Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý đất đai trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Qua kết quả nghiên cứu tổng kết đánh giá
thực trạng quản lý và sử dụng đất đai, khoa
học xã hội đã đề xuất các kiến nghị trong
việc hoạch định chính sách, đường lối chủ
trương trong quản lý và sử dụng dụng đất
đai. Những kiến nghị tập trung vào những
vấn đề chính:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật
đất đai theo hướng công khai, minh bạch,
hiệu lực hiệu quả. Cải cách các thủ tục hành
chính trong quản lý và sử dụng đất đai phải
được công khai và thực hiện theo trình tự,
thủ tục luật định.
Thứ hai, nâng cao năng lực của đội ngũ
thực hiện thủ tục hành chính trong quản lý
và sử dụng đất đai; nâng cao tinh thần trách
nhiệm trong công tác và đạo đức tư cách
nghề nghiệp của cán bộ địa chính các cấp;
bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn
cho các cán bộ địa chính trên cả nước; có
quy chế cụ thể và tiêu chuNn hóa về nghiệp
vụ cán bộ địa chính.
Thứ ba, xây dựng một hệ thống đăng ký
đất đai hiện đại, được thực hiện bởi một hệ
thống cơ quan là Văn phòng đăng ký đất
đai; hoàn thành việc thành lập Văn phòng
đăng ký đất đai một cấp trên toàn quốc. Các
Văn phòng đăng ký đất được phân cấp thực
hiện thủ tục đăng ký đất đai, xây dựng,
quản lý, cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính
và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai. Văn
phòng đăng ký đất đai sẽ được xây dựng
thành hệ thống cơ quan duy nhất có chức
năng đăng ký đất đai hiện đại được số hóa,
chuNn hóa cơ sở dữ liệu đất đai tại các địa
phương. Thực hiện đúng phân cấp quản lý,
sắp xếp lại hồ sơ địa chính theo mô hình
mới, thuận tiện cho việc tra cứu, cập nhật
chỉnh lý thường xuyên. Xây dựng quy trình
đăng ký đất đai hiện đại được thực hiện tại
Văn phòng đăng ký đất đai; xây dựng mô
hình Văn phòng đăng ký đất đai một cấp là
một bước chuyển biến quan trọng trong
công tác quản lý đất đai. Việc hoàn thiện
việc xây dựng mô hình Văn phòng đăng ký
đất đai một cấp trên toàn quốc đòi hỏi sự nỗ
lực của tất cả các cấp, các ngành, nhất là sự
chỉ đạo quyết liệt, chuNn bị công phu của
ngành tài nguyên và môi trường. Bên cạnh
đó, việc hoàn thiện hành lang pháp lý, hoàn
thiện cơ chế hoạt động của Văn phòng đăng
ký đất đai một cấp, hoàn thiện cơ chế hoạt
động tài chính là một công việc không chỉ
của ngành tài nguyên môi trường, mà còn là
công việc của nhiều bộ ngành liên quan.
Thứ tư, đNy nhanh công tác cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng
hồ sơ địa chính và xây dựng thông tin đất
đai; toàn bộ những thông tin về đăng ký đất
đai sau khi được cơ quan nhà nước có thNm
quyền duyệt sẽ được lưu giữ tại hồ sơ địa
chính, hệ thống bản đồ địa chính chính xác
là cơ sở để Nhà nước cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, là cơ sở để giải quyết
tranh chấp khi có tranh chấp xảy ra, là
phương tiện giúp Nhà nước thực hiện tốt
công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của khoa học xã hội trong hoạch định chính sách quản lý và sử dụng đất đai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
59
Vai trò của khoa học xã hội trong hoạch định
chính sách quản lý và sử dụng đất đai
Đặng Thị Phượng1
1 Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email: phuongtdbk36@gmail.com
Nhận ngày 5 tháng 2 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 7 tháng 6 năm 2019.
Tóm tắt: Khoa học xã hội là một lĩnh vực tri thức đặc thù, nghiên cứu tìm hiểu về con người và xã
hội nhằm nắm bắt các quy luật xã hội. Các quy luật xã hội vừa mang tính khách quan vừa mang tính
chủ quan, có vai trò quan trọng để hoạch định các chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Vai trò của khoa học xã hội ngày càng được khẳng định trong việc hoạch
định đường lối, chính sách phát triển đất nước nói chung, cũng như đường lối chính sách quản lí và
sử dụng đất đai nói riêng. Tuy nhiên, hiện tại hiệu quả các công trình nghiên cứu của khoa học xã
hội chưa cao, tính dự báo chưa đạt. Điều đó đòi hỏi có những giải pháp thích hợp để nâng cao hơn
nữa vai trò của khoa học xã hội hiện nay.
Từ khóa: Vai trò của khoa học xã hội, hoạch định chính sách, quản lý và sử dụng đất đai.
