Các cân đối chủ yếu trong nến kinh tế như cân đối tích luỹ – tiêu dùng, tổng thu- tổng chi ngân sách đã bắt đầu được duy trì với một mức độ thích hợp để đảm bảo duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng, các quan hệ quốc tế được củng cố và mở rộng bằng việc gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực, các cam kết quốc tế đa phương và song phương.
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn rất nhiều yếu kém tồn tại cần khắc phục như năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, kém bền vững, lĩnh vực xuất nhập khẩu còn gặp nhiều khó khăn, việc sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế đạt hiệu quả chưa cao. trong quá trình phát triển và hội nhập săp tới.
2.2 Về các mặt văn hoá - xã hội:
Nhìn chung, các hoạt động xã hội đều có bước phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, tình hình chính trị và an toàn xã hội được đảm bảo. Cụ thể là:
+ Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được các kết quả đáng khích lệ.
+ Số lượng lao động được giải quyết việc làm cũng như cơ cấu lao động có sự dịch chuyển theo hướng tích cực.
29 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng luật pháp
Môi trường luật pháp ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các chính sách, quy định, luật cần thiết dảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo và có tính hiệu lực cao.
- Chính sách sở hữu: với mục đích chính là kiểm soát các hoạt động của các nhà đầu tư, việc khống chế một mức vốn sở hữu là một biện pháp quan trọng để hạn chế sự can thiệp của nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam quy định các nhà đầu phải góp vốn không ít hơn 30% đối với hình thức liên doanh.
- Chính sách thuế: bao gồm các nội dung liên quan đến các loại thuế, mức thuế, thời gian miễn giảm thuế, thời gian khấu hao và các điều kiện ưu đãi khác.
- Chính sách lệ phí: quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vụ cấp giấy phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc...)
- Chính sách quản lý ngoại hối: bao gồm các quy định về việc mở tài khoản ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Việc chuyển đổi giữa đồng nội tệ và ngoại tệ cũng như việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài được quy định khác nhau giữa các nước.
- Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài: Trong quá trình hình thành và triển khai dự án, chủ đầu tư phải chịu sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền đại diện cho nước chủ nhà từ khâu cấp giấy phép, thẩm định dự án đến quản lý việc thực hiện dự án. Theo đó, một dự án được chấp nhận phải có sự nhất trí của tất cả các cơ quan này gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư. Để khắc phục những hạn chế này, một số nước đã áp dụng hình thức “một cửa”, có nghĩa là nhà đầu tư chỉ phải liên hệ với một cơ quan chức năng để đề nghị thẩm định dự án của mình. Mọi thủ tục thẩm định sẽ do cơ quan này phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan khác tiến hành. Hình thức này đã được áp dụng tại một số nước như Thái Lan, Malayxia, Singapore...
- Các chính sách và quy định khác như chính sách về công nghệ, chính sách môi trường, chính sách lao động tiền lương, chính sách sử dụng các nguồn tài nguyên, thủ tục khai báo hải quan, quy định về việc khiếu nại, tranh chấp...
1.3 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
Đó là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số... liên quan đến việc lựa chọn lĩnh vực để đầu tư và khả năng sinh lời của dự án. Khí hậu nhiệt đới gió mùa thường ảnh hưởng không tốt đến tuổi thọ của máy móc thiết bị có nguồn gốc từ phương Tây. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào phong phú sẽ thu hút các nhà đầu tư, giảm chi phí và giá thành. Dân cư đông sẽ là nguồn cung ứng sức lao động dồi dào và là thị trường tiềm năng để tiêu thụ hàng hoá.
1.4 Điều kiện phát triển kinh tế
Mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô thấp dẫn tới các hiện tượng lạm phát cao, nợ nước ngoài nhiều, tham nhũng, thủ tục hành chính rườm rà, tăng trưởng kinh tế thấp... là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên khủng hoảng.
Chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của các nhà đầu tư nước ngoài, khiến tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm không cao.
Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng lao động, tài chính cũng là những yếu tố rất cần thiết để thu hút các nhà đâu tư nươc ngoài.
Tính cạnh tranh của nước chủ nhà cao sẽ giảm được rào cản đối với đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vực đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình.
1.5 Đặc điểm phát triển văn hoá xã hội
Bao gồm các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mỹ, hệ thống giáo dục, đạo đức...
Sự bất đồng về ngôn ngữ và văn hoá trong một số trường hợp đã mang lại những hậu quả không lường trong kinh doanh. Tinh thần tự trọng dân tộc quá cao cùng với thái độ bài ngoại sẽ là rào cản lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà ĐTNN không muốn đầu tư vào một nước có quá nhiều phong tục tập quán khác nhau bởi điều này khiến cho họ khó hoà nhập và không thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của họ.
Thẩm mỹ dân tộc của nước chủ nhà là một yếu tố quan trọng để thu hút ĐTNN chọ các hình thức quảng cáo và bao bì sản phẩm. Trình độ phát triển giáo dục- đào tạo sẽ quyết định chất lượng của đội ngũ lao động.
2) Đối với nước chủ đầu tư
2.1 Thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô
Sự thay đổi của các chính sách tài chính- tiền tệ tác động mạnh đến lãi suất, làm tăng hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Việc thay đổi chính sách từ “nới lỏng tiền tệ- thắt chặt tài chính” sáng “thắt chặt tiền tệ - nới lỏng tài chính” sẽ làm cho mức lãi suất trong nước cao hơn, cải thiện môi trường đầu tư trong nước từ đó làm giảm đầu tư ra nước ngoài.
Thay đổi chính sách tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến lạm phát, lạm phát cao có nghĩa là đồng nội tệ mất giá khiến hoạt động đầu tư ra nước ngoài giảm và ngược lại.
ảnh hưởng của chính sách XNK của nước đầu tư đến dòng vốn đầu tư ra nước ngoài được thể hiện ở chỗ: các ưu đãi khuyến khích xuất khẩu trong các hiệp định thương mại sẽ khiến cho hàng hoá và dịch vụ của nước đầu tư có cơ hội thuận lợi thâm nhập thị trường nước khác, do đó động cơ đầu tư ra nước ngoài để vượt qua rào cản thương mại sẽ giảm mạnh. Đối với nhập khẩu cũng vậy, nếu nước đầu tư hạ mức rào cản đối hàng hóa từ nước ngoài nhất là từ các nước đang phát triển thì các nhà đầu tư trong nước sẽ có nhiều cơ hội tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm kiếm nguồn nguyên liệu mới để sản xuất hàng hoá và lại nhập khẩu lại nước mình.
