Hiệu quả của thuốc ức chế Interleukin 6-
Tocilizumab trong một số nghiên cứu
Các nghiên cứu về hiệu quả của thuốc ức chế
IL-6 trong điều trị VKDT cho thấy các kết quả ngoạn
mục. Nghiên cứu LITHE theo dõi sau 2 năm điều
trị ở những bệnh nhân VKDT đáp ứng không đầy
đủ với Methotrexate cho thấy Tocilizumab có cải
thiện hoạt tính bệnh về lâm sàng, ức chế hủy khớp
(qua đánh giá tổng điểm Sharp Genant) và cải
thiện chức năng thể chất và thuốc có tính an toàn.
Trong 12 tháng đầu, bệnh nhân được chọn ngẫu
nhiên để dùng giả dược-MTX, 4mg/kg tocilizumabMTX, hoặc 8mg/kg tocilizumab-MTX. Trong năm
thứ 2, bệnh nhân tiếp tục điều trị mù đôi ban đầu
hoặc chuyển sang mở nhãn 8mg/kg tocilizumabMTX. Các tiêu chí chính để đánh giá ở tuần 104 là
thay đổi trung bình của tổng điểm Sharp Genant
được điều chỉnh (GmTSS) so với ban đầu và giá
trị trung bình được điều chỉnh của diện tích dưới
đường cong (AUC) cho sự thay đổi của chỉ số tàn
phế - bảng câu hỏi đánh giá sức khỏe (HAQ-DI)
so với trước điều trị. Các dấu hiệu và triệu chứng
của viêm khớp dạng thấp và tính an toàn cũng
được đánh giá. Kết quả cho thấy: Tại tuần 104,
trung bình thay đổi so với ban đầu của GmTSS
thấp hơn đáng kể ở nhóm dùng tocilizumab-MTX
4 mg/kg (0,58; p = 0,0025) hoặc 8 mg/kg (0,37; p
<0,0001) so với bệnh nhân dùng giả dược-MTX
(1,96). Thay đổi trung bình AUC của HAQ-DI so
với trước điều trị cũng thấp hơn đáng kể ở những
bệnh nhân ban đầu được chọn ngẫu nhiên để dùng
tocilizumab-MTX 4 mg/kg (-287,5; p <0,0001) hoặc
8 mg/kg (-320,8; p <0,0001) so với bệnh nhân ban
đầu ngẫu nhiên dùng giả dược-MTX (-139,4). Các
triệu chứng của viêm khớp dạng thấp được cải
thiện. Không có các tác dụng không mong muốn.
Có nhiều nghiên cứu trên nhóm bệnh nhân
người Việt, song chúng tôi chỉ trích dẫn kết quả của
một nghiên cứu đã được xuất bản năm 2014. Mặc
dù với thời gian ngắn (03 tháng) cũng mang lại kết
quả khả quan. Đối tượng gồm 60 bệnh nhân được
chẩn đoán viêm khớp dạng thấp theo tiêu chuẩn của
Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ 1987, điều trị tại Khoa
Cơ xương khớp - Bệnh viện Bạch Mai, thời gian
từ tháng 3/2012 đến tháng 8/2013. 60 bệnh nhân
này được chia làm 2 nhóm một cách ngẫu nhiên.
Nhóm 1: được điều trị 04 liều tocilizumab (Actemra)
8mg/kg/liều truyền tĩnh mạch mỗi 4 tuần phối hợp
với methotrexat. Nhóm 2, chỉ điều trị methotrexat
đơn độc. Đánh giá kết quả sau điều trị mỗi 04 tuần.