Phân loại ngành: Luật học
Abstract: Social sciences are a particular field of knowledge, which studies humans and society to
grasp the laws of society. The laws are both objective and subjective, playing an important role in
planning the Party’s policies and guidelines and the State’s legislation. The role of social sciences has
been increasingly affirmed in planning policies and guidelines for national development in general, as
well as those for land management and use in particular. However, currently, the effectiveness of
research projects of social sciences is not yet high, and that of their forecasts is not yet as needed.
That requires appropriate solutions to enhance the role of social sciences further today.
Keywords: Role of social sciences, policy making, land management and use.
Subject classification: Jurisprudence
1. Mở đầu
Đất đai là tài sản quốc gia có vai trò quan
trọng đối với đời sống xã hội. Nhà kinh tế
học người Anh, William Petty (1623-1687)
có một luận điểm nổi tiếng “lao động là cha,
đất là mẹ của cải vật chất”. Trong Luật Đất
đai 1993 cũng có ghi “Đất đai là tài nguyên
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 8 - 2019
60
quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu
của môi trường sống, là địa bàn phân bố các
khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng Trải
qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao
nhiêu công sức, xương máu mới tạo lập, bảo
vệ được đất đai như ngày nay”.
Đất đai hiện nay không những có vai trò
vô cùng to lớn trong đời sống xã hội mà là
một tài sản lớn của mỗi người, mỗi gia đình
và mỗi quốc gia. Từ thời xa xưa các cuộc
xâm lăng của các nước lớn với các nước nhỏ
đều từ mục đích mở rộng biên cương bờ cõi.
Ngày nay, vai trò của đất đai đối với mỗi
quốc gia và mỗi gia đình và mỗi người ngày
càng trở lên vô cùng quan trọng. Quỹ đất thì
có giới hạn, một vấn đề đặt ra là phải bảo tồn
và giữ gìn nguồn tài nguyên thiên nhiên có
giới hạn đó.
Khoa học xã hội với tư cách là một khoa
học đặc thù, có vai trò quan trọng trong việc
hoạch định chính sách, chủ trương, đường
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
quản lí và sử dụng đất đai. Bài viết phân tích
vai trò của khoa học xã hội trong hoạch định
chính sách quản lý và sử dụng đất đai, bao
gồm: cung cấp các luận cứ khoa học; đổi
mới tư duy; đánh giá thực tiễn; và đề xuất
giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử
dụng đất đai ở Việt Nam hiện nay.
2. Cung cấp các luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về quản lý và
sử dụng đất đai
Khoa học xã hội nghiên cứu cơ sở lý luận,
thực trạng chính sách quản lý và sử dụng đất
đai của Đảng và Nhà nước trong từng thời
kì, những ưu điểm và hạn chế, tìm ra những
nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế. Từ đó,
góp phần cung cấp các luận cứ khoa học để
Đảng và Nhà nước hoạch định chính sách
quản lí và sử dụng đất đai phù hợp với từng
thời kì.
Ở Việt Nam, thời kì phong kiến, sở hữu
đất đai gồm có ruộng công điền, công thổ và
ruộng tư - đất đai thực chất thuộc sở hữu nhà
nước đại diện là nhà vua. Đặc điểm chung ở
các nước phong kiến phương Đông (Trung
Quốc, Ấn Độ, Việt Nam) đất đai thuộc sở
hữu nhà nước mà đại diện là nhà vua. Nhà
nước duy trì hoạt động bộ máy, trả lương,
cấp thưởng bổng lộc cho quan lại bằng
ruộng đất (chế độ lộc điền). Lộc điền là việc
vua đại diện cho quyền lực của nhà nước cấp
ruộng đất cho tầng lớp quan lại cấp cao
trong triều và các hoàng thân quốc thích.
Ruộng công điền gồm hai loại: công điền
thuộc sở hữu nhà nước và công điền thuộc
sở hữu xã thôn. Ruộng công thuộc sở hữu
nhà nước có ruộng quốc khố (ruộng nhà
nước trực tiếp kinh doanh) và ruộng công
dùng để phân phong [1, tr.1206].
Ruộng công xã thôn chủ yếu dùng để
nuôi binh lính và thực hiện chính sách “ngụ
binh ư nông”. Ruộng công xã thôn thuộc sở
hữu trong phạm vi xã thôn. Ruộng công xã
thôn không thuộc sở hữu cá nhân, các thành
viên trong xã thôn thay phiên nhau cày cấy.
Ruộng chỉ chia cho những người thiếu ruộng
chứ không chia cho người có nhiều ruộng.
Nhà nước quản lý chặt chẽ việc sử dụng
ruộng công, tránh việc bỏ hoang. Luật pháp
cấm bán ruộng công.
