Với tình trạng đã diễn ra như đã nêu
trên, tài sản đã được đăng ký, đăng ký
GDBĐ chưa đạt hiệu quả cao, chưa bảo đảm
ổn định, an toàn trong giao dịch, không giúp
giảm hoạt động xác minh tình trạng tài sản
của cơ quan tài phán nói chung, của Tòa án
nói riêng. Thực tế đó rất đáng để cơ quan lập
pháp, cơ quan thực hiện việc đăng ký suy
ngẫm và cần phải rút ra những kinh nghiệm
và tính tới khi muốn hoàn thiện pháp luật về
đăng ký tài sản, đăng ký GDBĐ cũng như
tập huấn cho cán bộ thực hiện việc đăng ký
(đăng ký tài sản, đăng ký GDBĐ) thường
xuyên, nội dung đầy đủ, chính xác với bản
chất, yêu cầu của luật và phản ánh đúng
những gì cuộc sống đang diễn ra.
Thiết nghĩ, đối với cơ quan xây dựng
pháp luật, không nên tiếp cận việc đăng ký
tài sản, đăng ký GDBĐ theo hướng chủ yếu
phục vụ cho quản lý, dễ cho cơ quan quản
lý. Đối với tài sản bắt buộc đăng ký, việc
đăng ký tài sản đương nhiên cần đáp ứng
yêu cầu quản lý nhà nước, nhưng phải xác
định đó không phải là mục đích duy nhất,
càng không phải là mục tiêu chính, mà mục
tiêu chính, cơ bản phải là hướng đến phục
vụ các chủ thể có quyền tài sản, bảo đảm
an toàn cho các chủ thể bao gồm chủ chủ
sở hữu, sử dụng, chủ có quyền tài sản khác,
của giao dịch, quyền và lợi ích của các bên,
và quan trọng là góp phần huy động, thúc
đẩy được nhiều nguồn lực tài chính vào thị
trường, vận hành trên hành lang pháp lý an
toàn. Đồng thời, cần quy định việc thực hiện
công khai, minh bạch thông tin, về tình trạng
pháp lý của tài sản. Một khi đã minh mạch
hóa thông tin, tình trạng pháp lý về tài sản thì
rủi ro mà các bên có thể gặp sẽ giảm hẳn, sẽ
thúc đẩy giao lưu dân sự, tăng tính ổn định
cho giao dịch; tranh chấp sẽ giảm và nếu có
tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp dễ
dàng thu thập, kiểm tra thông tin, việc giải
quyết sẽ thuận lợi, nhanh chóng, chính xác.
Khi đó, hoạt động của các cơ quan này sẽ
góp một phần vào cải thiện chỉ số hợp đồng
khi đánh giá về năng lực cạnh tranh ở Việt
Nam. Ngược lại, nếu quá trình hoàn thiện
pháp luật về đăng ký không đáp ứng được
các yêu cầu chủ yếu trên, đó sẽ là sự thất bại
của công tác hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của đăng ký và cung cấp thông tin tài sản trong giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại tại tòa án, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Dù đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về đăng ký tài sản và
đăng ký giao dịch bảo đảm nhưng các quy định này còn tản mạn,
chưa đầy đủ. Các quy định hiện hành còn chưa tạo thuận lợi cho
người có tài sản đưa vào lưu thông dân sự, chưa tạo an toàn cho
giao dịch, chưa bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bên một
cách hiệu quả. Nguyên nhân là do cách tiếp cận khi xây dựng luật
còn nghiêng về tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý, cán bộ làm
nhiệm vụ đăng ký còn máy móc, cứng nhắc. Khi hoàn thiện các
quy định pháp luật về đăng ký, cần tiếp cận theo hướng tạo thuận
lợi cho việc đăng ký, coi phục vụ quyền lợi ích các bên phải là mục
tiêu chính để việc đăng ký thực sự góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội.
Tưởng Duy Lượng*
* Nguyên Phó chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao.
