Sổ tay Báo cáo viên về Đại hội IX trang
32 (Hà Nội năm 2001) đã chỉ rõ khoa học và
công nghệ một khi trong hiện thực đã “trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp” đặt ra sự
cần thiết phải xây dựng một hệ thống chỉ
tiêu thống kê về KH&CN ngày càng hoàn
chỉnh, có trình độ phản ánh nhanh nhậy cao
nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo “nền kinh
tế phát triển với nhịp độ nhanh, có hiệu quả
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường”.
Thực tế ở nước ta chưa có hệ thống chỉ
tiêu này, mặc dù đã có một số các chỉ tiêu
thống kê về tiềm lực khoa học và công nghệ
cũng như về hoạt động KH & CN. Những chỉ
tiêu trên được thu thập thiếu tính hệ thống,
hơn nữa mới chỉ phản ánh được những yếu
tố “vật chất” như vốn, lao động và hoạt động
khoa học và công nghệ ở một thời điểm
nhất định, chưa thường xuyên bao quát toàn
xã hội. Vì vậy tác dụng thúc đẩy sự tăng
cường chỉ đạo, quản lý phát triển kinh tế nói
chung và phát triển khoa học và công nghệ
còn bị hạn chế.
Vấn đề hiện nay là tiếp tục hoàn chỉnh
những chỉ tiêu thống kê khoa học và công
nghệ đã có đồng thời phải sớm xác định
được những chỉ tiêu định hướng được vai
trò của khoa học và công nghệ trong phát
triển kinh tế (tức là phần cống hiến, phần
hiệu suất của khoa học và công nghệ trong
độ tăng trưởng kinh tế).
Đây là vấn đề khá phức tạp, khó khăn
hơn nhiều bởi lẽ “tiến bộ khoa học” thường
tiềm ẩn (nằm gọn) trong máy móc (tư bản)
trong “trí tuệ” của lao động, không dễ tách
bóc ra khỏi tư bản và lao động để đánh giá,
thống kê, định lượng.
Đương nhiên do yêu cầu của cuộc sống
cần phải sớm nghiên cứu đề xuất một hệ
thống chỉ tiêu khoa học và công nghệ hợp
lý, thực thi cao cùng phương pháp tính toán
các chỉ tiêu đó phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, tiếp cận thống kê khoa học và công
nghệ quốc tế và qua thực nghiệm, thực
hành, tích lũy kinh nghiệm sẽ điều chỉnh, bổ
sung ngày càng hoàn chỉnh
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 428 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của khoa học công nghệ đối với phát triển kinh tế xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 2
Vai trß cña khoa häc c«ng nghÖ ®èi víi
ph¸t triÓn kinh tÕ x· héi
PGS.TS. Tăng Văn Khiên
hoa học được hiểu là hệ thống tri
thức của con người về tự nhiên,
xã hội và tư duy với bản chất và quy luật
vận động của chúng được thể hiện bằng
những khái niệm, phán đoán, học thuyết
định hướng hoạt động của con người. Còn
công nghệ là sự ứng dụng, vật chất hóa các
tri thức khoa học vào thực tiễn sản xuất và
đời sống, đó là tập hợp các giải pháp,
phương pháp, quy trình, kỹ năng, phương
tiện kỹ thuật, được sử dụng tạo ra sản
phẩm vật chất và dịch vụ cụ thể.
Thuật ngữ khoa học và công nghệ là sự
thể hiện, đồng hành gắn bó giữa lý luận, lý
thuyết và thực tiễn, thực hành, giữa nghiên
cứu và ứng dụng thực tế.
Đầu thế kỷ XX, loài người đã tích lũy
được một kho tàng trí tuệ về khoa học và kỹ
thuật đồ sộ. Karl-Marx (1818 - 1883) đã từng
có một luận điểm nổi tiếng: “tri thức xã hội
phổ biến (được hiểu là khoa học - TVK) đã
chuyển hóa thành lực lượng sản xuất trực
tiếp”. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử lực
lượng sản xuất phát triển không đồng đều,
không dưới 80 - 90% dân số thế giới vẫn
sống trong nghèo nàn lạc hậu.