Nếu nước đầu tư nới lỏng các chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá thị trường vốn thì các nhà đầu tư được quyền tự do chuyển vốn ra nước ngoài và ngược lại. Thực tế cho thấy việc xoá bỏ các quy định quản lý ngoại hối của một số nước như Nhật Bản(1983), Anh (1979), Thuỵ Điển (1980)... đã thúc đẩy mạnh mẽ dòng đầu tư ra nước ngoài của những quốc gia này.
2.2 Các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài
Việc ký kết các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng hàng đầu để đảm bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư nươc ngoài. Các hiệp định đầu tư song phương và các hiệp định đa biên được ký nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, từ cuối những năm 80, số hiệp định đầu tư song phương giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển tăng nhanh khiến cho dòng đầu tư ra nước ngoài của các nước phát triển vào các nước đang phát triển cũng tăng theo.
Cùng với các hiệp định trên, hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa nước đầu tư với nước ngoài cũng tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư bởi họ chỉ chịu một lần thuế ở nước nhận đầu tư mà thôi.
Việc các nước đầu tư áp dụng chính sách bảo hiểm vốn đầu tư cũng là yếu tố tác động mạnh đến luồng đầu tư ra nước ngoài. Chẳng hạn, năm 1992, chính phủ Nhật Bản tuyên bố bảo hiểm đầu tư cho các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam đã khiến cho dòng đầu tư của Nhật vào Việt Nam tăng mạnh.
2.3 Tiểm lực kinh tế, khoa học công nghệ và các chính sách xã hội
Một nước chỉ có thể đầu tư ra nước ngoài khi tiềm lực kinh tế đã đủ mạnh, lượng tích luỹ lớn nên lượng vốn cần cho đầu tư trong nước dư thừa. Như vậy, mức độ tích luỹ của nền kinh tế có vai trò làm tăng hoặc giảm áp lực đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài.
Trình độ khoa học công nghệ luôn là một lợi thế cho nước đầu tư. Một nước có khả năng nghiên cứu thường là nước tạo ra công nghệ nguồn và quyết định giá cả công nghệ trên thị trường. Các công nghệ nguồn tạo ra lợi thế cạnh tranh độc quyền và cần sản xuất với quy mô lớn, đây chính là yếu tố quyết định để đầu tư ra nươc ngoài.
Thông thường việc đầu tư ra nước ngoài và tạo việc làm trong nước có mối quan hệ ngược với nhau, việc tăng cường đầu tư ra nước ngoài dẫn tới giảm đầu tư nội địa và cùng nghĩa với việc giảm cơ hội tạo việc làm trong nước, tăng tình trạng thất nghiệp và gia tăng tệ nạn xã hội. Nếu nuớc đầu tư có chính sách trợ cấp xã hội tốt dặc biệt là trợ cấp thát nghiệp sẽ làm giảm áp lực của làn sóng phản đối đầu tư ra nước ngoài.
3. Môi trường đầu tư quốc tế
3.1. Xu hướng dối thoại giữa các nước
Xu hướng đối thoại chính trị được hiểu là việc giải quyết xung đột giữa các nước được thực hiện bằng đàm phán, là yếu tố quan trọng tác động tích cực tới luồng đầu tư trên thế giới.
3.2. Liên kết khu vực
Sự tạo ra các khối thị trường chung cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy dòng đầu tư bởi tuy không đưa ra những chính sách trực tiếp song thông qua các chính sách tự do hoá thương mại đã xoá bỏ rào cản giữa các nước.
Việc liên kết khu vực tạo sự phát triển ổn định cho các nước thành viên, đồng thời buộc các nước cam kết những chính sách tự do hoá đầu tư tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài.
Chương Hai
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI tại Việt Nam thời gian từ 2001- 2004
I/ Khái quát vể môi trường đầu tư tại Việt Nam thời gian qua
1) Vài nét về Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực từ năm 1/1/1988, là một trong những cải cách quan trọng được hình thành trong khuôn khổ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, Bộ luật này còn rất nhiều điều chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế cần được sửa đổi. Chính vì vậy, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ xung lần thứ nhất vào ngày 30 tháng 6 năm năm 1990, lần thứ hai vào tháng12 năm 1992 và đặc biệt Luật đầu tư nước ngoài được tiến hành sửa đổi bổ xung lần thứ 3 vào cuối năm 1996 với một số nội dung mới như sau:
- Quy định một số điều kiện cởi mở hơn nhằm khuyến khích ĐTNN tập trung vào các hướng ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- Theo Luật ĐTNN sửa đổi lần 3, chế độ miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu bị thu hẹp để xích lại gần với chính sách thuế của doanh nghiệp trong nước nhằm đảm bảo sự bình đẳng hơn trong cạnh tranh giữa các loại hình doanh nghiệp. Ngược lại, ưu đãi nhiều hơn đối với các dự án có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao, đầu tư vào những ngành ưu tiên. Mức ưu đãi cao nhất là thuế lợi tức: thuế suất áp dụng ở mức thấp 10% và được miễn thuế suất lợi tức 8 năm thay vì 4 năm trước đây và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo như trước đây.
- Ngoài những khuyến khích về thuế, luật năm 1996 còn quy định một số các chính sách và biện pháp khuyến khích hỗ trợ khác như: (1) Bảo đảm việc cân đối ngoại tệ cho các dự án quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam nhưng thiếu khả năng tự tái tạo ngoại tệ để thu hồi vốn. (2) Cho phép Bên nước ngoài góp vốn bằng tiền Việt Nam có nguồn gốc đầu tư tại VN thay vì chỉ bó hẹp bằng ngoại tệ phải chuyển từ nước ngoài vào như trước đây. (3) Cho phép đầu tư theo một số hình thức mới như BTO, BT, BOT. (4) Thu hẹp tối đa vần để phải biểu quyết 100% trong Hội đồng quản trị xuống còn 4 vấn để chính là bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất, Kế toán trưởng; duyệt quyết toán thu chi hàng năm; sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, vay vốn đầu tư. (5) Cho phép bệnh viện, trường học viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên được hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Như vậy, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, theo luật lần này tuy có một số quy định thay đổi theo hướng bất lợi cho họ như thuế nhập khẩu vật tư. Bù lại, họ được ưu đãi nhiều hơn, được hỗ trợ nhiều hơn, cụ thể hơn khi thực hiện các dự án thuộc diện khuyến khích.
Việc đẩy mạnh CNH-HĐH trong thời kỳ mới đăt ra những yêu cầu mới do đó Luật ĐTNN được sửa đổi bổ xung lần 4 được tiến hành sửa đổi vào tháng 6 năm 2000 với các định chế hướng vào ngành vùng ưu tiên như ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu, công nghệ cao, CN cơ khí, điện tử là những ngành mà ta có thế mạnh nguyên liệu và lao động. Cụ thể luật ĐTNN sửa đội một số vấn đề sau:
- Tiếp tục thu hẹp phạm vi quy định về nguyên tắc nhất trí trong doanh nghiệp liên doanh.