Abstract
Although there are legal documents on property registration
and security transaction registration, these regulations are
scattered and incomplete. The current legal regulations do not
provides facilitations for the people who have property put into
civil circulation, not providing security for the transaction, not
effectively protecting the legitimate interests of the parties. This
is due to the fact that the lawmaking approach is more favorable
for the management agency, the public servants do the registration
based on a machinery, rigid manner. Once the legal provisions on
registration are to be improved, the approach should be to facilitate
the registration and the interests of the concerned parties must be
considered as key objective so that the property registration is to
actually facilitate the social economic developments.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: đăng ký tài sản, đăng ký giao
dịch bảo đảm
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 05/04/2018
Biên tập : 05/05/2018
Duyệt bài : 11/05/2018
Article Infomation:
Keywords: property registration;
security transaction registration
Article History:
Received : 05 Apr. 2018
Edited : 05 May 2018
Approved : 11 May 2018
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ, HÔN NHÂN
GIA ĐÌNH, KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
VAI TRÒ CỦA ĐĂNG KÝ VÀ CUNG CẤP THÔNG TIN TÀI SẢN
1. Vài nét khái quát về pháp luật đăng ký
tài sản
Theo Cục Đăng ký quốc gia giao dịch
bảo đảm (GDBĐ), hiện có khoảng 64 văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động
đăng ký tài sản, đăng ký GDBĐ. Trong đó có
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
36 Số 14(366) T6/2018
Hiến pháp, 26 Luật, Bộ luật; 18 Nghị định; 19
Thông tư; 01 Quyết định của Bộ trưởng.
Các quy định về đăng ký do nhiều cơ
quan thực hiện với với mục đích khác nhau.
Có trường hợp đăng ký với ý nghĩa là đăng
ký xác định quyền sở hữu tài sản, sở hữu trí
tuệ, quyền sử dụng đất (SDĐ) hoặc quyền
khác về tài sản, có quy định về đăng ký với
ý nghĩa để sử dụng, lưu hành, có những quy
định về đăng ký nhằm mục đích để kiểm
duyệt, lưu hành (như đối với thuốc thú y,
dược, hóa chất)
Dù số lượng văn bản không phải
là ít nhưng có thể nhận thấy, pháp luật về
đăng ký tài sản, đăng ký GDBĐ hiện nay
không những chưa đầy đủ (những loại tài
sản, quyền tài sản nào bắt buộc phải đăng
ký, những trường hợp để bảo đảm đối kháng
với người thứ ba, và những tài sản nào thuộc
diện đăng ký tự nguyện) mà còn rất tản mạn,
được quy định trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau.
- Trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm
2015 có một số điều quy định về đăng ký tài
sản hoặc liên quan đến đăng ký tài sản, ví
dụ Điều 106 quy định: quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản được đăng ký theo quy
định của BLDS và pháp luật về đăng ký tài
sản, việc đăng ký tài sản phải được công
khai (Quyền khác đối với tài sản có nhiều
nội dung được bổ sung, sửa đổi nhưng cho
đến nay chưa có văn bản nào quy định về
thủ tục đăng ký quyền khác đối với tài sản
được thực hiện như thế nào); Điều 133 quy
định về bảo vệ người thứ ba ngay tình khi
người này dựa vào việc tài sản được đăng
ký tại cơ quan có thẩm quyền để tham gia
giao dịch; Điều 297, khoản 2 Điều 298 quy
định về biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu
lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng
ký biện pháp bảo đảm và thời điểm bắt đầu
có hiệu lực đối kháng với người thứ ba là từ
thời điểm đăng ký; về biện pháp bảo đảm là
cầm cố, thế chấp (khoản 2 Điều 310, khoản
2 Điều 319), Bộ luật cũng quy định hiệu
lực đối kháng với người thứ ba từ thời điểm
đăng ký giao dịch.