Khoa học và công nghệ (KHCN) giai
đoạn mới hiện nay bắt đầu phát triển mạnh
từ những năm 40 thế kỷ trước và đặc trưng
rõ nét nhất từ khi vệ tinh nhân tạo đầu tiên
chinh phục không gian vũ trụ (1957) tiếp đó
là con người bay vào vũ trụ, đặt chân lên
mặt trăng, cũng như các công trình nghiên
cứu vũ trụ khác đến nay hầu như là chuyện
“hàng ngày”. Được sự kích thích và sự hỗ
trợ của công nghệ vũ trụ, các ngành công
nghệ mới, có tầm cao mới liên tiếp ra đời,
đặc biệt là công nghệ thông tin, viễn thông,
công nghệ năng lượng tái tạo, với những
phát minh kỳ diệu như lade (1967), truyền
hình qua vệ tinh nhân tạo (1964), tổng hợp
gien (1973), mạch tổ hợp cho (1965), máy
tính điện tử, máy tính điện tử sinh học dựa
trên cấu tạo bộ óc con người (1994), bộ vi
xử lý (1971), rệp điện tử, máy gia tốc, v.v
Có thể nói từ nửa cuổi thế kỷ XX, con
người đã mở rộng them tầm nhìn, thực sự
nối thêm cánh để bay và làm việc trong
không gian bao la, đã làm cho không gian
thu hẹp khoảng cách, con người xích lại gần
gũi nhau hơn, cuộc sống tốt đẹp, sôi nổi
hơn, khối óc, sâu rộng hơn, hiểu biết thế
giới khách quan khám phá quá khứ lịch sử
cũng như dự đoán tương lai xác thực
hơn(1)
Đến cuối thế kỷ XX, có thể khẳng định
rằng nền sản xuất xã hội đang biến đổi sâu
sắc, mạnh mẽ cả về cơ cấu, chức năng và
phương thức hoạt động tạo nên một sự phát
triển nhảy vọt, một bước ngoặt lịch sử có ý
nghĩa trọng đại sang một thời đại kinh tế
mới (thường gọi là thời đại kinh tế tri thức)
quá độ sang một nền văn minh mới (thường
gọi là nền văn minh trí tuệ) mà nguyên nhân
và động lực chính là cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ mới (2) hình thành từ mấy
chục năm qua.
K
chuyªn san khoa häc vµ c«ng nghÖ víi ph¸t triÓn kinh tÕ 3
Nói kinh tế tri thức tức là nói nền “kinh
tế trong đó sản sinh ra, phổ cập và sử dụng
tri thức đóng vai trò quyết định nhất đối với
sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng
cao chất lượng cuộc sống”(3).
Đặc điểm của kinh tế tri thức là vai trò
ngày càng to lớn của những đổi mới liên tục
về khoa học và công nghệ trong sản xuất và
vai trò chủ đạo của thông tin và tri thức với
tư cách là nguồn lực cơ bản tạo nên sự tăng
trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế.
Các nhà nghiên cứu còn chỉ rõ, theo
cấp độ tiến hóa của các nền văn minh nhân
loại, có thể thấy quyền lực đang dịch chuyển
từ sức mạnh của bạo lực, vũ khí, tiền bạc
(thuộc hai nền văn minh nông nghiệp, công
nghiệp, sang sức mạnh của tri thức, trí tuệ.
Trong nền văn minh mới này, quyền lực
không còn phụ thuộc vào sức mạnh vật chất
và của cải sẵn có trong tay mà chủ yếu phụ
thuộc vào những nguồn tri thức nắm được.