- Tạo điều kiện cho nhà ĐTNN tự do lựa chọn hình thức và chuyển nhượng vốn đầu tư cho phù hợp với thông lệ quốc tế hơn.
- Giảm bớt mức can thiệp của nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trong DN liên doanh bằng việc sửa lại quỹ dự phòng do doanh nghiệp quyết định (trước đây giới hạn ở mức 10% vốn phấp định của doanh nghiệp).
- Một số quy định về tài chính, ngoại hối đã được sửa đổi hoặc luật hoá: (1) Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: điều chỉnh từ mức 5%, 7% và 10% xuống còn 3%, 5% và 7%. (2) Về quy định chuyển lỗ: mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh bao gồm cả DN liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh( trước đây chỉ có DNLD). (4) Về quản lý ngoại hối: các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được mua ngoại tệ ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch khác được phép theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối (trước đây là doanh nghiệp phải tự cân đối). (5) Vè thế chấp tài sản vay vốn: cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp tài sản gắn liền đất và giá trị quyền sử dụng đất để đảm bảo vay vốn tại các TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam.
Bên cạnh Luật ĐTTN, Chính phủ và các cấp ngành có liên quan đã ban hành hàng loạt các văn bản dưới luật để ngày càng hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ĐTNN ở Việt Nam.
Nói tóm lại, kể từ khi Luật ĐTNN chính thức có hiệu lực, trong quá trình thực hiện nhà nước ta đã bổ sung nhằm hoàn thiện dần và ngày càng lôi cuốn được các nhà đầu tư. Nếu so sánh với các nước ASEAN Luật ĐTNN của Việt Nam đã đạt tới mức tương đối hấp dẫn tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế nhằm thu hút và thực hiện có hiệu quả hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
2) Vài nét về kinh tế- xã hội
2.1 Về tình hình phát triển kinh tế:
Sau một số năm giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và những khó khăn nội tại nền kinh tế, từ năm 2000, nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày càng được phục hồi duy trì được khả năng tăng trưởng cao. Kinh tế phát triển theo chiều hướng tích cực, năm sau tăng hơn năm trước. Dự kiến GDP bình quân thời gian từ 2001- 2005 tăng 7,4%/ năm trong đó nông lâm ngư nghiệp đạt3,4%/năm, khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 10,2% năm và các ngành dịch vụ đạt 6,9%/năm. Đây cũng là mức tăng trưởng khá cao so với các nước trong khu trong cùng thời kỳ.
+ Trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể về cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm. Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hoá ngành nghề, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm sản xuất thuần nông.
Nhiều làng nghề đã được khôi phục, cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là đường giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước, trường học, bệnh xá, chợ... đã được chú ý đầu tư. Thu nhập của người nông dân cũng từng bước được cải thiện.
+ Trong công nghiệp đã có bước tiến khá rõ nét trong việc cơ cấu lại sản xuất đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, hình thành một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp kỹ thuật cao tạo cơ sở ban đầu cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa; phát huy lợi thế của từng ngành, gắn sản xuất với thị trường, sản phẩm tiêu thụ khá.
+ Các ngành dịch vụ đã có bước chuyển biến tích cực, theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư.
Ngành thương mại hoạt động sôi nổi đảm bảo lưu thông hàng hoá và vật tư trong cả nước và trong từng vùng. Dịch vụ vận tải hành khách và hàng hoá tiếp tục phát triển, cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lưu hàng hoá và đi lại của nhân dân. Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh, mạng lưới viễn thông về cơ bản đã được hiện đại hoá, chất lượng dịch vụ được cải thiện trong khi giá cả liên tục giảm dần. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn pháp luật, y tế, giáo dục đào tạo... đều có những bước phát triển khá so với thời kỳ trước năm 2000.
Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm xuồng còn 24,5 % trong năm 2000 xuống còn 20,4% năm 2004, các ngành sản xuất dịch vụ đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Các cân đối chủ yếu trong nến kinh tế như cân đối tích luỹ – tiêu dùng, tổng thu- tổng chi ngân sách đã bắt đầu được duy trì với một mức độ thích hợp để đảm bảo duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng, các quan hệ quốc tế được củng cố và mở rộng bằng việc gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực, các cam kết quốc tế đa phương và song phương.
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn rất nhiều yếu kém tồn tại cần khắc phục như năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, kém bền vững, lĩnh vực xuất nhập khẩu còn gặp nhiều khó khăn, việc sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế đạt hiệu quả chưa cao... trong quá trình phát triển và hội nhập săp tới.
2.2 Về các mặt văn hoá - xã hội:
Nhìn chung, các hoạt động xã hội đều có bước phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, tình hình chính trị và an toàn xã hội được đảm bảo. Cụ thể là:
+ Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được các kết quả đáng khích lệ.
+ Số lượng lao động được giải quyết việc làm cũng như cơ cấu lao động có sự dịch chuyển theo hướng tích cực.
+ Hệ thống cung cấp y tế đã được mở rộng và ngày càng hoàn thiện, tuổi thọ bình quân ngày càng được nâng lên.
+ Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả khá.
+ Lĩnh vực văn hoá thông tin và thể dục thể thao đã có những hoạt động sôi nổi thúc đẩy các hoạt động kinh tế và ổn định đời sống xã hội.
+ Cơ cấu lao động đã sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ lệ thất nghiệp giảm, tỷ trong lao động lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm trong khi tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành lao động, dịch vụ lại tăng lên
+ Lĩnh vực giáo dục đã có những chuyển biến tích cực trong các bậc học, ngành học.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đat được, về mặt văn hoá - xã hội vẫn còn rất nhiều vấn đề bức xúc như tệ nạn xã hôị, nạn tham nhũng, tai nạn giao thông, trật tự trị an ở một số vùng còn phức tạp... cần tiếp tục khắc phục trong thời gian tới.
II/ Vai trò của FDI tại Việt Nam thời gian qua.