- Việc đăng ký cũng được quy định
trong một số luật khác như Luật Đất đai
năm 2013, tại các điều: Điều 95; khoản 3
Điều 188; Luật Nhà ở năm 2014, tại Điều
12, khoản 1 Điều 118; Luật Bảo vệ và phát
triển rừng năm 2004, tại khoản 7 Điều 3;
Luật Hàng không dân dụng năm 2006 được
sửa đổi, bổ sung năm 2014, tại các Điều 28,
29, 30; Bộ luật Hàng hải năm 2015, tại các
Điều 18, 19, 36; Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Luật
Giao thông đường bộ
Vấn đề đăng ký cũng được quy định
trong một số nghị định của Chính phủ,
thông tư của các bộ, ngành, ví dụ Nghị định
163/2006 NĐ-CP ngày 19/12/2006, Nghị
định 83/2010-NĐ-CP ngày 23/7/2010 quy
định về GDBĐ và đăng ký GDBĐ, Nghị định
43/2014-NĐ-CP ngày 15/5/2014, Nghị định
01/2017/NĐ-CP, Nghị định 8020/VBHN-
BTP ngày 10/12/2013 về đăng ký GDBĐ,
Nghị định 68/2015/NĐ-CP ngày 28/8/2015
về đăng ký quốc tịch và đăng ký các quyền
đối với tàu bay, Nghị định 171/2016/NĐ-CP
ngày 27/12/2016; Thông tư 23/2014/TT-
BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường quy định về cấp giấy chứng
nhận (GCN) quyền SDĐ, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất, Thông tư
24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của
Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về
hồ sơ địa chính, Thông tư 37/2010TT-BCA
ngày 12/10/2010, Thông tư 15/2014/TT-
BCA ngày 4/4/2014 của Bộ Công an quy
định về đăng ký xe, quy trình đăng ký,
Mặt khác, pháp luật về đăng ký tài
sản có hiện tượng chưa thống nhất, như tài
sản gắn liền với đất như nhà ở, tài sản khác
không bắt buộc đăng ký (khoản 3 Điều 12
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
37Số 14(366) T6/2018
Luật Nhà ở năm 2014 khác hẳn với quy
định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm
2013), chỉ đăng ký theo yêu cầu nhưng điều
mâu thuẫn là chỉ khi nào đăng ký mới được
giao dịch (điểm a khoản 1 Điều 118 Luật
Nhà ở năm 2014), vậy có phải là bắt buộc
đăng ký?
Trong thực tiễn cũng xuất hiện những
nhìn nhận khác nhau về một số quy định,
ví dụ đối với phương tiện giao thông việc
đăng ký là để lưu hành, hay xác định sở hữu
thì trong xã hội cũng như giữa các bộ có
liên quan cũng có nhận thức khác nhau. Từ
nhận thức sẽ liên quan đến giải thích Điều
133 BLDS năm 2015, tùy theo nhận thức
của cơ quan có thẩm quyền khi giải thích
sẽ làm cho quy định của Điều 133 BLDS
năm 2015 có sức sống tăng hay giảm xuống
trong thực tiễn. Sở dĩ như vậy là do phạm
vi áp dụng Điều 133 BLDS có thể rộng (áp
dụng được nhiều trường hợp diễn ra trong
thực tế) hoặc hẹp tùy theo nhận thức, giải
thích cụm thuật ngữ: “tài sản phải đăng ký
mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền” mà cốt lõi là giải thích thuật
ngữ “đăng ký” chỉ bao hàm đăng ký quyền
sở hữu, đăng ký quyền SDĐ, quyền khác
đối với tài sản hay “đăng ký” còn bao gồm
những tài sản theo quy định của pháp luật
được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng
ký, loại giấy này không phải là GCN quyền
sở hữu, nhưng cũng có giá trị chứng minh,
dưới góc độ pháp lý người đứng tên trong
giấy đăng ký được coi là chủ tài sản. Ví dụ
như giấy đăng ký xe máy, giấy đăng ký xe
ô tô, giấy đăng ký tàu, thuyền (không nhầm
lẫn khi mua bán dù là tài sản cần đăng ký sở
hữu hay đăng ký để lưu hành, khi chuyển
nhượng hai bên không làm thủ tục sang tên
lại thuộc góc độ khác).