Nhà Lý đã tiến hành đo đạc và xác lập
chủ quyền về ruộng đất từ khi giành được
chính quyền. Nhà Lý công nhận và bảo hộ
việc mua bán ruộng đất hợp pháp “bán đoạn
ruộng hoang, ruộng thục có văn khế thì
không được đòi lại nữa” Hoặc có kẻ tranh
nhau ruộng ao, dùng khí giới đánh người
chết hay bị thương, cũng bị 80 trượng, xử
tội đồ, lấy ruộng ao trả cho người chết hoặc
bị thương” [15, tr.290]. Năm Thiệu Minh
thứ 6 (1145), chiếu rằng: “Những kẻ tranh
ĐặngThị Phượng
61
nhau ruộng ao của cải không được nhờ
người quyền thế, làm trái thì bị 80 trượng,
xử tội đồ”. Nhà Trần đặc biệt quan tâm đến
vấn đề quản lý đất đai, mở rộng khai hoang,
coi trọng việc xây dựng các công trình thủy
lợi. Đặc biệt nhà Trần cử hai viên quan
Chánh sứ và Phó sứ đôn đốc việc khai khNn
đất đai của quân dân.
Nhà Lê tiến hành thống kê, làm sổ và
phân hạng ruộng đất từ sau kháng chiến
chống quân Minh thắng lợi. “Mùa thu năm
đó, nhà Lê chính thức ra lệnh cho các địa
phương thống kê tổng số ruộng đất của các
quan y ngạch cũ, của các thế gia triều trước,
của nhân dân tuyệt tự cùng là ruộng đất của
ngụy quan, của lĩnh trốn hạn đến tháng tư
năm thì dâng nộp Cuối năm 1428, nhà Lê
lại hạ lệnh cho các phủ huyện làm sổ ruộng,
sổ hộ: chỉ huy cho các phủ, huyện, trấn, lộ
đến nơi khám xét các chằm bãi, ruộng đất
và các mỏ vàng bạc cùng là các hạng
ruộng đất của các thế gia và nhân dân tuyệt
tự, binh trốn đều sung làm của công, hạn
đến năm Kỷ dậu (1429), trung tuần tháng 2
trình lên” [15, tr.64-65].
Pháp luật nhà Lê quy định chế độ tô thuế
cho từng loại ruộng đất, cấm bán ruộng
công. Điều 342 Luật Hồng Đức quy định
cấm dân không được bán ruộng của công
cấp cho hay ruộng khNu phần. Chính sách
quân điền được nhà Lê ban hành vào đời
Hồng Đức (1470-1497), quy định việc đo
đạc phân chia ruộng đất 6 năm một lần.
Đến thế kỷ XVII-XVIII, kinh tế hàng hóa
phát triển mạnh ảnh hưởng đến quá trình
phân hóa ruộng đất. Việc mua bán ruộng đất
đã trở nên phổ biến. Nhưng nhà nước phong
kiến vẫn duy trì chế độ công điền, cấm mua
bán ruộng công và bắt trả lại ruộng công đã
mua trong trường hợp có thể. Chúa Trịnh
ban hành Chính sách quân điền năm 1711
gồm có 10 điều và một bản quy định cụ thể
về số phần cấp cho các hạng. Thời hạn quân
cấp vẫn giữ 6 năm. Cho phép bán ruộng khi
“có việc quan bức bách”. Ruộng đất công
làng xã thời kỳ này không còn là chỗ dựa
về kinh tế cho nhân dân lao động, và cũng
không là nguồn lợi gắn bó cuộc sống của họ
với làng xã. Được chia một vài sào, một vài
thước ruộng công phải chịu đủ loại sưu
thuế. Chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất
giai đoạn này đạt đến đỉnh cao. Cùng với đó
là một bộ phận địa chủ phong kiến có đặc
quyền đặc lợi, không phải chịu bất kỳ nghĩa
vụ nào đối với nhà nước. Tình trạng sở hữu
tư nhân về ruộng đất thực hiện theo hướng
tuyệt đối hóa, hoàn toàn tách những người
có ruộng và những người không có ruộng.
Nhưng ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân
thường mang tính chất phân tán.
Thế kỷ XIX, cùng với sự tồn tại của các
triều đại vua Gia Long (1802-1819), Minh
Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1848),
Tự Đức (1849 trở đi), chính sách ruộng đất
phát triển theo các giai đoạn lịch sử. Ruộng
đất giai đoạn này để hoang hóa nhiều. Nông
dân lưu tán khắp nơi, đặc biệt từ nạn lưu tán
cả làng bỏ đi, vùng tả ngạn sông Hồng có
372 xã thôn phiêu tán. Ruộng đất đối với
nông dân, theo nhận xét của người nước
ngoài: “Ruộng đất chia rất nhỏ, nhưng số gia
đình không ruộng đất rất nhiều, hình thành
số dân ngoài số đinh ở các làng nông dân
vô sản nghiệp rất nhiều không thấy có chế
độ cho thuê ruộng mà chỉ thấy chế độ lĩnh
canh với các tá điền” [21, tr.244].