Các số liệu thực hiện:
a) Về quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, trong 4 năm 2001- 2004, Việt Nam đã thu hút thêm được 13,39 tỷ USD vốn đầu tư mới (gồm vốn đăng ký cấp mới và dự án bổ sung). Trong đó, vốn đăng ký của các dự án cấp mới đạt 8,48 tỷ USD, chiếm 63.3%; vốn bổ sung của các dự án đạt 4,9 tỷ USD, chiếm 36,7% tổng giá trị vốn đăng ký mới. Tổng vốn đầu tư thực hiện trong 4 năm đạt 10,5 tỷ USD. (Xem bảng số liệu)
Bảng 1: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001- 2004
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
1
Tổng VĐT cấp mới và tăng vốn
Tỷ USD
3,.2
2, 8
3, 1
4, 2
2
Vốn đăng ký cấp mới
nt
2, 6
1, 6
1, 9
2, 2
3
Vốn đăng ký tăng thêm
nt
0, 632
1, 2
1, 2
2
4
Tổng VĐT thực hiện
nt
2, 43
2, 59
2, 65
2, 85
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nhìn chung, từ năm 2001 đến nay, vốn FDI thực hiện năm sau cao hơn năm trước cho thấy xu hướng phục hồi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng rõ rệt, nhất là từ năm 2003 đến nay.
b) Về cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Về cơ cấu ngành, trong 4 năm 2001- 2004, vốn thực hiện tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, đạt 8, 77 tỷ, chiếm 83, 4% tổng vốn thực hiện, trong đó chủ yếu là công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến. Lĩnh vực dịch vụ đạt 1, 09 tỷ USD chiếm 10, 4% tổng vốn thực hiện. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp đạt 653, 6 triệu USD, chiếm 6, 2%. Về cơ cấu vùng và lãnh thổ trong 4 năm 2001- 2004, vốn thực hiện tập trung vào những địa bàn có nhiều lợi thế, Vùng Đông Nam Bộ đạt 4, 4 tỷ USD chiếm 41,8%; Vùng đồng bằng Sông Hồng đạt 2 tỷ USD, chiếm 19%; Vuàng Trung du miền núi phía Bắc đạt 118 triệu USD, chiếm 1, 2 %; Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung đạt 470, 6 triệu USD, chiếm 4,5 %; Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 236,4 triệu USD, chiếm 2,2%; Vùng Tây Nguyên đạt 27 triệu USD, chiếm 0,3%.
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Như vậy, FDI chủ yếu tập trung hướng mạnh vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng... trong khi tỷ trọng đầu tư vào các ngành dịch vụ và đặc biệt là lĩnh vực nông- lâm- nghư nghiệp chưa cao nguyên nhân là do tỷ suất lợi nhuận không cao, độ rủi ro lớn và thường phải đầu tư ở vùng sâu, vùng xa nơi có điều kiện kinh tế- xã hội còn khó khăn.
Về cơ cấu vùng, lãnh thổ FDI đã có sự phân bố đồng đều hơn. Tuy nhiên, các vùng kinh tế trọng điểm nơi có các tỉnh, thành phố lớn vẫn là nơi dẫn đầu trong việc thu FDI đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút tới 41, 8%.
c) Về doanh thu Xuất – Nhập khẩu
Tổng giá trị doanh thu trong 4 năm 2001-2004 đạt trên 56 tỷ USD (không kể dầu khí), trong đó giá trị xuất khẩu là 23,4 tỷ USD, chiếm 42% tổng doanh thu. Giá trị doanh thu của các doanh nghiệp FDI tăng lên hàng năm, trung bình trong 4 năm 2001- 2004 tăng 18,4%. Cụ thể là:
+ Năm 2001 doanh thu đạt 10,4 tỷ USD, tăng 10,3% so với năm 2000
+ Năm 2002 doanh thu đạt 12,5 tỷ USD, tăng 20,2% so với năm 2001
+ Năm 2003 doanh thu đạt 16 tỷ USD, tăng 27,7% so với năm 2002
+ Năm 2004 doanh thu đạt 18 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2003
Tổng giá trị nhập khẩu trong 4 năm 2001- 2004 đạt khoảng 31,3 tỷ. Tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong 4 năm 2001- 2004 đạt 39,3 tỷ USD, chiểm 50, 1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tỷ trọng của khu FDI so với kim ngạch xuất khẩu của cả nước là theo các năm là từ 2001- 2004 là 45, 3%; 47,1%; 50,3% và 54,6%. Tốc độ gia tăng xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN bình quân hàng năm đạt 29, 15% cao hơn mức tăng xuất khẩu bình quân của cả nước, đã góp phần nâng cao tốc độ tăng xuất khẩu của nước ta (Xem bảng sau)
Bảng 2: Giá trị xuất khẩu của FDI thời gian từ 2001- 2004
Giá trị xuất khẩu
Đơn vị
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
XK că nước
Triệu USD
15.029
16.706
20.176
26.503
XK của FDI (cả dầu thô)
nt
6.789
7.872
10.161
14.487
XK của FDI (trừ dầu thô)
nt
3.673
4.602
6.340
8.816
Tỷ trọng của FDI/cả nước
nt
45.3
47.1
50.3
54.6
Tỷ trọng của FDI/cả nước
nt
24.4
27.5
31.4
33.3
Nguồn: Cục Đầu tư nươc ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
d) Về lao động và thu nhập
Trong 4 năm 2001- 2004, có khoảng 960 doanh nghiệp FDI đi vào hoạt động, tạo thêm việc làm cho 38 vạn lao động, đưa tổng số lao động trực tiếp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN lên khoảng 76 vạn người. Trung bình mỗi năm có 240 doanh nghiệp ĐTNN mới ra đời và tạo ra 9,5 vạn chỗ làm việc mới.
Lương bình quân của lao động Việt Nam trong khu vực ĐTNN từ 75-80 USD/tháng, cao hơn bình quân chung của các doanh nghiệp trong nước.
f) Về nộp ngân sách
Trong 4 năm 2001-2004, nộp ngân sách của khu vực kinh tế có vốn FDI năm sau cao hơn năm trước. Năm 2001 đạt 373 triệu USD; năm 2002 đạt 459 USD, tăng 23% so với năm 2001; năm 2003 đạt 628 triệu USD, tăng 36,8% so với năm 2002 và năm 2004 đạt 800 triệu USD tăng 27,3 % so với năm 2003. Nộp ngân sách của khu vực có vốn FDI tăng cao do có nhiều dự án đã hết thời gian được hưởng ưu đãi miễn giảm thuế theo quy đình và có nhiều doanh nghiệp mới đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và đầu tư).
2) Đánh giá tình hình thực hiện FDI thời gian qua
a) Thành tựu
Trong thời gian từ 2001-2004 hoạt động FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội đặc biệt là đối với vấn đề tăng trưỏng kinh tế. Cụ thể là:
- FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế.
Thực vậy, Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN luôn là khu vực phát triển năng động, với tốc độ tăng trưởng cao, luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nước đã góp phần tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của cả nước.Bình quân mối năm, khu vực kinh tế có vốn FDI đã bổ sung trên 2,5 tỷ USD nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
- Việc tăng cường thu hút FDI hướng về xuất khẩu đã góp phần quan trọng nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tạo điều kiện khai thác tốt các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương.
