Cả hai hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam
và Nhật Bản đều nhấn mạnh tầm quan trọng của
vai trò của kiểm sát viên và công tố viên trong
quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Với đặc
thù về bản chất của hai mô hình tố tụng, thẩm
quyền truy tố, cũng như hoạt động của kiểm sát
viên hay công tố viên ở các giai đoạn khác nhau
của quá trình tố tụng giữa hệ thống của hai
nước, cũng khác nhau. Sự tồn tại của một mô
hình tố tụng nhất định ở một quốc gia không
phải là một sự kiện ngẫu nhiên mà có nguồn
gốc lịch sử, do vậy không thể nói hệ thống của
quốc gia nào hiệu quả hơn quốc gia nào mà cần
căn cứ vào bối cảnh của mỗi quốc gia đó. Hệ
thống Việt Nam với sự ảnh hưởng từ hệ thống
pháp lí của Pháp và Nga, đặc trưng bởi mô hình
tố tụng thẩm vấn, với quan điểm rằng việc truy
tố tội phạm là một nghĩa vụ bắt buộc đã dẫn đến
những hạn chế nhất định về phạm vi thẩm
quyền truy tố của kiểm sát viên so với công tố
viên Nhật Bản, đồng thời, nhấn mạnh sự phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
quá trình xử lí vụ án hình sự. Trong khi đó, hệ
thống tố tụng hình sự Nhật Bản hiện thời với
ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống Hoa Kì đã áp
dụng các đặc điểm của mô hình tố tụng tranh
tụng, trong đó tối đa hóa thẩm quyền truy tố của
công tố viên, đảm bảo sự bình đẳng giữa các
bên trong tố tụng và tính khách quan của tòa án
khi đưa ra phán quyết.
Mặc dù sự khác nhau về mô hình là như
vậy, tuy nhiên, không phải là Việt Nam không
thể nghiên cứu tiếp thu các yếu tố tranh tụng từ
mô hình tố tụng hình sự của Nhật Bản nhằm
nâng cao hiệu quả của quá trình giải quyết vụ
án hình sự, đặc biệt khi Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định “đổi
mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ
hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá
của hoạt động tư pháp”. Nhìn từ thực tiễn thực
thi quyền truy tố của công tố viên Nhật Bản nói
riêng và cách thức vận hành của hệ thống tố
tụng hình sự Nhật Bản nói chung, có thể nhận
thấy để nâng cao tính tranh tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự của kiểm sát viên Việt
Nam, cần chú ý các khía cạnh: (i) tăng cường
tính chủ động và trách nhiệm của kiểm sát viên
trong hoạt động điều tra, nắm bắt vụ án; (ii) trau
dồi kĩ năng tranh tụng tại phiên toà cho kiểm
sát viên; (iii) hạn chế sự tiếp xúc của toà đối với
hồ sơ vụ án và trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
thay vào đó, việc đưa ra phán quyết chỉ được
dựa trên nội dung tranh luận và chứng cứ đưa ra
tại phiên toà.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của kiểm sát viên Việt Nam và công tố viên Nhật Bản trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 84-91
84
Review Article
The Role of Prosecutor in Criminal Procedure of
Vietnam and Japan
Nguyen Hai Yen*
Department of Criminal and Administrative Law, Ministry of Justice,
58-60 Tran Phu, Ba Dinh, Ha Noi, Vietnam
Received 30 March 2019
Revised 15 March 2020; Accepted 23 March 2020
Abstract: This article discusses the differences between the prosecutors in the criminal system of
Vietnam and Japan in the enforcement of the prosecution right and the activities in the process of
resolving criminal cases. At the same time, the cause of the legal history, as well as the
organizational model between the two criminal justice systems that led to the differences of these
two subjects of the two systems is also mentioned. The article aims to contribute to comparative
research between Vietnam and Japan in the field of criminal procedure law and play as a reference
material in the research and learning process.
Keywords: Prosecutor, criminal procedure, Japan.
________
Corresponding author.
E-mail address: yenjds@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4191
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 84-91
85
Vai trò của kiểm sát viên Việt Nam và
công tố viên Nhật Bản trong tố tụng hình sự
Nguyễn Hải Yến*
Vụ Pháp luật Hình sự - Hành Chính, Bộ Tư pháp, 58-60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội
Nhận ngày 30 tháng 3 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 15 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 23 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Bài viết đề cập đến sự khác biệt về vai trò của kiểm sát viên Việt Nam và công tố viên
Nhật Bản trong việc thực thi quyền truy tố cũng như hoạt động trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Đồng thời nguyên nhân về mặt lịch sử pháp lí cũng như mô hình tổ chức giữa hai hệ
thống tư pháp hình sự dẫn đến sự khác nhau của hai chủ thể này trong hai hệ thống cũng được nêu
lên. Bài viết nhằm mục đích đóng góp vào quá trình nghiên cứu so sánh giữa Việt Nam và Nhật
Bản trong lĩnh vực luật tố tụng hình sự và là tư liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, học tập.