Đến cuối thế kỷ XIX, Pháp bắt đầu khai
thác thuộc địa ở nước ta, chia nước ta thành
ba Kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ) với
ba chế độ cai trị khác nhau cùng song song
tồn tại. Một hệ thống quản lý đất đai từ
trung ương đến địa phương được thành lập
gồm có: Sở địa chính thuộc Thống sứ Bắc
Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ và Thống đốc Nam
Kỳ; Ty địa chính; nhân viên địa chính là
trưởng bạ ở Bắc Kỳ, hương bộ thuộc Nam
Kỳ. Ba chế độ quản lý đất đai song song tồn
tại: Chế độ điền thổ và quản thủ địa chính
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 8 - 2019
62
tại Bắc Kỳ, chế độ điền thổ tại Nam Kỳ, và
chế độ quản thủ địa chính tại Trung Kỳ.
Dưới thời Pháp thuộc, chế độ công điền,
công thổ vẫn tồn tại. Kinh tế hàng hóa phát
triển dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, một
bộ phận nông dân bị phá sản “khi kinh tế
khủng hoảng, dân cày nhiều nơi phải cầm
đợ ruộng cho nhà giàu, rồi đến hạn không
trả nợ được phải bán đoạn cho chủ nợ với
một giá rất rẻ. Ruộng đất càng tập trung vào
tay địa chủ hay nhà nông phú ngân hàng”
[15, tr.63-64].
Ruộng tư điền tồn tại trong thời phong
kiến gồm có: đất ở, đất “bản thôn điền thổ”,
ruộng hậu, ruộng hương hỏa, ruộng giỗ,
ruộng chùa. Ruộng tư mở rộng khi giai cấp
địa chủ mới nổi lên, dùng tiền mua ruộng
công (điền trang, đồn điền).
Có thể nói, trong thời phong kiến Việt
Nam, chế độ công điền có vai trò quan trọng
trong việc duy trì bộ máy nhà nước phong
kiến. Pháp luật bảo vệ và hợp lí hóa việc sở
hữu đất đai của địa chủ. Như quy định việc
mua bán, cầm cố, thừa kế ruộng đất (mua
bán ruộng đất chỉ được thực hiện khi hai bên
cam kết cùng kí vào một hợp đồng; ruộng
đất đã bán đứt thì không được đòi lại; thời
hạn cầm cố ruộng đất tối đa là 30 năm, quá
hạn không được chuộc lại nữa). Nhiều triều
đại cũng ban hành các chính sách nhằm phát
triển sản xuất nông nghiệp, mở rộng việc
khai hoang, chăm lo công tác thủy lợi. Năm
1471, Lê Thánh Tông cho lập bản đồ hành
chính để khẳng định chủ quyền, sau khi mở
rộng bờ cõi về phía nam.
Cách mạng tháng Tám thành công, với
mục tiêu “người cày có ruộng”, Hiến pháp
năm 1946 quy định “Quyền sở hữu tài sản
của công dân Việt Nam được bảo đảm” [18].
Luật Cải cách ruộng đất là cơ sở pháp lí để
thực hiện khNu hiệu người cày có ruộng.
Hiến pháp năm 1959, một lần nữa khẳng
định quan điểm của Đảng và N hà nước bảo
hộ quyền sở hữu ruộng đất của nông dân
“N hà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ
quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu
sản xuất khác của nông dân” [18].
Sau cải cách ruộng đất, miền Bắc tiến
hành hợp tác hóa nông nghiệp. Theo Nghị
quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu
của Đảng “Ruộng đất của xã viên, về
nguyên tắc phải đưa toàn bộ vào hợp tác xã
và thống nhất sử dụng; nhưng chiếu cố sinh
hoạt riêng của xã viên và nhằm sử dụng vốn
lao động của nông dân trong lúc nhàn rỗi,
Nhà nước để lại cho xã viên một số đất
không quá 5% diện tích bình quân của mỗi
người trong xã dùng để trồng rau, trồng cây
ăn quả, chăn nuôi” [11, tr.325].
Hiến pháp năm 1959 quy định 3 hình
thức sở hữu đất đai, sở hữu tư nhân, sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể. Thực tế cho thấy,
quy định sở hữu tập thể đối với đất đai gây
lãng phí, giảm hiệu quả sử dụng đất. Hiến
pháp năm 1980 ra đời, kế thừa và phát huy
những thành tựu của Hiến pháp năm 1946 và
Hiến pháp năm 1959, quy định thiết lập một
hình thức sở hữu đất đai duy nhất là sở hữu
toàn dân về đất đai. “Đất đai, rừng núi, sông
hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong
lòng đất... đều thuộc sở hữu toàn dân” [18].
Thể chế hóa những quy định tại Hiến pháp
năm 1980, Luật Đất đai năm 1987 quy
định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do
Nhà nước thống nhất quản lý” [20, 1987].