Ngoài ra, khu vực FDI đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt trong lĩnh vực khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế.
- Việc thu hút FDI đã chú trọng nhiều hơn đến chất lượng, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ tại Việt Nam.
Năm 2004, khu vực FDI đã tạo ra 36,2% giá trị sản lượng công nghiệp, 28,7% sản lượng thép cán, 50,3% về sứ vệ sinh, 89,4% về ô tô, 25% về thực phẩm và đồ uống, 76% về dụng cụ y tế...
Đối với các địa bàn trọng điểm (Hà nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu...) khu vực có vốn FDI đã chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, giá trị sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, thu ngân sách, cũng như góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nhờ đó các địa phương này có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn nhiều so với các nơi khác trong cả nước.
Ngoài ra, việc thu hút FDI đã chú trọng kết hợp các dự án công nghệ hiện đại với các dự án thu hút nhiều lao động đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ trong nhiều ngành nghề, nâng cao trình độ kinh nghiệm quản lý kin h doanh từ đó góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước cải tiến chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Thông qua sự đóng góp của khu vực FDI, các quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam với các nước ngày càng mở rộng đã tạo thêm nhu cầu và khả năng phát triển các ngành dịch vụ. Ngược lại, sự phát triển của các ngành dịch vụ cũng góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
b) Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động FDI trong thời gian qua vẫn còn nhiều mặt hạn chế cần khắc phục. Cụ thể là:
- Vốn đầu tư đăng ký tuy tăng, nhưng vẫn còn dưới mức tiềm năng.
- Vốn đầu tư thực hiện tuy tăng qua các năm nhưng tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng giảm dần do vốn FDI thực hiện tăng chậm hơn so với vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Tỷ trọng FDI giảm từ 24% trong thời kỳ 1996 -2000 xuống còn khoảng 17,6% trong thời kỳ 2001- 2004.
- Việc thu hút vốn đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn hạn chế, mặc dù đã có nhiều chính sách ưu đãi nhất định.
- Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô và pháp luật còn nhiều bất cập, gây tác động tâm lý cho nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta chưa thật sự hình thành được một “sân chơi bình đẳng” giữa đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số lĩnh vực sản xuất còn áp dụng các biện pháp hạn chế đầu tư nước ngoài như xi măng, sắt, thép, điện, nước.
- FDI chỉ tập trung chủ yếu vào những vùng có điều kiện thuận lợi, trong khi có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, đầu tư từ các nước phát triển nhất là các TNSs có thế mạnh về công nghệ nguồn như Nhật, EU, Mỹ còn tăng chậm.
- Liên kết giữa khu vực kinh tế có vốn FDI với doanh nghiệp trong nước chưa chặt chẽ. Việc cung cấp nguyên vật liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp có vốn FDI còn hạn chế từ đó làm giảm khả năng tham gia chương trình nội địa hoá và xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI.
- Chủ trương phân cấp, uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư, quản lý hoạt động FDI cho các địa phương, Ban Quản lý các KCX đã phát huy tính năng động sáng tạo của các địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phân công quản lý hoạt động FDI cũng đã nẩy sinh hiện tượng cạnh tranh thu hút đầu tư giữa các địa phương đã đến thua thiệt cho phía Việt Nam.
- Công tác quy hoạch chưa được cải cách căn bản nhằm xác định lượng vốn đầu tư cần huy động của các ngành và trách nhiệm của Bộ, các ngành và địa phương trong cong tác thu hút vốn FDI.
Nguyên nhân của những mặt hạn chế nói trên là :
Thứ nhất, nhận thức và quan điểm về FDI chưa thực sự thống nhất và chưa được quán triệt đẩy đủ ở các cấp, các ngành. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài còn yếu, đôi khi còn chưa thống nhất quan điểm giữa các Bộ, ngành nên công tác xử lý dự án, thẩm định dự án còn tình trạng kéo dài.
Thứ hai, môi trường đầu tư nước ta tuy đã được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa đồng bộ.
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước về đâu tư trực tiếp nước ngoài còn nhiều yếu kém, các quy định về về thủ tục hành chính còn phiền hà, công tác cán bộ còn nhiều bất cập.
Thứ tư, công tác xúc tiến đầu tư tuy đã có nhiều cố gắng nhưng gặp khó khăn lớn do thiếu kinh phí để tổ chức các cuộc vận động đầu tư ở nước ngoài cũng như để hoàn chỉnh các tài liệu xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư chưa chú trọng đến các đối tác quan trọng, các dự án điểm. Danh mục dự án kêu gọi FDI còn hạn chế về chủ trương và quy hoạch.
Thứ năm, việc đa dạng hoá các hình thức FDI để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới cũng như việc thành lập và triển khai một số khu kinh tế mở còn chậm.
Chương Ba
Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò tích cực FDI ở Việt Nam trong thời gian tới
I/ Định hướng thu hút FDI:
Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu FDI trong thời gian tới, việc thu hút FDI sẽ thực hiện theo các hướng chính sau đây:
1) Khuyến khích đầu tư vào các ngành, khu vực ưu tiên
- Ưu tiên phát triển những ngành thu hút nhiều lao động, những ngành đạt và giữ chỉ số ICOR thấp, đó là những ngành chủ yếu như: dệt, da, may mặc, chế biến nông sản, hàng tiêu dùng...
- Khuyến khích ĐTTT nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến. Đầu tư cho một số ngành mũi nhọn về kỹ thuật, công nghệ, để tạo năng lực tiếp cận nhanh với hệ thống kinh tế và sản xuất của thế giới, đó là những ngành: điện tử, tin học, các ngành công nghệ cao...
- Phát triển những ngành đóng vai trò nền móng của toàn bộ nền công nghiệp như: khai khoáng, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng...
- Phát triển mạng lưới những ngành mang tính dịch vụ như: tài chính, ngân hàng, thương mại, viễn thông, du lịch, khách sạn.
- Cải tạo và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, coi đó là nhiệm vụ cấp bách nhất.
- Về cơ cấu vùng, lãnh thổ, phát triển cân đối trong một tương quan hợp lý giữa các địa phương có tác động rất mạnh đến toàn bộ nền kinh tế, hiệu quả đầu tư. Tập trung thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được thành lập; xây dựng khu kinh tế mở với chính sách ưu đãi đặc thù để tạo nên các vùng tăng trưởng mới có tác động lôi kéo, thúc đẩy nền kinh tế. Bên cạnh việc đầu tư vào những các vùng trọng điểm cũng cần có chiến lược phân bố vốn cho các vùng khác, tạo tiền đề phát huy tối đa, lâu dài lợi thế của từng vùng trong khả năng vốn có thể của những năm tới. Còn về lâu dài, cần phải tạo ra các điều kiện căn bản để giảm sự chênh lệch về khả năng và cơ hội hấp dẫn đầu tư giữa các địa phương trong cả nước.