Tài nguyên tri thức - trí tuệ cơ bản khác với
tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động ở chỗ
khi sử dụng hoặc trao đổi đã không mất đi
mà còn được bảo tồn hoặc có bổ sung
phong phú thêm, trái lại chi phí cho việc sử
dụng, trao đổi, phổ biến hầu như không
đáng kể. Tri thức còn là thứ “của cải” mà bất
cứ người nào, dân tộc nào, dù là yếu, nghèo
nhất, nếu có quyết tâm học hỏi cũng đều có
thể giành được, chiếm đoạt được.
Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, khoa
học và công nghệ đã thực sự thúc đẩy sự
gia tăng của cải vật chất, nâng cao chất
lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
ngày càng cao của con người.
Khoa học và công nghệ đã trực tiếp tác
động nâng cao năng suất lao động, giảm
nhẹ cường độ lao động, giảm chi phí, giá
thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật
chất, tăng tỷ lệ chất xám trong cấu tạo sản
phẩm, Nhiều sản phẩm mới ra đời phong
phú, đa dạng, đa năng, mẫu mã đẹp, kích
thước nhỏ nhẹ hơn. Chu kỳ sản xuất cũng
được rút ngắn đáng kể.
Theo một số số liệu thống kê đáng tin
cậy:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới
năm 1990 so 1982 tăng 28,5% - khối lượng
thương mại thế giới tăng 57,9% (IMF
10/1990).
+ Trong 5 năm đầu thế kỷ XXI, GDP
của thế giới tăng 40,5% (44 nghìn tỷ
USSD/31,6 nghìn tỷ USD - Niên giám thống
kê/ TCTK 2006).
+ Thế kỷ XVIII, một nước muốn công
nghiệp hóa thường mất 100 năm. Đầu thế
kỷ XX, còn khoảng 30 năm. Vào thập niên
70 - 80 rút xuống 20 năm. Thập niên 90 chỉ
còn trên dưới 10 năm (4).
Quãng thời gian cần thiết để tăng gấp
đôi GDP (Tổng sản phẩm quốc dân) theo
đầu người đã được rút ngắn một cách ổn
định. Nếu như Anh mất 58 năm (kể từ
1780), Mỹ 47 năm (từ 1839), Nhật 34 năm
(kể từ 1880) thì từ sau Đại chiến thứ hai,
cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp
lần thứ ba còn đẩy tốc độ này lên cao hơn
như Brazin 18 năm, Indonesia 17 năm, Hàn
Quốc 11 năm, Trung Quốc 10 năm(4).
Ở Việt Nam Cách mạng Tháng Tám
1945 thành công, nền khoa học - kỹ thuật
Việt Nam mới được hình thành và từng
bước phát triển theo hướng hiện đại hóa
nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng phấn
đấu đạt đến mục tiêu xây dựng nước Việt
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 4
Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, nhân dân
ấm no, hạnh phúc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ, Đảng và nhà nước ta đặc
biệt quan tâm phát triển khoa học và công
nghệ phục vụ đắc lực cuộc cách mạng kỹ
thuật thời chiến, giành thắng lợi trong chiến
tranh và xây dựng tiềm lực sẵn sàng tiến
hành cuộc cách mạng khoa học trên quy mô
lớn với trình độ cao sau khi kết thúc chiến
tranh. Song do xuất phát điểm từ nền kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, nên trình độ khoa học - công nghệ
- kỹ thuật tuy có phát triển nhưng vẫn chậm
chạp và thua kém so trình độ chung của các
nước trong khu vực. Tỷ lệ ngành công
nghiệp chế biến Việt Nam năm 1995 chiếm
trong GDP là 15,0%, chỉ ngang mức của
Hàn Quốc năm 1965, của Thái Lan 1970,
Malaysia 1974, Indonesia 1985 (tỷ lệ giá trị
tăng thêm của công nghiệp chế biến chiếm
trong GDP cao hay thấp cũng là một trong
những chỉ tiêu phản ánh khoa học công
nghệ phát triển mạnh hay yếu).