Kết quả cho thấy sau 12 tuần điều trị, phác đồ
Tocilizumab phối hợp với methotrexat đạt kết quả
cao hơn methotrexat đơn độc trong cải thiện mức
độ hoạt động của bệnh viêm khớp dạng thấp: nhóm
bệnh nhân dùng tocilizumab (04 liều) phối hợp với
methotrexat có tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng theo ACR
20, 50 và điểm hoạt động bệnh DAS28 khác biệt
có ý nghĩa so với nhóm dùng methotrexat đơn độc,
với lần lượt là p<0,05 và <0,001. Tỷ lệ tác dụng
không mong muốn tương đương ở cả hai nhóm
(26,7%) bao gồm nhiễm khuẩn đường hô hấp trên,
triệu chứng tiêu hóa, viêm miệng, tăng huyết áp,
tăng men gan mức độ nhẹ.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của Interleukin 6 trong cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm khớp dạng thấp và hiệu quả của thuốc ức chế interleukin 6-Tocilizumab trong điều trị bệnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 21
1. Vai trò của Interleukin 6 trong bệnh viêm
khớp dạng thấp
- Sơ lược về IL-6
IL-6 là một cytokine đa chức năng có tác
động sinh học rộng lớn điều hòa nhiều quá trình
bao gồm các đáp ứng viêm cấp tại gan, chuyển
hóa sắt, tạo máu, chuyển hóa xương và các
bệnh lý tim mạch. IL-6 ảnh hưởng tới khớp thông
qua sản xuất yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch
máu (vascular endothelial growth factor- VEGF)
góp phần hình thành màng máu màng hoạt dịch
Pannus, kích thích hủy cốt bào trưởng thành và
tăng hoạt hóa và là chất trung gian trong quá trình
viêm mạn tính (tập hợp bạch cầu). IL-6 gây các
triệu chứng toàn thân do Il-6 là tác nhân kích thích
chính trong tổng hợp protein viêm giai đoạn cấp;
có mối liên quan giữa IL-6 và tình trạng thiếu máu
trong bệnh lý viêm; IL-6 kích thích tổng hợp cả
acid béo của gan và ly giải mô mỡ gây rối loạn lipid
máu và tăng nguy cơ các biến cố tim mạch. IL-6
tác động trên hệ miễn dịch do đóng vai trò chính
trong điều hòa các tác nhân tham gia vào quá trình
miễn dịch dịch thể (tế bào B), miễn dịch tế bào (tế
bào T), hủy cốt bào. IL-6 có thể duy trì đáp ứng tự
kháng thể trong VKDT thông qua hoạt hóa TH17.
IL-6 một cytokine được tìm thấy nhiều nhất
trong dịch ổ khớp, là nguyên nhân chính gây ra
các triệu chứng mạn tính toàn thân và tại chỗ trong
bệnh VKDT. IL-6 là một loại cytokine tiền viêm tạo
ra bởi nhiều loại tế bào khác nhau bao gồm tế bào
T và tế bào B, tế bào bạch cầu, bạch cầu đơn
nhân và nguyên bào sợi. IL-6 kết hợp trưc tiếp với
phức hợp thụ thể màng IL-6 và glycoprotein-130
dẫn tới hoạt hóa tế bào viêm như đại thực bào và
bạch cầu trung tính từ đó kích hoạt các phản ứng
viêm, gây hủy hoại sụn khớp, xương. IL-6 cũng
VAI TRÒ CỦA INTeRLeUKIN 6 TRONG CƠ CHẾ BỆNH sINH
CỦA BỆNH VIÊM KHỚP DẠNG THẤP Và HIỆU QUẢ CỦA THUỐC
ỨC CHẾ INTeRLeUKIN 6-TOCILIZUMAB TRONG đIỀU TRỊ BỆNH
nguyễn thị ngọc lan*
*Trường Đại học Y Hà Nội - Hội Thấp khớp học Việt Nam
TÓM TẮT
Viêm khớp dạng thấp - một bệnh khớp viêm mạn tính có biểu hiện không chỉ tại màng hoạt dịch,
toàn bộ khớp mà còn có biểu hiện tại nhiều cơ quan, có tính chất hệ thống. Interleukin 6 (IL-6) là một
cytokin đa chức năng có tác động sinh học rộng lớn điều hòa nhiều quá trình bao gồm các đáp ứng
viêm cấp tại gan, chuyển hóa sắt, tạo máu, chuyển hóa xương và các bệnh lý tim mạch. IL-6 là nguồn
gốc chính gây nhiều triệu chứng của bệnh. Hiểu biết về IL-6 mang lại tiến bộ lớn trong điều trị: thuốc
ức chế Interleukin 6-Tocilizumab kiểm soát được quá trình viêm khớp, bảo tồn cấu trúc khớp, tránh
tàn phế, cải thiện được các triệu chứng toàn thân, cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân. Hiệu quả
và tính an toàn của thuốc được chứng minh qua các nghiên cứu trong và ngoài nước.