Xét về bản chất thì đăng ký tài sản,
quyền khác đối với tài sản là một hoạt động
quản lý của Nhà nước, vì vậy, cần phải xác
định loại tài sản nào trong xã hội cần phải
đăng ký. Nói cách khác, chỉ loại tài sản nào
Nhà nước thấy cần phải thể hiện vai trò quản
lý của Nhà nước thì mới bắt buộc phải đăng
ký. Nhưng cần phải nhận thức mục đích sâu
xa của hoạt động quản lý trong cơ chế thị
trường là nhằm bảo vệ được quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, tăng tính
minh bạch từ đó tạo thuận lợi đưa tài sản
tham gia lưu thông dân sự, tăng tính an toàn
trong giao dịch, tăng tính ổn định cho các
quan hệ dân sự, kinh tế, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội theo hướng bền vững. Vì
vậy, việc đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, thủ tục
rườm rà như hiện nay đang gây khó khăn,
vướng mắc, phiền toái cho người dân, doanh
nghiệp khi khai thác tài sản, đưa tài sản vào
lưu thông là không hợp lý. Việc hoàn thiện
pháp luật về đăng ký tài sản để khắc phục
tình trạnh tản mạn, thiếu thống nhất là cần
thiết. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất khi
hoàn thiện pháp luật là các quy định phải
đáp ứng được yêu cầu dù đăng ký tài sản
thuộc trường hợp bắt buộc hay theo yêu cầu
của chủ tài sản phải tạo cho chủ có quyền sở
hữu, quyền sử dụng, chủ có quyền khác đối
với tài sản khai thác tài sản của mình được
thuận tiện, dễ dàng, nhanh chóng, đặc biệt là
giảm chi phí khi muốn đưa tài sản vào tham
gia giao dịch trên thị trường, đáp ứng được
yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong xu
thế hội nhập.
2. Việc đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch
bảo đảm và cung cấp thông tin của các cơ
quan quản lý, vai trò của nó trong hoạt
động xét xử
2.1 Việc đăng ký tài sản
Dù pháp luật về đăng ký, cung cấp
thông tin có được hoàn thiện, đầy đủ đến
đâu nhưng hiện nay, những quy định về trình
tự, thủ tục chỉ quan tâm tới sự tiện lợi cho cơ
quan quản lý, không hướng đến sự tiện lợi
cho người dân hoặc trường hợp luật đã hợp
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
38 Số 14(366) T6/2018
lý nhưng cơ quan thực hiện chức năng đăng
ký, cung cấp thông tin lại hành xử cứng nhắc,
máy móc thì không những không đáp ứng
nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp
mà còn có tác dụng ngược, trở thành công cụ
để “hành dân”, “hành doanh nghiệp”.
Nếu việc đăng ký tài sản được thực
hiện tốt (tức là mỗi tài sản thuộc diện bắt
buộc đăng ký thì hồ sơ, tài liệu về tài sản này
chứa đựng đầy đủ thông tin trong quá trình
hình thành, phát triển, biến động của tài sản,
tình trạng pháp lý đều phải được thể hiện
trong hồ sơ của cơ quan quản lý, đăng ký)
và việc cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác
các thông tin về tài sản mà cơ quan tài phán
yêu cầu khi giải quyết tranh chấp sẽ vô cùng
thuận lợi cho cơ quan tài phán. Nếu chỉ xét
riêng dưới góc độ này thì việc đăng ký, cung
cấp thông tin về tài sản cho cơ quan tài phán
nói chung, cho tòa án nói riêng sẽ có và giữ
một vai trò vô cùng quan trọng đối với việc
xét xử của tòa án và cơ quan tài phán khác.