Từ khi chúng ta bắt đầu sự nghiệp đổi
mới và mở cửa và đặc biệt là từ khi có Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996), nhận
thức về vai trò của KHCN đã được nâng cao
rõ nét và ngày càng khẳng định vai trò động
lực của KHCN trong phát triển kinh tế.
Phương châm phát triển kinh tế phải dựa
vào KHCN và KHCN phải hướng vào xây
dựng kinh tế. Đặc biệt trong trào lưu hội
nhập quốc tế và khu vực, nhiều doanh
nghiệp đã nhận thức là chỉ có đổi mới công
nghệ mới đủ sức cạnh tranh và tồn tại được
trong nền kinh tế thị trường. Chủ trương đó
đã thúc đẩy và tạo điều kiện các ngành các
cấp, các tầng lớp tri thức, sinh viên, doanh
nhân, kể cả nông dân, nghệ nhân, chủ trang
trại, nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa
học, kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công
nghệ với tinh thần làm giàu cho mình, cho
quê hương, cải thiện điều kiện lao động,
mới có giá trị cao, phục vụ tiêu dùng và xuất
khẩu. Doanh nghiệp đã trở thành chủ thể
của đổi mới công nghệ, nhân tố quan trọng
trong hệ thống đổi mới quốc gia.
Có những thành tựu KHCN nổi bật
trong thời gian gần đây đã được đưa vào
sản xuất đại trà mang lại hiệu quả cao. Điển
hình như trong nông nghiệp đã có hàng
chục loại giống lúa lai (nhất là lúa Việt lai 20,
Việt lai 24), giống ngô lai, công nghệ chuyển
đổi giới tính trước tiên là cá rô phi, cà mè
vinh, lai tạo giống hoa mới, v.v... Trong công
nghiệp và xây dựng: sản xuất xi măng giếng
khoan chủng loại G, chế tạo chất nổ ANFO
chịu nước có sức công phá lớn, máy cắt
plasma - khí ga, xây dựng trạm thu vệ tinh
NOAA, ứng dụng công nghệ đúc hẫng và
đúc đẩy, thi công cầu dây văng, Trong y
tế: sản xuất một số vacxin (tả, viêm gan B
thế hệ mới, viêm não Nhật Bản,), thụ tinh
trong ống nghiệm.
Đặc biệt công nghệ thông tin, bưu
chính viễn thông ta đã có những bước phát
triển nhảy vọt và đạt trình độ cao, phục vụ
ngày càng nhiều và có hiệu quả cho phát
triển sản xuất và nâng cao đời sống của
nhân dân.
Như vậy, có thể khẳng định là KH&CN
nước ta, dù mới phát triển và không khỏi
chập chững trong những bước đi ban đầu
nhưng đã thực sự góp phần đáng kể vào
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, đặc biệt trong những năm gần đây.
Điều đó được thể hiện qua kết quả thực
hiện một số chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế dưới
đây:
chuyªn san khoa häc vµ c«ng nghÖ víi ph¸t triÓn kinh tÕ 5
- Tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn
định GDP tăng bình quân/năm thời kỳ 1996
- 2000 là 7,0%, thời kỳ 2001 - 2005 là
7,51%.
- Cả 3 khu vực kinh tế đều phát triển,
trong đó công nghiệp và dịch vụ có tốc độ
tăng khá cao (công nghiệp chế biến tăng
13,5%/năm). Nông nghiệp (kể cả lâm nghiệp
và thủy sản) vào loại khá trên thế giới: Thời
kỳ 1996 - 2000 tăng bình quân 5,7%/năm,
2001 - 2006 tăng 5,4%/năm. Năm 2005, Việt
Nam đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu
gạo, cà phê, thứ tư về cao su và thứ nhất về
hạt điều. An ninh lương thực được giữ
vững, chất lượng gạo xuất khẩu được nâng
lên và đã đưa giá xuất khẩu xấp xỉ giá gạo
của Thái Lan.