Từ khóa: Viêm khớp dạng thấp, Interleukin 6 (IL-6), thuốc ức chế Interleukin 6, Tocilizumab
Khoảng 0,1-1% dân số thế giới mắc bệnh viêm khớp dạng thấp (VKDT) tùy theo quốc gia. Tỷ lệ
này ở Việt Nam là 0,28% dân số. Bệnh diễn biến mạn tính và bệnh nhân nhanh chóng trở thành tàn
phế, giảm tuổi thọ. Tổn thương biểu hiện không chỉ tại màng hoạt dịch, toàn bộ khớp mà còn có biểu
hiện tại nhiều cơ quan, có tính chất hệ thống: thiếu máu, loãng xương, rối loạn mỡ máu, tăng nguy
cơ tim mạch đột quỵ...Trên cơ sở hiểu biết về cơ chế bệnh sinh của bệnh, điều trị nhắm đích là bước
tiến mới của Y học hiện đại.
Diễn đàn
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX22
có khả năng hoạt hóa các tế bào không có thụ
thể màng IL-6 miễn là chúng có chứa thụ thể gp-
130 phổ biến. Cơ chế này liên quan tới thụ thể
dạng hòa tan của IL-6. Sự gia tăng nồng độ IL-6
cũng như nồng độ thụ thể IL-6 dạng hòa tan có
liên quan đến mức độ trầm trọng của bệnh và sự
tiến triển của bệnh.
Trong khớp các tế bào hoạt dịch có thể tự tạo
ra IL-6 tại chỗ gây ra tình trạng viêm tiến triển tại
các khớp này. Dưới tác động của IL-6, các tế bào
lympho B sẽ sản xuất ra yếu tố dạng thấp RF, từ đó
tạo ra các phức hợp miễn dịch lắng đọng trong khớp
và gây tổn thương khớp. IL-6 cũng kích thích các tế
bào màng hoạt dịch sản xuất ra yếu tố tăng trưởng
mạch máu, từ đó hoạt hóa các tế bào nội mô mao
mạch màng hoạt dịch sản xuất ra các phân tử kết
dính, thu hút các loại tế bào viêm đến khoang khớp.
Hậu quả của quá trình này là hình thành màng máu
màng hoạt dịch gây hủy hoại sụn khớp, đầu xương
dưới sụn, cuối cùng dẫn đến xơ hóa, dính và biến
dạng khớp. IL-6 kích thích các tế bào hủy xương
hoạt động làm tăng quá trình tiêu xương, từ đó dẫn
đến tiêu xương và hủy khớp. Phần dưới đây trình
bày chi tiết một số vai trò của IL-6 trong cơ chế
bệnh sinh của bệnh viêm khớp dạng thấp.
- Vai trò của IL-6 trong đáp ứng miễn dịch
VKDT được đặc trưng bởi sự gia tăng yếu tố
dạng thấp (kháng thể IgM và IgG RF) và kháng
anti CCP trong cả huyết thanh và khớp. Tế bào
B có vai trò trong sự tạo ra các kháng thể này và
ức chế tế bào B sẽ là một phương pháp điều trị
bệnh. IL-6 đã được xác định là một yếu tố biệt hóa
tế bào B.
Ngoài việc phát triển tế bào B, IL-6 ảnh hưởng
sự phát triển tế bào T. Khi được kích hoạt, các tế
bào T ban đầu phát triển và tế bào T trưởng thành
được chia tiếp thành có tính chất tiền viêm như
Th1. Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng
các tế bào TH17 là những trung gian quan trọng
trong các bệnh tự miễn dịch và bảo vệ vật chủ
chống lại các mầm bệnh ngoại bào. Tế bào TH17
sản xuất IL-17, -12 và -22.