Thực tế cũng có những trường hợp nhờ việc
tài sản được đăng ký, và việc cung cấp thông
tin chính xác, kịp thời đã giúp cho việc giải
quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh thương
mại được nhanh chóng, chính xác, góp phần
bảo vệ công ký. Qua thực tiễn xét xử, chúng
tôi nhận thấy có một số vấn đề sau:
Đối với những tài sản mà pháp luật
quy định phải cấp GCN quyền sở hữu,
quyền sử dụng như quyền SDĐ, công trình
xây dựng trên đất - dù có cả một bộ máy
không hề nhỏ làm nhiệm vụ quản lý, đăng
ký và lẽ ra trong hồ sơ của mỗi thửa đất,
mỗi căn nhà đều không chỉ có số liệu về diện
tích, số tầng, kết cấu, mục đích sử dụng mà
phải thể hiện mọi di biến động, tình trạng
pháp lý thửa đất, căn nhà nhưng trong hồ
sơ tại cơ quan quản lý, rất nhiều trường hợp
không có thông tin đầy đủ về sự biến động,
chuyển dịch về pháp lý hoặc các sự kiện
pháp lý có liên quan như tài sản đang bị kê
biên, đang cho thuê, không hiếm trường
hợp thông tin không chính xác (về diện tích,
về số thửa, về những chủ thể có quyền đối
với tài sản này. Ví dụ, trên GCN ghi cấp cho
hộ gia đình nhưng chính cơ quan đã đăng ký
không biết hộ gồm những ai, ai có quyền đối
với thửa đất hoặc nhà đất đó). Khi có tranh
chấp quyền sở hữu, quyền sử dụng, tranh
chấp liên quan đến giao dịch như chuyển
nhượng, thế chấp, bảo lãnh đối với tài sản
này thì Tòa án gặp một bài toán vô cùng khó
giải mà nguyên nhân là do cơ quan đăng ký
không cung cấp được thông tin hoặc cung
cấp không đầy đủ hay không chính xác.
Theo quy định của pháp luật, loại tài
sản này phải được cấp GCN quyền sở hữu,
quyền sử dụng. Chỉ khi thửa đất (nhà đất)
được cấp GCN mới được tham gia giao
dịch, trong khi đó việc cấp GCN quá chậm,
không hiếm trường hợp gây khó cho chủ tài
sản trong quá trình làm thủ tục cấp giấy. Có
trường hợp toàn bộ thửa đất đã có đủ tài liệu
xác định thuộc quyền sử dụng hợp pháp,
nhưng chỉ làm thủ tục cấp GCN quyền SDĐ
cho một ½ thửa đất dù trên đó đã có trọn
một căn nhà đang nằm trên gần như toàn bộ
thửa đất đó.
Cần phải thấy GCN quyền sở hữu,
quyền sử dụng chỉ là một thủ tục hành chính
ghi nhận tài sản của chủ thể có quyền, chứ
GCN không tạo ra tài sản đó, không phải là
ban phát quyền tài sản cho chủ thể được cấp
GCN. Vì thế, những sai sót trong xây dựng,
nếu cần chỉ có thể phạt hành chính (trừ
trường hợp làm sai giấy phép vi phạm quy
hoạch, phạm vào quy định cấm thì không
cho tồn tại), nhưng chỉ vì sai sót đó, việc
không cấp GCN liệu đã đúng, đã vì dân, việc
cấp giấy không ghi tài sản trên đất đã xuất
phát từ lợi ích của người dân, và giúp ích gì
cho sự phát triển kinh tế, xã hội? Nhà nước
được gì trong cách hành xử này hay chỉ làm
mất lòng dân?
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
39Số 14(366) T6/2018
Người dân không thể xóa bỏ cảm giác
rất rõ ràng là cơ quan làm nhiệm vụ này
đang quan tâm đến “cái quyền”, sử dụng
quyền của mình hơn là vì dân, là xuất phát
từ sự phát triển ổn định kinh tế, xã hội. Hành
vi đó của cơ quan đăng ký đang tạo ra trở
ngại khi đưa tài sản vào lưu thông. Có phải
những người đang thừa hành nghĩ rằng việc
cấp GCN là hành vi trao quyền tài sản, chưa
hiểu rằng “cái quyền” mà họ đang có chỉ là
sản phẩm theo chức năng khi cơ quan đó
được ra đời, và chính người dân đang đóng
thuế, trả tiền để “nuôi” nó tồn tại, chỉ làm
một việc là ghi nhận một thực tế của chủ thể
có quyền tài sản.
Dù về hình thức, loại tài sản có tên gọi
là “quyền SDĐ” đã được đăng ký, nhưng tài
sản trên đất không thể hiện trên GCN hoặc
thể hiện không chính xác về diện tích đất,
về tài sản trên đất lại là một nguyên nhân
gây nên tranh chấp. Việc đăng ký này cũng
không giúp ích gì cho cơ quan xét xử, nhất
là trong chính hồ sơ của cơ quan nhà nước
đang quản lý các thông tin cũng mâu thuẫn
hoặc không có những thông tin quan trọng
giúp cho việc giải quyết tranh chấp dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương
mại được thuận lợi, nhanh chóng, tiết kiệm.