- Hàng hóa và dịch vụ chẳng những
bảo đảm nhu cầu tiêu dùng trong nước mà
còn tăng nhanh giá trị xuất khẩu. Kim ngạch
xuất khẩu thời kỳ 1996 - 2000 tăng bình
quân/năm trên 21%, 2001-2005 tăng 17,5%.
- Tiềm lực khoa học và công nghệ nước
ta được tăng cường một bước đáng kể.
Hiện nay cả nước ta hiện có khoảng 2,4
triệu người có trình độ cao đẳng và đại học
trở lên, gần đây mỗi năm sinh viên ra trường
trên dưới 200 nghìn người là lực lượng tiềm
năng tham gia hoạt động KHCN.
Với nhịp độ tăng cao và khá ổn định về
các chỉ tiêu kinh tế như hiện nay, trong điều
kiện bình thường, Việt Nam có khả năng rút
ngắn thời gian đạt mục tiêu cơ bản hoàn
thành CNH - HĐH trước năm 2020.
Qua phân tích trên ta thấy ở đâu và khi
nào khoa học và công nghệ cũng luôn là lực
lượng sản xuất số một, là động lực quan
trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề làm thế nào có thể
đánh giá tác động hay đánh giá sự đóng góp
của KHCN đối với phát triển kinh tế trong
một quốc gia hoặc một ngành nào đó luôn
luôn là vẫn đề thời sự thu hút nhiều quốc
gia, nhiều giới xã hội quan tâm trong thập
niên qua.
Đo lường tác động của tiến bộ KHCN
đối với phát triển kinh tế, chính là đánh giá
định lượng sự đóng góp của tiến bộ KHCN,
là xác định hiệu quả kinh tế và xã hội của
đầu tư cho nghiên cứu khoa học, phát triển.
Đây không chỉ là nội dung quan trọng để
phân tích tác động của nó đối với phát triển
kinh tế, mà còn cung cấp luận cứ khoa học
cho việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh
tế dài hạn, từng bước đưa hệ thống chỉ tiêu
vĩ mô của niền kinh tế quốc dân vào khảo
nghiệm trong thực tế.
Trên thế giới vấn đề đánh giá tiến bộ
khoa học công nghệ đã và đang được nhiều
nước công nghiệp phát triển quan tâm, và
các nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường cũng đang cố gắng xây dựng
phương pháp luận phù hợp với điều kiện
của mình. Trong quá trình đổi mới hệ thống
quản lý KHCN, nhiều tổ chức quốc tế và các
nước công nghiệp phát triển, và đặc biệt
trong những năm gần đây các nước XHCN
(cũ) như Nga, Trung Quốc, v.v rất quan
tâm đến công tác đánh giá trong quản lý.
Ở Việt Nam, trong hướng dẫn xây dựng
kế hoạch 5 năm phát triển KHCN giai đoạn
1991 - 1996 đã đưa chỉ tiêu về sự đóng góp
của KHCN đối với tăng trưởng kinh tế,
nhưng sau đó do không có sự chỉ đạo của
các cơ quan hữu quan Nhà nước đối với nội
dung nghiên cứu này, nên vấn đề này bị
lãng quên.
Th«ng tin Khoa häc Thèng kª 6
Trong những năm gần đây, nhiều chính
khách trong Quốc hội, Văn phòng Chính phủ
và nhiều nhà lãnh đạo các Bộ/Ngành đã
phát biểu công khai đòi hỏi các nhà khoa
học và các nhà quản lý phải nhanh chóng
đưa ra phương pháp tính toán và đánh giá
sự đóng góp của tiến bộ KHCN đối với tăng
trưởng kinh tế. Nhưng cho đến nay vẫn
chưa có câu trả lời chính thống, dù chỉ là
những nét phác thảo và tư tưởng chỉ đạo
ban đầu.