Tế bào TH17 cũng tham gia vào các phản
ứng bảo vệ chủ chống lại vi khuẩn và nấm, cho
thấy rằng IL-6 có thể đóng góp gián tiếp đến nhiễm
trùng chiến đấu thông qua TH17 phát triển tế bào.
Nhìn chung, những phát hiện này chứng minh
rằng IL-6 có vai trò quan trọng trong sự phát triển
của các phản ứng miễn dịch thích ứng và có thể
được tham gia vào cơ chế bệnh sinh của VKDT.
- Vai trò của IL-6 trong việc chuyển từ giai
đoạn viêm cấp tính đến tình trạng viêm mạn tính
Bạch cầu trung tính có khả năng giải phóng
các enzym phân giải protein và chất trung gian nên
có vai trò quan trọng trong hiện tượng viêm và phá
hủy khớp trong bệnh VKDT. IL-6 tác động trực tiếp
trên bạch cầu trung tính qua receptor của IL-6 tại
màng tế bào. Đã có bằng chứng chứng minh ức
chế IL-6 sẽ ngăn chặn sự bám dính của bạch cầu
trung tính. Tác động khác của IL-6 trên bạch cầu
trung tính bao gồm duy trì sự tồn tại của bạch cầu
trung tính, hoạt hóa tăng sinh bạch cầu thông qua
qua các cytokine viêm, huy động tập trung bạch
cầu trung tính từ tuần hoàn và từ tủy xương. Việc
giải phóng các receptor IL-6 hòa tan cũng đóng
một vai trò quan trọng trong quá trình viêm cấp
cũng như mạn tính. Trong pha viêm cấp tính trong
của bệnh VKDT, bạch cầu đơn nhân, đại thực bào
và các tế bào nội mô giải phóng IL-6, kèm theo
tăng bạch cầu trung tính tại dịch khớp. Khi bệnh
tiến triển, IL-6 được cho là yếu tố ảnh hưởng đến
sự chuyển đổi từ viêm cấp tính đến viêm mạn tính,
do sự tác động đến bạch cầu đơn nhân.
- Vai trò của IL-6 trong các biểu hiện tại khớp
của bệnh VKDT
Nồng độ IL-6 tăng cao trong màng hoạt dịch
của bệnh nhân VKDT và tương quan thuận với
mức độ viêm và tình trạng phá hủy khớp ở bệnh
nhân. IL-6 có vai trò trên quá trình này thông qua
tác động đối với yếu tố VEGF ở bệnh nhân VKDT.
VEGF là một yếu tố tạo mạch mạnh làm tăng sự
tập trung và sự phát triển của các tế bào nội mô,
cũng như gây tăng tính thấm thành mạch và là
chất trung gian viêm. Có mối tương quan thuận
giữa sự tăng nồng độ VEGF ở bệnh nhân RA và
mức độ hoạt động bệnh, cho thấy VEGF có vai trò
đặc biệt trong việc hình thành pannus (màng máu
màng hoạt dịch). IL-6, với sự có mặt của receptor
IL-6 hòa tan gây tăng nồng độ VEGF trong nguyên
bào sợi màng hoạt dịch nuôi cấy từ bệnh nhân
VKD và khi sử dụng kháng thể kháng IL-6 hòa tan
thấy giảm đáng kể nồng độ VEGF.
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 23
- Ảnh hưởng của IL-6 trên tổn thương bào
mòn xương
Tổn thương khớp trong VKDT được đặc
trưng bởi tổn thương bào mòn xương tại vị trí
bám của màng hoạt dịch và hẹp khe khớp, biểu
hiện của hiện tượng phá hủy của xương và sụn
khớp. Trong nghiên cứu trên người và động vật,
tổn thương này được xác định là do hủy cốt bào
gây ra. IL-6 gây tăng số lượng hủy cốt bào bằng
cách tác động vào các tế bào gốc tạo máu từ các
bạch cầu hạt, đại thực bào dòng hạt.
