doanh nghiệp được dễ dàng hơn trong việc giao kết và thực hiện các hợp đồng, đó là quy định tại khoản 1 Điều 134 và khoản 1 Điều 138, theo đó, pháp nhân có thể là người đại diện theo ủy quyền; - Thứ tư, cá nhân, pháp nhân được tự do xác định chế độ trách nhiệm tài sản do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. BLDS 2015 ghi nhận quyền của các bên giao kết hợp đồng trong việc thoả thuận áp dụng các loại chế tài tài sản và quy mô của các loại chế tài đó. Ví dụ: Theo khoản 2 Điều 418 thì: “Mức phạt do các bên thoả thuận trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”, còn theo khoản 3 Điều này thì: “Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại”. Thứ năm, một trong những quy định mới thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với ý chí của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự, qua đó, thể hiện tính thị trường của BLDS 2015, là quy định về sự hạn chế vai trò của Toà án trong việc áp dụng thời hiệu khi giải quyết các tranh chấp dân sự. Thời hiệu và việc áp dụng thời hiệu là vấn đề không mới ở nước ta. Tuy nhiên, nếu như trước đây, phạm vi chủ thể có quyền áp dụng thời hiệu là rất rộng, bao gồm không chỉ các bên đương sự (các bên tranh chấp) mà còn cả Toà án thì ngày nay, theo BLDS 2015, chỉ có các đương sự mới có quyền này. Cụ thể là, Điều 149 BLDS 2015 đã bổ sung quy định, theo đó, Toà án chỉ được áp dụng thời hiệu theo yêu cầu của đương sự mà không được quyền chủ động, theo sáng kiến của mình nêu vấn đề còn hay không còn thời hiệu để trên cơ sở đó ra quyết định công nhân hay không công nhận, bảo vệ hay không bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan. Quy định này là phù hợp với tính tự chủ, tự quyết định của các chủ thể quan hệ thị trường, phù hợp với tính trung lập của Toà án trong quá trình giải quyết tranh chấp và đặc biệt là đã làm cho các quy định về thời hiệu trong BLDS Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật ở nhiều nước trên thế giới. 2.5 Một trong các yêu cầu quan trọng thể hiện tính thị trường của nền kinh tế là phải có một hệ thống các cơ quan tài phán đáng tin cậy để bảo vệ một cách kịp thời, đúng pháp luật, hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh Theo yêu cầu này thì ở đâu, thay vì đến với toà án, trọng tài thương mại (các cơ quan tài phán chính thống của Nhà nước), các bên tranh chấp lại đến với các thế lực của xã hội đen, thì ở đó không có sự tồn tại của KTTT. Xét về thực tế thì hiện nay, mặc dù Toà án và Trọng tài thương mại ở Việt Nam đã có nhiều cố gắng, nhưng nhìn chung, vẫn chưa trở thành địa chỉ đáng tin cậy của các nhà kinh doanh khi tranh chấp xảy ra với họ. Tuy nhiên, xét về mặt pháp lý thì yêu cầu này, về cơ bản, đã được BLDS 2015 đáp ứng, cụ thể là: - Thứ nhất, BLDS đã ghi nhận nguyên tắc, theo đó các cơ quan nhà nước, nhất là Toà án không được quyền từ chối giải quyết 15 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT các vụ việc dân sự với lý do không có điều luật để áp dụng. Giữa cơ chế thị trường và cơ chế bảo vệ quyền dân sự có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu pháp luật khuyến khích xây dựng nền KTTT, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh mà lại không quy định đầy đủ các cơ chế, biện pháp để bảo đảm rằng, các quyền của cá nhân, pháp nhân phát sinh từ hoạt động kinh tế luôn được nằm trong sự bảo hộ của Nhà nước, thì các chủ thể này cũng không thể yên tâm thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo nguyện vọng của mình. Hậu quả là, hoạt động kinh doanh sẽ không được triển khai một cách mạnh mẽ, rộng khắp trong thực tiễn. Ví dụ, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 thì doanh nghiệp có quyền tự quyết định ngành, nghề kinh doanh, kể cả khi các ngành, nghề đó chưa được Nhà nước quy định trong hệ thống ngành nghề kinh tế của Việt Nam. Quy định như vậy là nhằm khuyến khích các doanh nghiệp luôn luôn tìm tòi, sáng tạo, có thể sản xuất, kinh doanh bất cứ ngành nghề, mặt hàng nào do mình nghĩ ra mà không hạn chế hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình trong các ngành nghề được Nhà nước ghi nhận. Tuy nhiên, quy định này của Luật Doanh nghiệp 2014 chắc chắn sẽ không được các doanh nghiệp hưởng ứng một cách nhiệt tình, bởi doanh nghiệp khó tránh khỏi tâm lý lo ngại rằng, khi kinh doanh các ngành nghề này mà xảy ra tranh chấp thì Nhà nước có thụ lý để giải quyết, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ hay không? Để đáp ứng yêu cầu này, BLDS 2015 đã đưa ra quy định, theo đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có Tòa án, không được quyền từ chối giải quyết các vụ việc dân sự với lý do không có điều luật để áp dụng (khoản 2 Điều 14). Như vậy, BLDS 2015 đã góp phần khuyến khích các cá nhân, pháp nhân mở rộng sản xuất, kinh doanh thông qua sự cam kết của Nhà nước rằng, trong bất cứ trường hợp nào, kể cả khi không có điều luật quy định, nhưng nếu doanh nghiệp đã tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách hợp pháp, đem lại lợi ích cho mình và cho xã hội, thì quyền và lợi ích của họ cũng sẽ được Nhà nước bảo hộ bằng mọi biện pháp. - Thứ hai, BLDS 2015 đã ghi nhận cơ chế mới trong việc bảo vệ quyền dân sự, theo đó trong nhiều trường hợp, các quyết định hành chính còn có thể được xem xét lại theo thủ tục tư pháp tại Tòa án. Hiện