2) Mở rộng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Các hình thức FDI trên thế giới hiện nay rất đa dạng và phong phú; sự chuyển hoá giữa các hình thức đầu tư cũng đòi hỏi rất linh hoạt do đòi hỏi của đời sống kinh tế và tuỳ thuộc vào sự lựa chọn, quyết định của nhà đầu tư. Các dự án FDI dù dưới hình thức nào cũng có tác động tích cực vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam, nếu dự án triển khai tốt. Vì vậy, ngoài những hình thức chủ yếu truyền thống (hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh) cần mở rộng và phát huy các hình thức khác như: BOT, BT, BTO, KCX, KCN và khu công nghệ cao...
3) Mở rộng thị trường đầu tư, tăng khả năng hội nhập với thế giới: hợp tác đầu tư với nước ngoài phải góp phần mở rộng thị trường, từng bước hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới và nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam đang có quan hệ chính thức với trên 150 nước, quan hệ buôn bán với hơn 100 nước, vùng, lãnh thổ và đã có hơn 700 công ty của hơn 50 nước thực hiện hợp tác đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong thời gian tới, bên cạnh việc tăng cường với các nước trong khu vực, chùng ta phải mở rộng quan hệ hợp tác với các nước công nghiệp phát triển như: Nhật Bản, Mỹ và các nước Tây Âu khác. Điều này sẽ tạo cho chúng ta một lợi thế trong đàm phán, thương thuyết với các nước ASEAN cũng như các nước khác.
4) Tiếp cận, phát huy công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến
Thông quan hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài để tiếp cận với công nghệ kỹ thuật hiện đại, tiếp thu trình độ quản lý tiên tiến và tiếp cận thị trường thế giới. Một mặt Việt Nam cần thiết phải tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đai, nhưng mặt khác phải chú ý đến những dự án sử dụng nhiều lao động tại chố. Dựa trên những quan điểm đó, trong thời gian tới, việc chuyển giao công nghệ phải thực hiện được những mục tiêu sau:
Một là, chuyển giao công nghệ phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của đất nước, rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa nước ta và thế giới. Bất kỳ công nghệ nào được chuyển giao đều phải đảm bảo những yêu cầu về mặt kinh tế, hiệu quả kinh tê- xã hội, khai thác tận dụng tài nguyên đất nước, bảo vệ môi trường. Nhưng mặt khác, chúng không những phải hiện đại hơn những công nghệ trong nước mà còn phải đủ để đưa trình độ công nghệ, kỹ thuật của nước ta lên mức trung bình của thế giới, chuẩn bị cho những bước phát triển cao hơn. Mục tiêu này phải được quán triệt ngay từ đầu để tránh trở thành bãi thải công nghệ thế giới.
Hai là, thực hiện chuyển giao công nghệ với mọi thành phần kinh tế. Cho tới nay, sự đổi mới chuyển giao công nghệ được thực hiện với các doanh nghệp nhà nước hoặc liên doanh với nước ngoài. Các công nghệ này được chuyển giao lại cho các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, hộ cá thể hoặc hộ gia đình. Các doanh nghiệp tư nhân vừa qua còn ít sản xuất lớn, do vậy việc chuyển giao công nghệ hiện đại, tiên tiến hầu như chưa đặt ra. Đến nay, nhiều doanh nghiệp nhỏ đã lớn mạnh đến mức độ cần thiết và có thể trang bị thiết bị tiên tiến, hoặc có điều kiện chuyển từ kinh doanh thương mại là chính sang sản xuất công nghiệp, có nhu cầu trang bị công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Hơn nữa, sau nhiều năm khó khăn, nhiều nghề thủ công truyền thống đã có sự phục hồi nhất định, đòi hỏi phải cải tiến, hiện đại cả sản phẩm lẫn công nghệ truyền thống cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Như vậy, việc chuyển giao công nghệ tới mọi thành phần kinh tế cần được thực hiện và mở rộng.
Ba là, việc chuyển giao công nghệ cần được thực hiện một cách linh hoạt, nhưng phải theo một chiến lược hoặc một phương hướng được cân nhắc, lựa chọn trên những căn cứ khoa học. Cần đảm bảo tính linh hoạt về mặt hình thức chuyển giao (mua công nghệ, tiếp nhận công nghệ...), thời điểm , đối tượng, quy mô, đối tác... để các doanh nghiệp có thể được thuận lợi, dễ dàng trong việc thực hành chuyển giao công nghệ. Tuy vậy, cần phải có những chiến lược, phương hướng về đổi mới công nghệ để một mặt có căn cứ lựa chọn, tránh tuỳ tiện, tiêu cực trong chuyển giao. Mặt khác để đảm bảo những yêu cầu và mục tiêu vĩ mô, những phương hướng chiến lược này không nhất thiết chỉ là của các cơ quan quản lý nhà nước đề ra mà còn phải là bản thân các doanh nghiệp lập ra để thực hiện..
Bốn là tăng cường vai trò của nhà nước đối với việc chuyển giao công nghệ. Trong lĩnh vực này vai trò của Nhà nước cần thể hiện rõ trên các mặt sau đây:
- Xác định những tiêu chuẩn, giới hạn nhất định đối với các công nghệ được chuyển giao.
- Thực hành giám định và kiểm tra đối với công nghệ được chuyển giao.
- Tổ chức quan hệ hợp tác nhằm phát triển công nghệ.
- Tổ chức mạng lưới thông tin công nghệ và hỗ trợ hoạt động tư vấn chuyển giao công nghệ.
- Tổ chức công tác đào tạo nhằm tăng năng lực và trình độ kỹ thuật tình độ công nghệ của lực lượng lao động kể cả lao động kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu và cán bộ quản lý.
Cuối cùng, mục đích của việc chuyển giao công nghệ chính là phát huy tác dụng đối với việc nâng cao năng lực công nghệ và kỹ thuật của đất nước. Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, hoạt động này cần hướng mạnh hơn vào việc làm cho các công nghệ được chuyển giao thích ứng hơn với điều kiện Việt Nam.
II/ Dự báo FDI trong thơi gian tới (2006-2010)
Chính phủ Việt Nam đã đề ra mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 7,5 – 8% /năm trong giai đoạn 2001- 2010, đưa GDP bình quân đầu người năm 2001 gấp đôi năm 2000.