Trong bệnh VKDT, IL-6 và receptor IL-6 hòa
tan gây hiệu ứng tiêu xương ở các tế bào giống
hủy cốt bào thu được từ dịch khớp của bệnh nhân
VKDT. Quá trình này bị ức chế bởi các chất ức chế
IL-6. IL-6 cũng gây ảnh hưởng đối với các thành
phần của sụn khớp. Proteoglycan là thành phần
chính của sụn khớp và sự sụt giảm chất này ở
bệnh nhân VKDT góp phần vào sự suy thoái sụn.
IL-6 hoặc receptor IL-6 hòa tan đơn độc sẽ ức chế
chế trên tổng hợp proteoglycan, song sự kết hợp
của cả 2 thành phân này làm gia tăng rõ rệt tác
động này. Như vậy có thể thấy vai trò quan trọng
đối với IL-6 trong việc gây ra tổn thương khớp.
- Vai trò của IL-6 trong sự phát triển của các
triệu chứng toàn thân của VKDT
Các phản ứng ở giai đoạn cấp tính, một trong
những phản ứng đầu tiên của cơ thể được đặc
trưng bởi một số thay đổi mang tính hệ thống. Quá
trình này bao gồm sự phóng thích các cytokine tiền
viêm và tăng protein pha viêm cấp tính. Protein
pha viêm cấp tính được sản xuất trong gan (ví dụ
như CRP) và IL-6 là một chất chính kích thích gan
thực hiện quá trình này. Ở bệnh nhân VKDT, nồng
độ IL-6 huyết thanh tương quan với nồng độ CRP
và hiện nay IL -6 được dễ dàng định lượng được
các trong dịch sinh học và được sử dụng như một
dấu ấn sinh học của tình trạng viêm và đánh giá
mức độ hoạt động bệnh.
- Tình trạng thiếu máu do viêm mạn tính
Thiếu máu là biểu hiện hệ thống phổ biến
nhất của VKDT, được định nghĩa là hemoglobin
(Hb) mức <13 g/dl ở nam giới và < 12 g/dl ở phụ
nữ. Hơn một phần ba số bệnh nhân VKDT và
trong một phần tư số bệnh nhân trong năm đầu
tiên của bệnh có biểu hiện này. Bệnh nhân VKDT
thiếu máu bị ảnh hưởng về thể chất nghiêm trọng
hơn so với những bệnh nhân không bị thiếu máu.
Các hepcidin peptide được sản xuất bởi các tế
bào gan và điều chỉnh sự trao đổi chất sắt bằng cách
ngăn chặn vận chuyển sắt và giải phóng sắt từ đại
thực bào. Trên thực nghiệm, IL-6 kích thích các tế
bào gan người sản xuất hepcidi. Hơn nữa, IL-6 gây
tăng tiết hepcidin gấp 7,5 lần ở người tình nguyện
khỏe mạnh. Như vậy, mối liên quan giữ IL-6 và
hepcidin đóng một vai trò quan trọng trong sự thiếu
máu trong quá trình viêm ở nhiều bệnh nhân VKDT.
- Loãng xương toàn thân
Loãng xương là một biểu hiện hệ thống
chung ở bệnh nhân VKDT. Bình thường, cơ thể có
sự cân bằng giữa hoạt động của hủy cốt bào và
tạo cốt bào. Sự mất cân bằng của quá trình này có
thể dẫn đến mất xương toàn thể và thực nghiệm
cho thấy IL-6 gây hiện tượng này.
- Mệt mỏi và trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến
thượng thận
Có 41% số bệnh nhân VKDT than phiền về
mệt mỏi ở các mức độ. Các nghiên cứu trên tình
nguyện viên khỏe mạnh cho thấy có sự gia tăng
mệt mỏi và ngủ, giảm mức độ hoạt động và thiếu
tập trung sau dùng IL-6 so với giả dược. Đã chứng
minh được những hiệu ứng IL-6 gây ra có liên
quan tới hoạt động chức năng của trục dưới đồi
- tuyến yên - tuyến thượng thận. Có mối liên quan
giữ sự gia tăng nồng độ IL-6 huyết thanh với mức
độ mệt mỏi ở bệnh nhân VKDT.