Khi giao đất, giao rừng chỉ ghi diện
tích trên giấy, không đo đạc, không xác định
mốc giới rõ ràng (loại việc này xảy ra nhiều
hơn ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên)
dẫn đến diện tích trên giấy không khớp với
thực tế, cấp chồng lấn lên nhau là nguyên
nhân dẫn đến tranh chấp, Tòa án không
thể đơn thuần căn cứ vào quyết định giao
đất, GCN đã cấp cho một bên hoặc cả hai
bên (nhất là trường hợp cấp chồng lấn lên
nhau) để giải quyết mà phải thu thập, xác
minh từ nhiều nguồn tài liệu, chứng cứ, từ
nhiều cá nhân, cơ quan nhà nước và cùng
cơ quan chuyên môn thẩm định tại chỗ, có
trường hợp phải tiến hành nhiều lần mới có
thể giải quyết được.
Do cách làm (trên đất có tài sản nhưng
chỉ cấp GCN quyền SDĐ, không thể hiện
trên GCN trên đất có tài sản gắn liền với đất;
nhà của một người, quyền SDĐ lại thuộc
chủ thể khác cũng không được thể hiện,
trong khi chỉ cần xử lý chút xíu về kỹ thuật
là nhận biết ngay khi nhìn vào GCN quyền
SDĐ) hoặc do nhầm lẫn, cẩu thả, GCN
không phản ánh đúng thực tế, nếu Tòa án chỉ
căn cứ vào các thông tin về tài sản trên giấy
đăng ký mà phán xử thì bản án đã phạm sai
lầm nghiêm trọng, sẽ bị hủy ngay.
Có thể nói, thực trạng hoạt động đăng
ký hiện nay chưa tạo thuận lợi cho người
dân, doanh nghiệp, chưa hỗ trợ cơ quan tài
phán nói chung, cho Tòa án nói riêng trong
quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ.
Không khó để nhận thấy do tài sản
thuộc loại phải đăng ký mới được tham gia
giao dịch nên người dân buộc phải đăng
ký, chứ không phải do có sự tiện lợi để chủ
động, tự giác và mong muốn đăng ký - đó
là một thực tế rất đáng suy ngẫm của các
cơ quan tham mưu hoàn thiện pháp luật về
đăng ký và của cơ quan lập pháp.
2.2 Hình thức đăng ký GDBĐ
Đánh giá một cách công bằng, hoạt
động đăng ký GDBĐ thời gian qua đã làm
tăng tính an toàn cho giao dịch, bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, góp
phần vào sự phát triển bền vững của nền
kinh tế. Đồng thời, hoạt động này giúp cho
việc xét xử của Tòa án được thuận lợi, chính
xác. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng cho
thấy, hoạt động đăng ký GDBĐ còn nhiều
bất cập. Có những bất cập từ thể chế tạo ra sự
chia cắt, không có tính kết nối liên hoàn giữa
đăng ký tài sản và đăng ký GDBĐ; có những
bất cập từ thủ tục, hồ sơ đăng ký; có những
bất cập xuất phát từ sự minh bạch thông tin,
có những bất cập xuất phát từ việc áp dụng
các quy định của pháp luật về đăng ký giao
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
40 Số 14(366) T6/2018
dịch của cán bộ thừa hành do quá máy móc,
cứng nhắc hoặc thiếu trách nhiệm.