Trong giai đoạn này, khoa học xã hội có
vai trò quan trọng, tạo những bước chuyển
sâu sắc trong tư duy lí luận, đóng góp
chung vào thành quả cách mạng. Khoa học
xã hội đã có những nghiên cứu, tổng kết
đánh giá việc triển khai thực hiện chính
sách đất đai trong lịch sử cũng như việc
thực hiện khNu hiệu “người cày có ruộng”.
Những kết quả nghiên cứu, đánh giá thực tế
này của khoa học xã hội là những cơ sở
cho các chính sách đất đai trong giai đoạn
tiếp theo.
ĐặngThị Phượng
63
3. Đổi mới tư duy, hoạch định đường lối,
chủ trương chính sách của Đảng và chính
sách của Nhà nước về quản lý và sử dụng
đất đai
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX khẳng định: “Hình thành và phát triển thị
trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật; từng
bước mở thị trường bất động sản cho người
nước ngoài tham gia đầu tư” [10, tr.101].
Giai đoạn 1996-2000, Nhà nước giao
cho các tổ chức khoảng 260.000 ha đất
chuyên dùng để xây dựng và phát triển hạ
tầng. Nhà nước giao và cho thuê 25.000 ha
đất cho các tổ chức, cá nhân để xây dựng
nhà ở và phát triển đô thị. Diện tích nhà ở
đô thị tăng từ 4m2 lên 8m2/người.
Luật Đất đai năm 1993 có những quy
định tạo tiền đề cho nền kinh tế hàng hóa
phát triển. Đó là sự công nhận thị trường
bất động sản, quy định giá đất, quy định
năm loại quyền cho hộ gia đình và cá nhân
sử dụng đất (quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp
quyền sử dụng đất).
Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu”. Hiến pháp năm 2013 tiếp
tục khẳng định “Đất đai là tài nguyên đặc
biệt quốc gia, nguồn lực quan trọng phát
triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.
Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất.
Người sử dụng đất được chuyển quyền sử
dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật. Quyền sử dụng
đất được pháp luật bảo hộ” [18].
Người sử dụng đất được Nhà nước trao
cho quyền sử dụng đất. Quyền sở hữu gồm
có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt. Nhà nước là đại diện chủ
sở hữu đất đai, về nguyên tắc Nhà nước sẽ
có đầy đủ ba quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt đối với đất đai. Nhưng đất đai là
một loại tài sản đặc biệt, Nhà nước không
thực hiện quyền đối với tài sản của mình
một cách thông thường, Nhà nước thực hiện
quyền sở hữu đối với tài sản đất đai một
cách đặc biệt bằng việc ra các quyết định về
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất,
cho thuê đất v.v.. Chủ thể thay mặt cho Nhà
nước thực hiện quyền sở hữu là Quốc hội,
Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp, Ủy
ban nhân dân các cấp. Người trực tiếp thực
hiện quyền sở hữu về đất đai của Nhà nước
là các công chức, viên chức Nhà nước. Như
vậy có thể khẳng định, Nhà nước là một
loại chủ thể đặc biệt và thực hiện đối với
một loại tài sản đặc biệt (đất đai). Đất đai là
một phần của lãnh thổ quốc gia và thuộc
chủ quyền quốc gia. Quyền của Nhà nước
đối với lãnh thổ quốc gia vượt ngoài quyền
sở hữu thông thường (gồm quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt). Việc quy định
đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước
là đại diện chủ sở hữu là hoàn toàn phù hợp
với điều kiện thực tế của luật pháp Việt
Nam và quốc tế trong việc bảo vệ toàn vẹn
chủ quyền và lãnh thổ quốc gia. Chính
những quy định như thế đã tạo cho Nhà
nước có toàn quyền với lãnh thổ quốc gia,
có thể quyết định mọi biện pháp cần thiết
để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của
Tổ quốc.
Những thay đổi căn bản về tư duy đối
với vấn đề sở hữu, quản lí và sử dụng đất,
thể hiện trong Văn kiện Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, bằng quy định tại
Hiến pháp và Luật Đất đai. Khoa học xã hội
đã góp phần khẳng định tính đúng đắn của
đường lối, chủ trương của Đảng và chính
sách của Nhà nước trong quản lí và sử dụng
đất đai. Khoa học xã hội cũng có vai trò
quan trọng khẳng định quyết tâm đổi mới
của Đảng và Nhà nước: “Phát huy những
thành tựu mà cách mạng Việt Nam đã giành
được trong mấy chục năm qua là sửa chữa
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 8 - 2019
64
những khuyết điểm, sai lầm đã mắc phải
trước đây, là quá trình bỏ những gì kìm
hãm và cản trở sự phát triển, tổ chức lại xã
hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội
một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất và
tinh thần, tạo động lực và sức mạnh cho sự
phát triển vượt bậc” [14, tr.146].
Khi mục tiêu xây dựng đất nước, phát
triển kinh tế chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp sang xây dựng thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
dẫn đến các chính sách, chủ trương, đường
lối của Đảng và Nhà nước phải có những thay
đổi, chỉ đạo mang tính định hướng. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
khẳng định: “Hình thành và phát triển thị
trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật; từng
bước mở thị trường bất động sản cho người
nước ngoài tham gia đầu tư” [10, tr.101].