- IL-6, lipid và viêm
Bệnh nhân VKDT có nguy cơ cao mắc bệnh
tim mạch. Có các biểu hiện của xơ vữa ở các cấp
độ khác nhau, trong đó có rối loạn chức năng nội
mô và rồi loạn lipid máu. Một số nghiên cứu cho
thấy nồng độ CRP cao có liên quan với sự gia tăng
nguy cơ bệnh tim mạch, tỷ lệ nhập viện và tử vong.
Tình trạng viêm do các tác động của IL-6 làm giảm
nồng độ lipid lưu hành. Khi các tình nguyện viên
khỏe mạnh bình thường sử dụng IL-6 trong vòng
24h cho thấy nồng độ cholesterol, apolipoprotein B
và triglyceride giảm. Cơ chế chính xác mà IL-6 gây
ra những thay đổi này vẫn chưa được biết. Tuy
nhiên, IL-6 ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa
lipid bằng cách kích thích sự tổng hợp acid béo
ở gan và mô mỡ phân giải lipid. Tăng nồng độ
Diễn đàn
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX24
triglycerid do giảm hoạt tính của lipoprotein lipase
trong mô mỡ; giảm cholesterol toàn phần do giảm
cả HDL and LDL dẫn đến thay đổi tỷ lệ: ApoB/
ApoA; Cholesterol toàn phần/ HDL; HDL/LDL và
làm tăng nguy cơ tim mạch.
Độc lập với tác động trên lipid, IL-6 và CRP
có liên quan với tăng nguy cơ tim mạch ở người
bình thường khỏe mạnh cả 2 giới. Viêm nhiễm có
thể đóng một vai trò trong sự phát triển của xơ vữa
động mạch. Nồng độ protein ở giai đoạn viêm cấp
tính, chẳng hạn như CRP được chứng minh là có
mối liên quan tới các sự cố tim mạch. CRP- một
protein pha cấp trong bệnh viêm khớp dạng thấp
được cho là yếu tố góp phần tạo xơ vữa động mạch
bằng cách kích thích các đại thực bào sản xuất yếu
tố mô tiền đông được tìm thấy trong mảng xơ vữa
động mạch). IL-6 làm gia tăng sản xuất CRP do
đó liên quan đến quá trình này. IL-6 cũng có thể
làm tăng số lượng tiểu cầu trong máu có thể dẫn
đến sự hình thành các cục máu đông và do đó làm
tăng nguy cơ bệnh động mạch vành. Hơn nữa, một
nghiên cứu mới đây cho rằng nồng độ IL-6 có giá trị
tiên lượng biến cố mạch vành ở bệnh nhân đau thắt
ngực không ổn định. Hơn nữa, IL-6 có mối quan
với tỷ lệ tử vong tăng ở bệnh nhân hội chứng mạch
vành cấp tính. Những bệnh nhân có biến chứng tim
mạch thường có nồng độ IL-6 huyết thanh cao hơn
đáng kể so với những bệnh nhân không có biến
chứng. Ngoài ra, giảm trong IL-6 trong vòng 48h
cho thấy giảm tỷ lệ biến chứng trong khi khi tăng
IL-6 được cho là nguyên nhân gây tăng các biến
chứng của bệnh động mạch vành.
2. Hiệu quả của thuốc ức chế Interleukin
6-Tocilizumab trong điều trị bệnh viêm khớp
dạng thấp
- Cơ chế tác dụng của tocilizumab
Tocilizumab là một loại kháng thể đơn dòng
được tái tổ hợp nhân bản hóa, nhắm đến cả các thụ
thể màng và các thụ thể hòa tan của IL-6. Nghiên
cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy, tocilizumab
có thể ức chế cả hai con đường truyền tín hiệu qua
màng tế bào của IL-6. Tocilizumab ngăn chặn con
đường truyền tín hiệu thông thường bằng cách kết
hợp với các thụ thể màng của IL-6 và làm giảm hoạt
động của IL-6 trên các tế bào có chứa thụ thể tiếp
nhận IL-6. Tương tự tocilizumab có thể ngăn chặn
việc truyền tín hiệu trực tiếp qua Il-6 trên nhiều loại
tế bào khác bằng cách can thiệp vào sự kết hợp
IL-6 với các thụ thể dạng hòa tan của IL-6.