Từ khóa: Công tố viên, kiểm sát viên, tố tụng hình sự, Nhật Bản.
Giới thiệu*
Tương tự như hệ thống luật pháp, hệ thống
tư pháp hình sự ở mỗi quốc gia được tổ chức
theo mô hình khác nhau, phụ thuộc vào truyền
thống văn hoá, lịch sử cũng như trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia đó. Hệ
thống tư pháp hình sự của Việt Nam được đặc
trưng bởi mô hình tố tụng thẩm vấn, trong khi
đó, hệ thống tư pháp hình sự Nhật Bản được
xây dựng trên nền tảng mô hình tố tụng, tranh
tụng. Những đặc điểm khác nhau giữa hai hệ
thống đã dẫn đến sự khác nhau trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, và vai trò của chủ thể
thực hành quyền công tố có thể coi là một trong
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: yenjds@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4191
những khía cạnh thể hiện rõ nét nhất sự khác
biệt giữa hai hệ thống.
Hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam phân
chia chủ thể của quá trình tố tụng hình sự thành
hai nhóm: người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng. Trong đó người tiến hành tố
tụng bao gồm đại diện của cơ quan điều tra,
viện kiểm sát và toà án. Trong khi đó, mô hình
tố tụng tranh tụng nói chung và mô hình tố tụng
hình sự của Nhật Bản nói riêng thường phân
chia chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự dựa trên tiêu chí chức năng tức là chức
năng truy tố, chức năng bào chữa và chức năng
xét xử, từ đó phân chia các chủ thể trong quá
trình tố tụng hình sự thành bên truy tố, bên bào
chữa và toà án - một bên trung gian. Pháp luật
hình sự của Việt Nam và Nhật Bản phân chia
quá trình giải quyết vụ án hình sự thành những
N.H. Yen / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 84-91
86
giai đoạn khác nhau. Nếu như hệ thống tư pháp
hình sự Việt Nam phân chia quá trình này thành
năm giai đoạn gồm giai đoạn khởi tố, giai đoạn
điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và
giai đoạn thi hành án, thì hệ thống tư pháp hình
sự Nhật Bản phân chia quá trình giải quyết vụ
án thành bốn giai đoạn gồm giai đoạn điều tra,
giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và giai đoạn
thi hành án [1]. Không giống như những chủ
thể tiến hành tố tụng khác, kiểm sát viên Việt
Nam cũng như công tố viên Nhật Bản là chủ thể
duy nhất hiện diện trong tất cả các giai đoạn của
quá trình tố tụng hình sự và có vai trò, tác động
quan trọng đến kết quả của những giai đoạn tố
tụng này.
2. Điểm khác biệt về vai trò giữa kiểm sát
viên Việt Nam và công tố viên Nhật Bản
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Vai trò của kiểm sát viên Việt Nam và công
tố viên Nhật Bản trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự có nhiều điểm tương đồng. Theo đó
cả hai chủ thể này đều được coi là một bên
trong quá trình tiến hành tố tụng và đại diện cho
nhà nước. Kiểm sát viên hay công tố viên truy
tố vụ án ra toà dựa trên kết quả điều tra, đưa ra
chứng cứ, quan điểm, tham gia phiên toà và đề
xuất hình phạt áp dụng cho bị can. Cả công tố
viên Nhật Bản và kiểm sát viên Việt Nam,
ngoài thẩm quyền truy tố còn có quyền tham
gia tiến hành điều tra tội phạm. Sự tương đồng
là khá lớn tuy nhiên, quá trình thực thi nhiệm
vụ truy tố của hai chủ thể này ở hai quốc gia có
những điểm khác biệt căn bản, thể hiện rõ nét
nhất ở thẩm quyền truy tố, vai trò trong hoạt
động điều tra và xét xử.