4. Đánh giá thực tiễn hoạt động quản lý
đất đai trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Các công trình nghiên cứu của khoa học xã
hội cũng chỉ ra những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của cơ chế quản lí đất đai khi
tiến hành thực hiện chính sách “người cày
có ruộng”, chính sách “hợp tác hóa sản xuất
nông nghiệp”. Những chính sách này được
triển khai thực hiện trong các giai đoạn vừa
qua là hoàn toàn phù hợp với quy luật của
khoa học xã hội. Nhưng trong giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thì những chính sách quản lí
và sử dụng đất đai trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp không còn
phù hợp.
Thực tế, người sử dụng đất hợp pháp
được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Lúc đó, người sử dụng đất trở
thành chủ sử dụng hợp pháp mảnh đất của
mình và được thực hiện các quyền như đã
nêu ở trên. Những quyền đó đã tạo cho chủ
sử dụng đất trở thành chủ sở hữu mảnh đất
của mình. Quyền chiếm hữu và định đoạt
của Nhà nước đối với đất đai không có tính
khả thi. Nhà nước là chủ sở hữu đất đai,
nhưng khi thực hiện thu hồi đất vì mục đích
an ninh quốc phòng, Nhà nước vẫn phải thỏa
thuận bồi thường cho người sử dụng đất theo
giá thị trường.
Thực hiện thu hồi đất, Nhà nước phải đền
bù một khoản kinh phí lớn, nhưng những hộ
gia đình, cá nhân, tổ chức là chủ của các
mảnh đất liền kề sẽ là người được hưởng lợi
nhất trong dự án quy hoạch của Nhà nước.
Luật Đất đai quy định: Nhà nước thực hiện
điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà
không do đầu tư của người sử dụng đất
mang lại. Nhưng cơ chế này vẫn chỉ ở trên
giấy tờ, chưa được triển khai thực hiện. Xây
dựng cơ chế điều tiết phần giá trị tăng thêm
từ đất trong những trường hợp này, sẽ tạo
được một nguồn thu bù đắp cho tiền đền bù
giải phóng mặt bằng.
- Về hệ thống các cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai.
Cơ quan quản lý đất đai ngày càng hoàn
thiện và phân định rõ trách nhiệm. Tổng cục
địa chính thành lập năm 1994, theo Nghị
định của Chính phủ. Tổng Cục Địa chính là
cơ quan trực thuộc chính phủ, tại các tỉnh có
các Sở Địa chính thuộc Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, Phòng Địa chính thuộc Ủy ban nhân dân
cấp huyện và cán bộ địa chính thuộc Ủy ban
nhân dân cấp xã. Tổ chức bộ máy ngành Địa
chính từ 1994-2002 theo Báo cáo tổng kết
ngành địa chính năm 2002: (1) Tổng cục Địa
chính tại Trung ương có 2.957 người, có tổng
cục trưởng và phó tổng cục trưởng, 7 đơn vị
sự nghiệp, 7 đơn vị quản lý Nhà nước, 6 đơn
vị sản xuất kinh doanh. (2) Sở Địa chính có
4.340 người, có giám đốc và phó giám đốc, 2
đơn vị sự nghiệp, 5 đơn vị quản lý nhà nước.
ĐặngThị Phượng
65
Phòng địa chính có 3.100 người; (3) Cấp xã
có 10.508 cán bộ địa chính.
Bộ Tài Nguyên và Môi trường thành lập
năm 2002 trên cơ sở hợp nhất Tổng cục Địa
chính, Tổng cục Khí tượng - Thủy văn và
các tổ chức thực hiện chức năng tổ chức
quản lí nhà nước về tài nguyên nước (thuộc
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tài
nguyên khoáng sản (thuộc Bộ Công nghiệp)
và môi trường (thuộc Bộ Khoa học - Công
nghệ và Môi trường). Bộ Tài Nguyên và
Môi trường có chức năng quản lý nhà nước
về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng
thủy văn và đo đạc bản đồ trong phạm vi cả
nước. Năm 2008, Chính phủ ban hành Quyết
định số 134/2008/QĐ-TTg ngày 02 tháng 10
năm 2008 quy định chức năng nhiệm vụ và
quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, trong đó quy định, Tổng cục Quản lý
Đất đai thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường
gồm 12 đơn vị trực thuộc có chức năng tham
mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường quản lý nhà nước về đất đai trong
phạm vi cả nước.