- Hiệu quả của thuốc ức chế Interleukin 6-
Tocilizumab trong một số nghiên cứu
Các nghiên cứu về hiệu quả của thuốc ức chế
IL-6 trong điều trị VKDT cho thấy các kết quả ngoạn
mục. Nghiên cứu LITHE theo dõi sau 2 năm điều
trị ở những bệnh nhân VKDT đáp ứng không đầy
đủ với Methotrexate cho thấy Tocilizumab có cải
thiện hoạt tính bệnh về lâm sàng, ức chế hủy khớp
(qua đánh giá tổng điểm Sharp Genant) và cải
thiện chức năng thể chất và thuốc có tính an toàn.
Trong 12 tháng đầu, bệnh nhân được chọn ngẫu
nhiên để dùng giả dược-MTX, 4mg/kg tocilizumab-
MTX, hoặc 8mg/kg tocilizumab-MTX. Trong năm
thứ 2, bệnh nhân tiếp tục điều trị mù đôi ban đầu
hoặc chuyển sang mở nhãn 8mg/kg tocilizumab-
MTX. Các tiêu chí chính để đánh giá ở tuần 104 là
thay đổi trung bình của tổng điểm Sharp Genant
được điều chỉnh (GmTSS) so với ban đầu và giá
trị trung bình được điều chỉnh của diện tích dưới
đường cong (AUC) cho sự thay đổi của chỉ số tàn
phế - bảng câu hỏi đánh giá sức khỏe (HAQ-DI)
so với trước điều trị. Các dấu hiệu và triệu chứng
của viêm khớp dạng thấp và tính an toàn cũng
được đánh giá. Kết quả cho thấy: Tại tuần 104,
trung bình thay đổi so với ban đầu của GmTSS
thấp hơn đáng kể ở nhóm dùng tocilizumab-MTX
4 mg/kg (0,58; p = 0,0025) hoặc 8 mg/kg (0,37; p
<0,0001) so với bệnh nhân dùng giả dược-MTX
(1,96). Thay đổi trung bình AUC của HAQ-DI so
với trước điều trị cũng thấp hơn đáng kể ở những
bệnh nhân ban đầu được chọn ngẫu nhiên để dùng
tocilizumab-MTX 4 mg/kg (-287,5; p <0,0001) hoặc
8 mg/kg (-320,8; p <0,0001) so với bệnh nhân ban
đầu ngẫu nhiên dùng giả dược-MTX (-139,4). Các
triệu chứng của viêm khớp dạng thấp được cải
thiện. Không có các tác dụng không mong muốn.
Có nhiều nghiên cứu trên nhóm bệnh nhân
người Việt, song chúng tôi chỉ trích dẫn kết quả của
một nghiên cứu đã được xuất bản năm 2014. Mặc
dù với thời gian ngắn (03 tháng) cũng mang lại kết
quả khả quan. Đối tượng gồm 60 bệnh nhân được
chẩn đoán viêm khớp dạng thấp theo tiêu chuẩn của
Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ 1987, điều trị tại Khoa
Cơ xương khớp - Bệnh viện Bạch Mai, thời gian
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 25
ABsTRACT
Rheumatoid arthritis - a chronic inflammatory joint disease has manifestation not only in the
synovial membrane, the whole joint but also expressed in many organs, systemically. Interleukin 6
(IL-6) is a multi-functional cytokine which has broadly biological impact to regulate various processes
including acute phase response in the liver, iron metabolism, hematopoietic, bone metabolism and
cardiovascular diseases. IL-6 is the main cause of many symptoms of the disease. Understanding
about IL-6 brings major advances in treatment: Interleukin 6 inhibitor -Tocilizumab controls the arthritis
process, preserves joint structure, prevents disability, improves the systemic symptoms, improves
quality of patients’ life. Efficacy and safety of the drug were proven by studies in local country and
abroad.
từ tháng 3/2012 đến tháng 8/2013. 60 bệnh nhân
này được chia làm 2 nhóm một cách ngẫu nhiên.