Những bất cập từ thể chế một phần
xuất phát từ sự phân tách theo chức năng,
thẩm quyền quản lý nhà nước của bộ, ngành
quản lý tài sản đó, và thiếu sự công khai,
minh bạch kết nối thông tin với nhau gây
nên, có lẽ ai cũng đã nhìn thấy. Ví dụ,
Điều 28 Nghị định 8020/VBHN-BTP ngày
10/12/2013 quy định về đăng ký GDBĐ
như sau:
“1. Hồ sơ đăng ký GDBĐ bằng
quyền SDĐ, tài sản gắn liền với đất (01 bộ)
gồm có:
a) Đơn yêu cầu đăng ký GDBĐ;
b) Hợp đồng bảo đảm hoặc hợp đồng
bảo đảm có công chứng hoặc chứng thực
theo quy định của pháp luật;
c) GCN quyền SDĐ, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc
các GCN đã cấp qua các thời kỳ;
d) Trường hợp người yêu cầu đăng ký
là người được ủy quyền thì phải có văn bản
ủy quyền.
2. Trong thời hạn giải quyết hồ sơ,
Văn phòng đăng ký quyền SDĐ thực hiện
các việc sau:
a) Ghi nội dung đăng ký GDBĐ vào
GCN quy định tại điểm c khoản 1 Điều này
vào Sổ Địa chính, Sổ theo dõi biến động đất
đai theo quy định của pháp luật;
b) Chứng nhận việc đăng ký vào Đơn
yêu cầu đăng ký GDBĐ;
c) Trả kết quả cho người yêu cầu đăng
ký theo quy định tại Điều 19 của Nghị định
này”.
Quy định cứng trong hồ sơ phải có: "c)
GCN quyền SDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất hoặc các GCN đã
cấp qua các thời kỳ;” dẫn đến bất cập sau:
một là, tài sản đó có các giấy tờ khác hoàn
toàn có căn cứ xác định chủ sở hữu, chủ sử
dụng hợp pháp sẽ không thể tham gia vào
GDBĐ và được đăng ký GDBĐ; hai là, tài
sản tham gia GDBĐ là quyền SDĐ đã được
cấp GCN quyền SDĐ, nhưng trên đất này
có tài sản gắn liền với đất như nhà ở, công
trình xây dựng khác nhưng chưa được cấp
GCN quyền sở hữu thì khi đăng ký GDBĐ
chỉ đăng ký về quyền SDĐ, nếu chủ sở hữu,
chủ thể nhận bảo đảm muốn đăng ký trong
GDBĐ gồm cả tài sản trên đất thì không
được chấp nhận, hoặc sẽ bị từ chối việc đăng
ký GDBĐ.
Rõ ràng, cách quy định này đã khuôn
thực tiễn cuộc sống vào đó chứ không phải
phản ánh những gì cuộc sống đang diễn ra.
Nếu tiếp cận theo hướng ghi nhận thực tế
cuộc sống (thuộc những trường hợp có cơ sở
và bảo đảm an toàn cho giao dịch) thì hoàn
toàn có lựa chọn khác trong việc quy định
về hồ sơ đăng ký GDBĐ, để mở rộng diện
tài sản tham gia GDBĐ và đăng ký GDBĐ.
Không hiếm trường hợp, việc áp dụng
các quy định pháp luật của một số văn phòng
công chứng, của cán bộ làm nhiệm vụ đăng
ký GDBĐ còn cứng nhắc, máy móc, chỉ
quan tâm tạo sự thuận lợi, an toàn cho mình,
sợ trách nhiệm, khiến cho những quy định
của pháp luật vốn cứng nhắc càng trở nên
khô cứng, thiếu sức sống dẫn đến gây khó
khăn phiền hà và không hiếm GDBĐ được
đăng ký không phản ánh đúng tài sản trên
thực tế, nhưng lại được cơ quan có thẩm
quyền đăng ký giao dịch công nhận.
Rất nhiều trường hợp tài sản trên đất
đã có biến động như nhà ở được cơi nới, làm
thêm công trình phụ từ trước thời điểm đăng
ký GDBĐ, nhưng trong đăng ký GDBĐ
không thể hiện những tài sản này, dù các chủ
thể hoàn toàn tự nguyện và muốn đưa những
tài sản này vào trong đăng ký GDBĐ.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
41Số 14(366) T6/2018
Tài sản mà trong GCN ghi là hộ gia
đình sẽ dễ dàng được đăng ký GDBĐ (chỉ
vì đã có GCN quyền sử dụng, sở hữu) dù
từ khi xác lập giao dịch, đến khi đăng ký
GDBĐ không biết hộ (được ghi trong GCN)
gồm những ai, thậm chí có trường hợp chính
thành viên trong gia đình cũng giải thích
khác nhau về thành viên trong hộ theo GCN.