Lực lượng cán bộ của ngành tài nguyên
và môi trường hiện tại có trên 33.000
người. Trong đó, số cán bộ, công chức, viên
chức trực tiếp làm công tác quản lý đất đai
(chia theo các cấp) như sau: Trung ương có
trên 450 người (đại học và trên đại học
81%, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp
19%); cấp tỉnh có trên 6.000 người (đại học
và trên đại học 72%, cao đẳng và trung học
chuyên nghiệp 28%); cấp huyện có trên
12.000 người (đại học và trên đại học 67%,
cao đẳng và trung học chuyên nghiệp 33%);
cấp xã, phường, thị trấn có trên 11.000 cán
bộ địa chính, với gần 73% đã qua các khoá
đào tạo chính quy, bán chính quy (đại học
3,4%, trung học chuyên nghiệp 36,1%; sơ
cấp 60,5%); ngoài ra còn hàng nghìn người
ở các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, tổ
chức khác đang phối hợp hoạt động với
ngành về đo đạc - bản đồ, quy hoạch (xây
dựng), giải quyết tranh chấp khiếu nại, tố
cáo về đất đai (Thanh tra Chính phủ), xử lý
vi phạm về pháp luật đất đai (Kiểm sát, Toà
án) và các hoạt động kinh tế, dịch vụ khác.
- Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Hệ thống pháp luật về khiếu nại tố cáo,
tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, quy định
về giải quyết tranh chấp đất đai tại Luật Đất
đai năm 2013 đã có nhiều đổi mới: quy
định mở rộng quyền cho người dân được
khiếu nại đến cơ quan hành chính và tòa án;
trong trường hợp cơ quan hành chính đã có
quyết định giải quyết cuối cùng mà đương
sự vẫn chưa thỏa đáng, thì chỉ được khiếu
kiện ra tòa án, không có cơ quan nào có
thNm quyền giải quyết. Về công tác tiếp
nhận và giải quyết khiếu nại tố cáo và tranh
chấp về đất đai, Bộ Tài Nguyên và Môi
trường đã tiếp nhận 10.137 đơn thư vào
năm 2005, đến năm 2011 giảm xuống còn
5.298 đơn thư. Cũng từ năm 2014 đến
2011, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiếp
nhận 59.751 lượt đơn thư của 29.671 vụ
việc khiếu nại, tố cáo về đất đai, trong đó
khiếu nại hành chính trong quản lý đất đai
là 17.711 vụ (chiếm 58,59%), khiếu nại
quyết định hành chính trong giải quyết
tranh chấp đất đai 5.966 vụ (chiếm
20,11%), đòi lại đất cũ 4.69 vụ (chiếm
15,63%) và 1.355 vụ việc tố cáo (chiếm
4,75%) [4].
Thực tế những khiếu nại, tố cáo liên
quan đến đăng ký quyền sử dụng đất rất
nhiều, ví dụ: theo kết luận của Thanh tra
N hà nước, trong tất cả các vụ khiếu nại đất
đai tại Dương Nội người dân đã không đăng
ký chuyển mục đích sử dụng đất dịch vụ,
nên khi đền bù giải phóng mặt bằng không
có căn cứ để tính phần đất dịch vụ theo
quy định.
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng
đất, liên quan đến hợp đồng thế chấp quyền
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 8 - 2019
66
sử dụng đất là những loại tranh chấp liên
quan đến đăng ký biến động đất đai. Ví dụ:
năm 2006 thụ lý 3.254 vụ và giải quyết
được 2.201 vụ; năm 2007 thụ lý 5.358 vụ,
giải quyết được 3.896 vụ. Tranh chấp về
thừa kế quyền sử dụng đất: năm 2006 thụ lý
953, vụ giải quyết được 524 vụ; năm 2007
thụ lý 1.272 vụ, giải quyết được 800 vụ.
Tranh chấp liên quan đến hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất: năm 2006 thụ lý
413 vụ, giải quyết được 309 vụ; năm 2007
thụ lý 555 vụ, giải quyết 409 vụ.
5. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý đất đai trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Qua kết quả nghiên cứu tổng kết đánh giá
thực trạng quản lý và sử dụng đất đai, khoa
học xã hội đã đề xuất các kiến nghị trong
việc hoạch định chính sách, đường lối chủ
trương trong quản lý và sử dụng dụng đất
đai. Những kiến nghị tập trung vào những
vấn đề chính:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật
đất đai theo hướng công khai, minh bạch,
hiệu lực hiệu quả. Cải cách các thủ tục hành
chính trong quản lý và sử dụng đất đai phải
được công khai và thực hiện theo trình tự,
thủ tục luật định.
Thứ hai, nâng cao năng lực của đội ngũ
thực hiện thủ tục hành chính trong quản lý
và sử dụng đất đai; nâng cao tinh thần trách
nhiệm trong công tác và đạo đức tư cách
nghề nghiệp của cán bộ địa chính các cấp;
bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn
cho các cán bộ địa chính trên cả nước; có
quy chế cụ thể và tiêu chuNn hóa về nghiệp
vụ cán bộ địa chính.