2.1. Thẩm quyền truy tố
Quyền truy tố là độc quyền của cả kiểm sát
viên Việt Nam và công tố viên Nhật Bản trong
tố tụng hình sự. Có nghĩa rằng không chủ thể
nào được truy tố bị cáo ra toà ngoại trừ kiểm sát
viên hoặc công tố viên. Hoạt động truy tố được
thực hiện thông qua việc thu thập các chứng cứ
để chứng minh tội phạm, truy tố bị can ra toà
bằng bản cáo trạng, trình bày hồ sơ và chứng cứ
tại phiên toà nhằm buộc tội bị cáo. Về khía
cạnh này, hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam
áp dụng nguyên tắc truy tố bắt buộc. Nguyên
tắc truy tố bắt buộc được áp dụng ở nhiều quốc
gia có truyền thống Châu Âu lục địa, theo đó,
khi có đủ bằng chứng chứng minh hành vi của
một người nào đó là tội phạm, công tố viên hay
kiểm sát viên có nghĩa vụ truy tố cá nhân đó ra
toà. Nguyên tắc này đảm bảo sự bình đẳng
trước pháp luật và tất cả tội phạm phải được
đưa ra xét xử bởi toà án.
Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản không quy
định các tiêu chí trong việc thu thập chứng cứ
phục vụ việc truy tố. Về mặt lí thuyết, các công
tố viên có thể truy tố ngay cả trường hợp không
đủ bằng chứng, tuy nhiên, trên thực tế, công tố
viên không bao giờ truy tố một bị cáo khi
không đủ bằng chứng chứng minh tội phạm.
Công tố viên chỉ truy tố bị cáo khi chắc chắn về
khả năng kết án tại toà của bị cáo [2,]. Đây có
thể là lí do vì sao tỉ lệ kết án của Nhật Bản rất
cao, lên đến hơn 99% [3]. Đồng thời với việc
tuỳ nghi truy tố, công tố viên có quyền đình chỉ
vụ án, rút quyết định truy tố thậm chí trong vụ
án có đầy đủ bằng chứng chứng minh người bị
buộc tội có tội. Quyết định của công tố viên
trong việc có truy tố hay không truy tố được
thực hiện dựa trên cơ sở cân nhắc tính chất,
hoàn cảnh xảy ra tội phạm, tuổi tác của người bị
buộc tội, hoàn cảnh sống của người bị buộc tội
và các tình tiết sau khi vụ án xảy ra (Điều 248
Bộ luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản). Nguyên tắc
này lần đầu tiên được thừa nhận trong hệ thống
tư pháp hình sự Nhật Bản qua Điều 279 Bộ luật
Tố tụng Hình sự năm 19221 và được xây dựng
trên cơ sở rằng không phải tất cả hành vi phạm
tội đều cần phải đưa ra xét xử bởi toà án, bởi
nguyên nhân về nguồn lực hạn chế [4]. Tuỳ
thuộc vào tính chất phức tạp của vụ án, thay vì
truy tố tất cả các trường hợp phạm tội, công tố
viên Nhật Bản chỉ tập trung vào các vụ án
________
1Tuy nhiên trên thực tiễn, ngay từ giai đoạn thi hành Bộ
luật tố tụng hình sự 1907, công tố viên đã được trao thẩm
quyền tuỳ nghi truy tố.
N.H. Yen / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 84-91
87
nghiêm trọng. Thực tế cho thấy đối với những
tội phạm trong lĩnh vực giao thông tỉ lệ truy tố
rất thấp chỉ 15% trên tổng số vụ. Nguyên nhân
là do tỉ lệ vi phạm cao, số lượng người phạm tội
nhiều và công tố viên nhận thấy việc truy tố tất
cả các trường hợp vi phạm không đem lại lợi
ích xứng đáng so với việc đầu tư nguồn lực vào
việc truy tố loại vụ án này [5]. Có thể nhận
thấy, trong khi nguyên tắc truy tố bắt buộc đòi
hỏi tất cả trường hợp khi đủ bằng chứng chứng
minh tội phạm, công tố viên hay kiểm sát viên
phải ra quyết định truy tố, thì nguyên tắc tuỳ
nghi truy tố tạo cho công tố viên sự hay kiểm
sát viên sự độc lập và chủ động trong quá trình
tố tụng.
2.2. Hoạt động điều tra
Theo quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam, kiểm sát viên có vai trò và quyền hạn
quan trọng trong quá trình điều tra. Mối quan
hệ giữa kiểm sát viên và điều tra viên là mối
quan hệ phối hợp ngay từ giai đoạn đầu của quá
trình điều tra. Kiểm sát viên được giao trách
nhiệm phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các
quyết định, lệnh của cơ quan điều tra trong thời
gian điều tra và chịu trách nhiệm về các trường
hợp vi phạm theo quy định của pháp luật. Hoạt
động lập hồ sơ vụ án hình sự từ giai đoạn điều
tra cần được kiểm sát viên bám sát nhằm nắm
rõ tiến độ và nội dung điều tra vụ án [6]. Kiểm
sát viên có quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu
cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến
hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm
tội; yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can, áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (khoản
6 Điều 165 Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam
2015). Kiểm sát viên có quyền trực tiếp thực
hiện một số hoạt động điều tra trong trường hợp
kiểm tra và bổ sung các tài liệu và chứng cứ khi
xem xét và phê chuẩn lệnh hoặc quyết định của
cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra, hoặc trong
trường hợp phát hiện dấu hiệu vi phạm, hoặc bỏ
lọt tội phạm chưa được giải quyết mặc dù có
yêu cầu bằng văn bản của kiểm sát viên hoặc
trong các trường hợp cần thiết để kiểm tra và bổ
sung các tài liệu và bằng chứng khi quyết định
truy tố.