nay, ở Việt Nam, nhiều vấn đề dân sự đang được giao cho các cơ quan hành chính giải quyết. Đây là điều không thể tránh khỏi do những đặc thù trong cơ cấu tổ chức và trong cơ chế quản lý của Nhà nước ta. Tuy nhiên, cơ chế này bên cạnh mặt tích cực cũng còn hàm chứa không ít hạn chế. Nếu cơ chế này tiếp tục tồn tại mà không có sự đổi mới thì chắc chắn sẽ cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, vì bản thân cơ chế giải quyết tranh chấp bằng con đường hành chính không bảo đảm các yêu cầu của quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, như nguyên tắc công khai, minh bạch, tranh luận và độc lập của quá trình giải quyết tranh chấp. Chỉ có Tòa án với các quy định đặc thù trong tố tụng tư pháp, mới có thể bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Vì vậy, việc BLDS 2015 đưa ra quy định theo đó, các quyết định hành chính có thể được đưa ra xem xét lại tại các cơ quan tư pháp được coi là một quy định mới, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, pháp nhân, qua đó tạo điều kiện để cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình (khoản 1 Điều 14). 2.6 BLDS 2015 đã có nhiều quy định góp phần giúp các nhà kinh doanh ứng phó một cách hiệu quả với những rủi ro 16 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT tiềm tàng trong nền KTTT đầy biến cố không thể lường trước được Một trong những đặc điểm của KTTT là tính rủi ro cao của nó. Tính rủi ro cao này được phát sinh do sự năng động của hoạt động kinh tế, do khát vọng làm giàu không bao giờ có giới hạn của con người và do sự nghiệt ngã của môi trường cạnh tranh. Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng phải hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của các rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải, qua đó tạo điều kiện để thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, khuyến khích mọi người làm giàu cho mình và cho xã hội. Các BLDS của Nhà nước ta từ trước đến nay đều không làm được chức năng này. Điều này thể hiện ở chỗ, trong BLDS 1995 và ngay cả BLDS 2005 luôn luôn ghi nhận một cách cứng nhắc, tuyệt đối, không có ngoại lệ nguyên tắc tuân thủ đúng cam kết. Điều đó có nghĩa là theo các BLDS trước đây, khi đã cam kết điều gì thì các bên phải tuân thủ nghiêm chỉnh cam kết đó, cho dù việc tiếp tục thực hiện cam kết có thể gây ra một sự bất lợi vô cùng lớn cho một bên. Quy định này là có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh khi Việt Nam mới bắt đầu xây dựng nền KTTT, nhưng đến nay thì không thể chấp nhận được nữa. Thực tế cho thấy, bên cạnh nguyên tắc thực hiện đúng cam kết thì BLDS 2015 còn ghi nhận một nguyên tắc không kém phần quan trọng là nguyên tắc thiện chí, trung thực (khoản 3 Điều 3) trong ký kết, thực hiện hợp đồng. Vì vậy, xuất phát từ tính không thể lường trước được của môi trường kinh doanh trong nền KTTT, để vừa bảo đảm tính nghiêm minh trong việc tuân thủ các cam kết trong kinh doanh lại vừa bảo đảm được sự hợp lý, công bằng, chống lại sự bất công, pháp luật dân sự ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có BLDS 2015 của nước ta (Điều 420) đã “phát minh” ra một quy định, theo đó trong những trường hợp nhất định và với những điều kiện nhất định được luật định thì nguyên tắc tuân thủ đúng hợp đồng phải được có ngoại lệ. Đây là lý do ra đời của một điều luật, theo đó khi việc tiếp tục thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng có thể gây ra một sự bất lợi quá lớn về tài sản cho một bên thì bên đó có quyền yêu cầu bên kia thương thảo để thay đổi hoặc chấm dứt hợp đồng. Nếu yêu cầu này bị từ chối thì bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài thương mại can thiệp để đưa ra phán quyết về việc huỷ bỏ hoặc sửa đổi hợp đồng cho phù hợp với hoàn cảnh mới đã xảy ra sau khi hợp đồng được giao kết. Trong BLDS các nước, điều luật này thường được gọi là: “Sửa đổi, huỷ bỏ hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi một cách cơ bản”4. Tóm lại, để có một nền KTTT đích thực thì Việt Nam còn có quá nhiều việc cần phải làm. Trong các việc phải làm này, có việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là các luật điều chỉnh quan hệ thị trường như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, các luật kinh doanh chuyên ngành (Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Kinh doanh chứng khoán, Luật Các tổ chức tín dụng). Xét về lâu dài thì riêng BLDS vẫn đang còn nhiều việc cần phải tiếp tục hoàn thiện. Tuy nhiên, những gì đã có được trong BLDS 2015 là rất đáng được tôn trọng vì trong một chừng mực nhất định, bộ luật này đã góp phần không nhỏ vào việc tạo cơ sở pháp lý để xây dựng một nền kinh tế mới ở nước ta - KTTT định hướng XHCN n 17 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 4 Ví dụ, ở Liên bang Nga trước đấy, suốt 70 năm tồn tại chế độ Xô-Viết cùng với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong BLDS của nước này không hề có quy định nêu trên. Tuy nhiên, sau khi bắt đầu xây dựng nền kinh tế mới, kinh tế thị trường định hướng xã hội, BLDS 1995 đã bổ sung quy định tại Điều 451 với tên gọi là: “Sửa đổi và huỷ bỏ hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi một cách cơ bản”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvai_tro_cua_bo_luat_dan_su_nam_2015_trong_viec_xay_dung_nen.pdf
Tài liệu liên quan