Để đat được mục tiêu đó, ước tính vốn cho đầu tư phát triển 5 năm tới (2006 –2010) phải đạt khoảng 100 tỷ USD, trong đó nguồn vốn FDI phải thu hút được khoảng 20 tỷ nghĩa là mỗi năm phải thu hút được khoảng 4 tỷ. Đây là mục tiêu không quá cao so với các nước trong khu vực. (Năm 2003, Trung Quốc đã thu hút được 53 tỷ vốn đầu tư nước ngoài, Singapore với số dân 4 triệu người cũng đã thu hút được 11 triệu USD 1).
Chính phủ Việt Nam đang chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng kế hoạch thu hút và sử dụng vốn FDI đến năm 2010 phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 cụ thể là:
+ Xây dựng một danh mục các dự án quốc gia kêu gọi FDI đến năm 2010. Danh mục đó sẽ sẽ bao gồm các dự án trọng điểm phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, đồng thời đáp ứng tốt hơn đòi hỏi và mong muốn của các nhà đầu tư.
+Hệ thống luật pháp, chính sách về FDI cũng sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo hướng hình thành một mặt bằng pháp lý chung, đảm bảo tính công bằng và minh bạch phù hợp với yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Trong quá trình đó, Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục nghiên cứu, mở rộng lĩnh vực thu hút FDI và đa dạng hoá các hình thức đầu tư trong đó có việc mở cửa lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế đã ký kết.
+Tiếp tục cải tiến thủ tục đầu tư, nâng cao hiệu quả lực quản lý nhà nước về FDI, mở rộng phân cấp về FDI...
+ Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quản hoạt động và sức cạnh tranh Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá và cắt giảm một số chi phí sản xuất, xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nươc và các nhà đầu tư nước ngoài.
+Tăng cường đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư nươc ngoài vào các địa bàn trọng điểm, các tập đoàn xuyên quốc gia, các dự án sử dụng công nghệ cao thuộc các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
III./ Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò tích cực của FDI vào Việt nam trong thời gian tới.
Để tiếp tục thu hút FDI cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong đó có việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước trong thời gian tới, đòi hỏi chúng ta phải áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp nhằm nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Những giải pháp chủ yếu cần được thực hiện trong thời gian tới đó là:
1)Tiếp tục ban hành các cơ chế chính sách về FDI nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư:
- Rà soát và hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài làm cơ sở cho việc hướng dẫn, tuyên truyền luật pháp đồng thời phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản để điều chỉnh kịp thời, bãi bỏ những quy định không cần thiết cản trở hoạt động đầu tư.
- Hoàn thành hệ thống pháp lý chung về kinh tế, tạo lập môi trường kinh doanh hoàn thiện, sớm ban hành các Luật về hải quan, Luật cạnh tranh và chống độc quyền, Luật kinh doanh bất động sản... bảo đảm một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, đầy đủ, rõ ràng, ổn định và hấp dẫn mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực.
- Nghiên cứu xoá bỏ dần sự phân biệt về chính sách đầu tư có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, tiến tới thực hiện chính sách thống nhất với đầu tư trong nước và nước ngoài. Trước mắt là rà soát lại tất cả các loại giá địch vụ, lệ phí... để có sự điều chỉnh hợp lý nhằm thu hẹp khoảng cách giữa giá trong nước và giá cả ở các nước trong khu vực, giữa của nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài.
2) Xúc tiến đầu tư:
Đây là một biện pháp được áp dụng khá phổ biến ở một số nước và đă mang lại hiệu quả cao vì một môi trường đầu tư tốt song ít được thế giới biết đến hoặc biệt đến không đầy đủ, sai lệch thì cũng kém thu hút các nhà đầu tư.
Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động để tạo dựng hình ảnh một đất nước Việt Nam thự c sự muốn mở rộng quan hệ vơi các nước trên thế giới. Từng ngành, từng địa phương cần có kế hoạch danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài và cần nghiên cứu thành lập các tổ chức tư vấn đầu tư chuyên ngành để cung cấp các dịch vụ triển khai dự án khi được cấp giấy phép đầu tư như dich vụ về đất đai, dịch vụ quản lý xây dựng... tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư nước ngoài.
3) Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI
Trước hết, cần nâng cao hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI trên cơ sở tổ chức hợp lý hoá từ trung ương xuống địa phương, mạnh dạn phân cấp phân quyền cho các địa phương trong việc quản lý doanh nghiệp có vốn FDI trên địa bàn để đơn giản hoá thủ tục, xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh.
Bên cạnh đó cần xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, UBND trong việc quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước. Cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm bám sát nhưng không gây khố khăn cho các doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh của mình. Cơ quan quản lý về FDI và các địa phương và các Bộ, ngành hữu quan cần thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp có vốn FDI để hướng dẫn về luật pháp, chính sách, giải quyết kịp thời các kiến nghị của các doanh nghiệp, tháo gỡ các ách tắc, điều chỉnh và bổ sung các chính sách, biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cuối cùng, cần rà soát và cải tiến mạnh mẽ hơn nữa tất cả các thủ tục liên quan đến đầu tư nước ngoài theo định hướng tinh giản đầu mối, công khai quy định thời hạn và người có trách nhiệm xử lý. Cụ thể là:
+ Cải tiến thủ tục cấp giấy phép đầu tư trong đó quan trọng nhất là đẩy nhanh thủ tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa một đầu mối”. Các cơ quan phụ trách hợp và đầu tư là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt các nhà đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi đăng ký.
+ Thực hiện các thủ tục hỗ trợ sau khi cấp giấy phép là khá quan trọng vì trên thực tế cho thấy các khâu sau cấp giấy phép như đền bù, giải toả, tuyển dụng lao động, sản xuất kinh doanh... là những yếu tố rất quan trọng cho sự thành công của dự ấn nói chung cũng như hoạt động FDI nói chung.
Để thực hiện tốt nhưng vấn đề nói trên thì việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đóng một vai trò hết sức quan trọng có thể tập trung vào những điểm sau:
Thứ nhất, tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác hợp tác đầu tư với nước ngoài về luật pháp, chính sách, chuyên môn. Việc đào tạo không chỉ thực hiện thông qua hệ thống các trường chuyên ngành trong nước để đào tạo mà cần phải gửi ra nước ngoài học tập cũng như thuê các chuyên gia hàng đầu vào làm việc ở những khâu ta còn yếu để thông qua đó cán bộ Việt Nam học hỏi được những kinh nghiệm và kỹ năng tiên tiến.
Thứ hai, rà soát, sàng lọc để nâng cao chất lượng cán bộ, tuyển chọn cán bộ có đủ năng lực vào lĩnh vực này. Thêm vào đó cần quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của cán bộ trong và sau thời gian làm việc trong lĩnh vực này.
4) Củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng
Có thể nói cơ sở hạ tầng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thu hút FDI bởi nó làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư triển khai các dự án và kế hoạc đầu tư của mình, qua đó quyết định sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra sự chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế, đặc biệt giữa công nghiệp xây dựng và dịch vụ... tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước.
Trong giai đoạn trước mắt, chúng ta cần tập trung vào phát triển cơ sỏ hạ tầng của ba vùng kinh tế trọng điểm, quyết định tới tăng trưởng kinh tế. Ba vùng kinh tế này sẽ làm đầu tàu cho nền kinh tế nhưng không phát triển độc lập mà liên kết với các vùng kinh tế khác qua thị trường hàng hoá, thị trường lao động và thị trường các yếu tố sản xuất khác do đó sẽ thúc đẩy kinh tế của các vùng khác. Mặt khác, chúng ta cần xây dựng những quy chế ưu đãi rõ ràng cụ thể đối với các hình thức đầu tư BOT, BT và BTO để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư góp phần hỗ trợ vốn đầu tư cho ngân sách.
Bên cạnh đó, để thu hút đầu tư chúng ta cần cải thiện chất lượng dịch vụ hiện tại và phát triển một hệ thống dịch vụ rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao như : y tế, giáo dục, giải trí, tài chính, ngân hàng... nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt Nam.
5) Xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế mở và cải tiến quy chế đầu tư vào các khu vực này. Cụ thể là :
+ Giảm giá thuê đất trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế mở để đảm bảo cho các chủ đầu tư có lợi khi đầu tư vào các khu nói trên.
+ Quy hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất phải đảm bảo sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
+ Cần xác định rõ số lượng lệ phí và phí mà chủ đầu tư phải có trách nhiệm chi trả, tránh tình trạng thu lệ phí quá nhiều, chồng chéo.
6) Tiếp tục đổi mới một số chính sách liên quan tạo thuận lợi cho việc thu hút FDI
Thứ nhất là về chính sách đất đai: để hoàn thiện chính sách đất đai đối với doanh nghiệp có vốn FDI cần phải rà soát lại giá thuê đất, nghiên cứu ban hành chế độ đền bù giải toả... cho hợp lý cũng như việc phía Việt Nam sẽ chịu trách nhiệm giải phóng mặt bằng và chỉ giao đất cho chủ dự án khi đã giải phóng xong mặt bằng.
Thứ hai là về chính sách tài chính: Việt Nam có chính sách thuế ưu đãi song chưa ổn định và còn thiếu hấp dẫn. Phương hướng trong thời gian tới cần phải nới lỏng hơn nữa cụ thể:
+ Nâng cao hiệu lưc và hiệu quả của các biên pháp ưu đãi tài chính đối với nhà đầu tư nước ngoài như vấn đề hoàn thuế, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc chuyển lợi nhuận về nước.
+ Xóa bỏ ấn định nguồn vốn trong các lĩnh vực dự án cần phát triển mà vốn trong nước không đủ, không có khả năng hoặc không muốn đầu tư.
+Tiếp tục hoàn thiện về ưu đãi trong thuế lợi tức, thuế giá trị gia tăng áp dụng đối với các dự án ĐTTTNN đi vào hoạt động vì còn khá nhiều vướng mắc, bất cập so với các nước trong khu vực.
Thứ ba là về chính sách tiền tệ, tín dụng: Tiếp tục hoàn thiện và chi tiết hoá vấn đề quản lý ngoại hối đối với các doanh nghiệp FDI như việc mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ, tài khoản VNĐ tại các ngân hàng, viêc mở và sử dụng tài khoản ở Ngân hàng nước ngoài...
Thứ tư là về chính sách lao động, tiền lương: Cần tập trung hoàn thiện bộ máy hành pháp về quản lý lao động cũng như ban hành các loại văn bản quy định áp dụng đối với người lao động trong các doanh nghiệp có vốn FDI như quy định về tuyển chọn lao động, chức năng của các cơ quan quản lý lao động, vần đề đào tạo, sa thải, đề bạt, xử lý tranh chấp về tiền lương, thu nhập...
Thứ năm là chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Cần khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm chế biến sâu, chế biến tinh, các sản phẩm chất lượng cao, định hướng tiêu thụ sản phẩm theo khuôn khổ pháp lý, nhanh chóng xây dựng và thực hiện Luật cạnh tranh, Luật chống đầu cơ, chồng phá giá hàng hoá, gian lận thương mại và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu...
Thứ sáu là chính sách công nghệ: tập trung đổi mới công nghệ cho một số ngành công nghệ mũi nhọn, coi trọng việc hình thành các khu công nghệ cao, công nghệ sạch ở những vùng thích hợp. Bên cạnh đó, cần có cơ chế kiểm soát đối với việc giám định và kiểm tra các công nghệ được chuyển giao, xây dựng các trung tâm dịch vụ tư vấn thẩm định quốc gia giúp các nhà quản lý và đối tác Việt Nam thực hiện giám định chất lượng, giá cả công nghệ chính xác và chặt chẽ.
Kết luận
Có thể nói kể từ khi Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài mới (2000) và sửa đổi bổ xung một số điều năm 2003, hệ thống luật pháp về đầu tư đã được cải thiện thông thoáng và ngày càng tiến bộ hơn qua đó thu hút được sự quan tâm chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài. Môi trường đầu tư đựơc cải thiện nên thời gian từ 2001- 2004 FDI tăng khá nhanh và những thành quả do FDI mang lại là đáng khích lệ bởi nó đã góp phần đáng kể trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh là một điều kiện quan trọng thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2001-2005 tạo tiền đề cho việc thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm 2001- 2010, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, hoạt động FDI trong thời gian 2001-2004 còn rất nhiều hạn chế mà chúng ta cần phải quan tâm để có các giải pháp khắc phục nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa FDI trong thời gian tới.
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương Một: Cơ sở lý luận 1
I/ Khái niệm và đặc điểm của FDI 1
II/ Vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế 2
III/ Các hình thức FDI 5
IV/ Các nhân tố ảnh hưởng đến FDI 6
Chương Hai: Trai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam thời gian qua 10
I. Khái quát về môi trường đầu tư tại Việt nam thời gian qua 11
II/ Vai trò của FDI tại Việt Nam thời gian qua 14
Chương Ba: Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò tích cực FDI ở Việt Nam trong thời gian tới 20
I/ Định hướng thu hút FDI: 20
II/ Dự báo FDI trong thơi gian tới (2006-2010) 22
III/ Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò tích cực cảu FDI vào Việt Nam trong thời gian tới 23
Kết luận 28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0193.doc