Vì thế, đã có một tỷ lệ đáng kể về trường
hợp GDBĐ dù được đăng ký nhưng vẫn bị
vô hiệu v.v..
Có thể khi xây dựng các quy phạm, do
cách tiếp cận chỉ quan tâm chủ yếu đến khía
cạnh quản lý, thuận lợi cho cơ quan quản
lý, cũng như khi áp dụng đã thiên về hình
thức, chứ không phải là để ghi nhận, phản
ánh đúng những gì đã, đang diễn ra, vì thế,
không chú ý, không quan tâm đến thực tế
của tài sản, và tất yếu dẫn đến không bảo
đảm an toàn cho giao dịch. Thời điểm BLDS
năm 2005 còn hiệu lực, rất nhiều giao dịch
thuộc các dạng nói trên bị vô hiệu hoặc rất
khó khi xử lý tài sản bảo đảm.
Với tình trạng đã diễn ra như đã nêu
trên, tài sản đã được đăng ký, đăng ký
GDBĐ chưa đạt hiệu quả cao, chưa bảo đảm
ổn định, an toàn trong giao dịch, không giúp
giảm hoạt động xác minh tình trạng tài sản
của cơ quan tài phán nói chung, của Tòa án
nói riêng. Thực tế đó rất đáng để cơ quan lập
pháp, cơ quan thực hiện việc đăng ký suy
ngẫm và cần phải rút ra những kinh nghiệm
và tính tới khi muốn hoàn thiện pháp luật về
đăng ký tài sản, đăng ký GDBĐ cũng như
tập huấn cho cán bộ thực hiện việc đăng ký
(đăng ký tài sản, đăng ký GDBĐ) thường
xuyên, nội dung đầy đủ, chính xác với bản
chất, yêu cầu của luật và phản ánh đúng
những gì cuộc sống đang diễn ra.
Thiết nghĩ, đối với cơ quan xây dựng
pháp luật, không nên tiếp cận việc đăng ký
tài sản, đăng ký GDBĐ theo hướng chủ yếu
phục vụ cho quản lý, dễ cho cơ quan quản
lý. Đối với tài sản bắt buộc đăng ký, việc
đăng ký tài sản đương nhiên cần đáp ứng
yêu cầu quản lý nhà nước, nhưng phải xác
định đó không phải là mục đích duy nhất,
càng không phải là mục tiêu chính, mà mục
tiêu chính, cơ bản phải là hướng đến phục
vụ các chủ thể có quyền tài sản, bảo đảm
an toàn cho các chủ thể bao gồm chủ chủ
sở hữu, sử dụng, chủ có quyền tài sản khác,
của giao dịch, quyền và lợi ích của các bên,
và quan trọng là góp phần huy động, thúc
đẩy được nhiều nguồn lực tài chính vào thị
trường, vận hành trên hành lang pháp lý an
toàn. Đồng thời, cần quy định việc thực hiện
công khai, minh bạch thông tin, về tình trạng
pháp lý của tài sản. Một khi đã minh mạch
hóa thông tin, tình trạng pháp lý về tài sản thì
rủi ro mà các bên có thể gặp sẽ giảm hẳn, sẽ
thúc đẩy giao lưu dân sự, tăng tính ổn định
cho giao dịch; tranh chấp sẽ giảm và nếu có
tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp dễ
dàng thu thập, kiểm tra thông tin, việc giải
quyết sẽ thuận lợi, nhanh chóng, chính xác.
Khi đó, hoạt động của các cơ quan này sẽ
góp một phần vào cải thiện chỉ số hợp đồng
khi đánh giá về năng lực cạnh tranh ở Việt
Nam. Ngược lại, nếu quá trình hoàn thiện
pháp luật về đăng ký không đáp ứng được
các yêu cầu chủ yếu trên, đó sẽ là sự thất bại
của công tác hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
42 Số 14(366) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_dang_ky_va_cung_cap_thong_tin_tai_san_trong_giai.pdf