Thứ ba, xây dựng một hệ thống đăng ký
đất đai hiện đại, được thực hiện bởi một hệ
thống cơ quan là Văn phòng đăng ký đất
đai; hoàn thành việc thành lập Văn phòng
đăng ký đất đai một cấp trên toàn quốc. Các
Văn phòng đăng ký đất được phân cấp thực
hiện thủ tục đăng ký đất đai, xây dựng,
quản lý, cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính
và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai. Văn
phòng đăng ký đất đai sẽ được xây dựng
thành hệ thống cơ quan duy nhất có chức
năng đăng ký đất đai hiện đại được số hóa,
chuNn hóa cơ sở dữ liệu đất đai tại các địa
phương. Thực hiện đúng phân cấp quản lý,
sắp xếp lại hồ sơ địa chính theo mô hình
mới, thuận tiện cho việc tra cứu, cập nhật
chỉnh lý thường xuyên. Xây dựng quy trình
đăng ký đất đai hiện đại được thực hiện tại
Văn phòng đăng ký đất đai; xây dựng mô
hình Văn phòng đăng ký đất đai một cấp là
một bước chuyển biến quan trọng trong
công tác quản lý đất đai. Việc hoàn thiện
việc xây dựng mô hình Văn phòng đăng ký
đất đai một cấp trên toàn quốc đòi hỏi sự nỗ
lực của tất cả các cấp, các ngành, nhất là sự
chỉ đạo quyết liệt, chuNn bị công phu của
ngành tài nguyên và môi trường. Bên cạnh
đó, việc hoàn thiện hành lang pháp lý, hoàn
thiện cơ chế hoạt động của Văn phòng đăng
ký đất đai một cấp, hoàn thiện cơ chế hoạt
động tài chính là một công việc không chỉ
của ngành tài nguyên môi trường, mà còn là
công việc của nhiều bộ ngành liên quan.
Thứ tư, đNy nhanh công tác cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng
hồ sơ địa chính và xây dựng thông tin đất
đai; toàn bộ những thông tin về đăng ký đất
đai sau khi được cơ quan nhà nước có thNm
quyền duyệt sẽ được lưu giữ tại hồ sơ địa
chính, hệ thống bản đồ địa chính chính xác
là cơ sở để Nhà nước cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, là cơ sở để giải quyết
tranh chấp khi có tranh chấp xảy ra, là
phương tiện giúp Nhà nước thực hiện tốt
công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
ĐặngThị Phượng
67
6. Kết luận
Trong công cuộc đổi mới, khoa học xã hội
và nhân văn góp phần quan trọng trong việc
cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch
định đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước. Khoa học
xã hội ngày càng khẳng định được vị thế
của mình trong việc hoạch định đường lối,
chính sách phát triển đất nước nói chung,
cũng như đường lối chính sách quản lí và
sử dụng đất đai nói riêng. Tuy nhiên, hiện
tại hiệu quả các công trình nghiên cứu của
khoa học xã hội chưa cao, thiếu tính dự
báo. Trước đòi hỏi của thực tiễn, cần phải
nâng cao năng lực nghiên cứu của cán bộ
làm công tác nghiên cứu khoa học xã hội.
Để phát huy được những đóng góp của
khoa học xã hội thì cần sự quan tâm hơn
nữa của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối
với sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Một
mặt, cần có sự đầu tư thích đáng cho nghiên
cứu chuyên sâu và trọng điểm. Mặt khác,
cần quan tâm hơn nữa đến đời sống của đội
ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học.
Tài liệu tham khảo
[1] Đào Duy Anh (2004), Từ điển Hán Việt, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
[2] Nguyễn Đình Bồng (2012), Quản lý đất đai ở
Việt Nam (1945-2010), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[3] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo
số 193/BC-BTNMT ngày 06/9/2012 về tình hình
thi hành Luật Đất đai năm 2003 và định hướng
sửa đổi Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội.
[4] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo
số 304/BC-CP ngày 26 tháng 10 năm 2012 về
việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các
quyết định hành chính về đất đai, Hà Nội.
[5] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013), Tình hình
thành lập, nhân lực, thiết bị, kỹ thuật Phòng
đăng ký đất đai trong cả nước, Hà Nội.
[6] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Báo cáo
Tình hình quản lý nhà nước về đất đai của cả
nước năm 2014, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện
Đảng toàn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[14] Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự
nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[15] Nguyễn Hồng Phong (1959), Xã thôn Việt
Nam, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
[16] Đặng Thị Phượng (2016), Đăng ký quyền sử
dụng đất theo pháp luật Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học
xã hội.
[17] Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
[18] Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, năm 1959, năm
1980, năm 1992, năm 2013, Hà Nội.
[19] Quốc hội (1953), Luật Cải cách ruộng đất,
Hà Nội.
[20] Quốc hội, Luật Đất đai năm 1987, năm 1993,
năm 2013, Hà Nội.
[21] E. Luro (1878), Le pays d’Annam, Paris.
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 8 - 2019
68
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_khoa_hoc_xa_hoi_trong_hoach_dinh_chinh_sach_quan.pdf