Nhóm 1: được điều trị 04 liều tocilizumab (Actemra)
8mg/kg/liều truyền tĩnh mạch mỗi 4 tuần phối hợp
với methotrexat. Nhóm 2, chỉ điều trị methotrexat
đơn độc. Đánh giá kết quả sau điều trị mỗi 04 tuần.
Kết quả cho thấy sau 12 tuần điều trị, phác đồ
Tocilizumab phối hợp với methotrexat đạt kết quả
cao hơn methotrexat đơn độc trong cải thiện mức
độ hoạt động của bệnh viêm khớp dạng thấp: nhóm
bệnh nhân dùng tocilizumab (04 liều) phối hợp với
methotrexat có tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng theo ACR
20, 50 và điểm hoạt động bệnh DAS28 khác biệt
có ý nghĩa so với nhóm dùng methotrexat đơn độc,
với lần lượt là p<0,05 và <0,001. Tỷ lệ tác dụng
không mong muốn tương đương ở cả hai nhóm
(26,7%) bao gồm nhiễm khuẩn đường hô hấp trên,
triệu chứng tiêu hóa, viêm miệng, tăng huyết áp,
tăng men gan mức độ nhẹ.
3. Kết luận
Interleukin 6 (IL-6) là một cytokin đa chức
năng có vai trò chính trong cơ chế bệnh sinh của
bệnh viêm khớp dạng thấp. IL-6 ảnh hưởng tới cả
triệu chứng tại khớp và toàn thân. Thuốc ức chế
Interleukin 6-Tocilizumab đạt hiệu quả cao và an
toàn trong điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp.
TàI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thượng Vũ, Nguyễn Thị Ngọc Lan
(2014)”. Đánh giá kết quả của tocilizumab
(Actemra) phối hợp với methotrexat trong điều trị
viêm khớp dạng thấp”, Tạp chí Nội khoa Việt Nam,
số đặc biệt (tháng 12/2014). Trang 97-105.
2. Cronstein BN (2007), “Interleukin-6-a key
mediator of systemic and local symptoms in
rheumatoid arthritis”, Bull NYU Hosp Jt Dis. 2007;65
Suppl 1:S11-5.
3. Dayer J M and E Choy, (2010), “Therapeutic
targets in rheumatoid arthritis: the interleukin-6
receptor”. Rheumatology (Oxford), 49(1): p. 15-24.
4. Kremer J M, Blanco R, Brzosko M et al,
(2011), Tocilizumab inhibits structural joint damage
in rheumatoid arthritis patients with inadequate
responses to methotrexate: reusults from the
double-blind treatment phase of a randomized
placebo-controlled trial of tocilizumab safety and
prevention of structural joint damage at one year
(LITHE study), Arthtitis Rheum, 63(3), p. 609-21.
5. McInnes IB, Schett G (2007) “Cytokines in
the pathogenesis of rheumatoid arthritis”. Nat Rev
Immunol 2007;7:429-42.
6. Sarwar N, et al. (2012) “Interleukin-6
receptor pathways in coronary heart disease:
a collaborative meta-analysis of 82 studies”.
Lancet. 2012 Mar 31;379(9822):1205-13
7. Scheller, J., et al.(2011), The pro- and anti-
inflammatory properties of the cytokine interleukin-6.
Biochim Biophys Acta, 2011. 1813(5): p. 878-88.
8. Yoshitake F, et al (2008) “Interleukin-6 directly
inhibits osteoclast differentiation by suppressing
receptor activator of NF-kappaB signaling pathways”
. J Biol Chem 2008;283:11535-40.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
vai_tro_cua_interleukin_6_trong_co_che_benh_sinh_cua_benh_vi.pdf