Sổ tay Báo cáo viên về Đại hội IX trang
32 (Hà Nội năm 2001) đã chỉ rõ khoa học và
công nghệ một khi trong hiện thực đã “trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp” đặt ra sự
cần thiết phải xây dựng một hệ thống chỉ
tiêu thống kê về KH&CN ngày càng hoàn
chỉnh, có trình độ phản ánh nhanh nhậy cao
nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo “nền kinh
tế phát triển với nhịp độ nhanh, có hiệu quả
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường”.
Thực tế ở nước ta chưa có hệ thống chỉ
tiêu này, mặc dù đã có một số các chỉ tiêu
thống kê về tiềm lực khoa học và công nghệ
cũng như về hoạt động KH & CN. Những chỉ
tiêu trên được thu thập thiếu tính hệ thống,
hơn nữa mới chỉ phản ánh được những yếu
tố “vật chất” như vốn, lao động và hoạt động
khoa học và công nghệ ở một thời điểm
nhất định, chưa thường xuyên bao quát toàn
xã hội. Vì vậy tác dụng thúc đẩy sự tăng
cường chỉ đạo, quản lý phát triển kinh tế nói
chung và phát triển khoa học và công nghệ
còn bị hạn chế.
Vấn đề hiện nay là tiếp tục hoàn chỉnh
những chỉ tiêu thống kê khoa học và công
nghệ đã có đồng thời phải sớm xác định
được những chỉ tiêu định hướng được vai
trò của khoa học và công nghệ trong phát
triển kinh tế (tức là phần cống hiến, phần
hiệu suất của khoa học và công nghệ trong
độ tăng trưởng kinh tế).
Đây là vấn đề khá phức tạp, khó khăn
hơn nhiều bởi lẽ “tiến bộ khoa học” thường
tiềm ẩn (nằm gọn) trong máy móc (tư bản)
trong “trí tuệ” của lao động, không dễ tách
bóc ra khỏi tư bản và lao động để đánh giá,
thống kê, định lượng.
Đương nhiên do yêu cầu của cuộc sống
cần phải sớm nghiên cứu đề xuất một hệ
thống chỉ tiêu khoa học và công nghệ hợp
lý, thực thi cao cùng phương pháp tính toán
các chỉ tiêu đó phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, tiếp cận thống kê khoa học và công
nghệ quốc tế và qua thực nghiệm, thực
hành, tích lũy kinh nghiệm sẽ điều chỉnh, bổ
sung ngày càng hoàn chỉnh
(1)
Tháng 4/1992 vệ tinh nhân tạo Cobe (người
thám hiểm nền vũ trụ) truyền về trái đất hình ảnh
vũ trụ khi mới hình thành sau vụ nổ Big Bang
cách đây khoảng 15 tỷ năm. Các nhà khoa học
hy vọng trên các máy gia tốc năng lượng lớn có
thể tái tạo lại sự ra đời của vũ trụ (Almanach
những nền văn minh thế giới - NXB Văn hóa -
Thông tin, 1997, trang 1932).
(2) Còn gọi là cuộc cách mạng khoa học công
nghệ lần thứ ba, động lực chính là khoa học và
công nghệ, hình thành từ giữa thế kỷ XX (cuộc
cách mạng khoa học công nghệ lần 1 (thế kỷ 18)
bắt nguồn từ giai đoạn thay thế lao động thủ
công bằng lao động cơ giới. Cuộc cách mạng
khoa học công nghệ lần 2 (thế kỷ 19) tiêu biểu là
sản xuất điện năng và nền sản xuất đại cơ giới.
(3)
Sổ tay Báo cáo viên về Đại hội IX Đảng CSVN.
Trung tâm thông tin công tác tư tưởng/Ban Tư
tưởng văn hóa Trung ương - 2001.
(4)
Almanach những nền văn minh thế giới 1997
(trang 1943).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_khoa_hoc_cong_nghe_doi_voi_phat_trien_kinh_te_xa.pdf