Trong hệ thống tư pháp hình sự của Nhật
Bản, trong giai đoạn điều tra, việc điều tra được
thực hiện bởi các sĩ quan cảnh sát và công tố
viên kiểm tra việc điều tra sau khi tiếp nhận vụ
án. Công tố viên không chỉ kiểm tra các tài liệu
do cảnh sát gửi mà khi cần thiết tích cực thu
thập chứng cứ, điều tra những người liên quan,
thẩm vấn nghi phạm và nhân chứng, truy tố
nghi phạm và chuẩn bị biên bản. Công tố viên
có quyền chỉ đạo cảnh sát điều tra hoặc hợp tác
với cảnh sát trong việc điều tra (Điều 193 Bộ
luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản). Ở cả hai hệ
thống, kiểm sát viên Việt Nam cũng như công
tố viên Nhật Bản đều có thẩm quyền khá rộng
trong giai đoạn điều tra, từ phía kiểm sát viên
hay công tố viên, họ đều mong muốn phía cơ
quan điều tra cung cấp những bằng chứng đầy
đủ cho vụ án. Sự tương đồng là khá lớn, tuy
nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai hệ thống đó
là mức độ tham gia vào quá trình điều tra. Xét
về mặt thực tế, kiểm sát viên Việt Nam không
thường xuyên trực tiếp tham gia vào quá trình
điều tra mà chủ yếu là nghiên cứu hồ sơ vụ án
tiếp nhận từ cơ quan điều tra [7]. Chính vì thế,
tính chủ động của kiểm sát viên Việt Nam trong
giai đoạn điều tra còn hạn chế, chưa theo sát,
nắm chắc quá trình điều tra2. Trong khi đó,
công tố viên Nhật Bản ít có xu hướng lệ thuộc
vào cơ quan điều tra [8]. Tại Nhật Bản, trong
một vụ án, nghi phạm có thể bị giam giữ trước
khi bị truy tố lên đến 23 ngày, trong đó có hai
ngày dưới sự kiểm soát của cảnh sát, nếu không
được thả sau hai ngày , nghi phạm sẽ được
chuyển sang sự kiểm soát của công tố viên. Sau
một ngày kể từ ngày tiếp nhận nghi phạm, công
tố viên Nhật Bản cần đưa ra quyết định có truy
tố hay không. Tuy nhiên, pháp luật cho phép
________
2 Báo cáo số 139/BC-VKSTC 26/12/2017, Tổng kết Công
tác ngành Kiểm sát Nhân dân năm 2017 của Viện Kiểm
sát Nhân dân Tối cao, cho thấy việc kiểm sát viên không
theo sát quá trình điều tra dẫn đến tiến độ, chất lượng giải
quyết vụ án chưa đáp ứng yêu cầu, số hồ sơ Toà án trả cho
Viện Kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung nhiều gấp 02 lần
số hồ sơ Viện Kiểm sát trả cho Cơ quan điều tra.
N.H. Yen / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 84-91
88
công tố viên yêu cầu toà án chấp thuận việc gia
hạn giam giữ đối với nghi phạm hai lần, mỗi lần
tối đa 10 ngày (Điều 203, 208 Bộ luật tố tụng
hình sự Nhật Bản). Như vậy, có thể thấy trước
giai đoạn truy tố, công tố viên Nhật Bản có khá
nhiều thời gian để thực hiện việc lấy lời khai từ
nghi phạm. Thực tế, công tố viên, trong mọi vụ
án, luôn thực hiện việc lấy lời khai từ nghi
phạm và ước tính 60% thời gian giải quyết một
vụ án hình sự của công tố viên là để thực hiện
việc điều tra [5]. Công tố viên Nhật Bản không
chỉ tiến hành điều tra nhằm để bổ sung, xác
nhận chứng cứ mà còn chủ động mở cuộc điều
tra và kết thúc hoạt động điều tra [9]. Sự khác
biệt này có thể được lí giải từ sự khác nhau về
thẩm quyền truy tố giữa hai chủ thể nắm quyền
truy tố của hai hệ thống. Kiểm sát viên Việt
Nam, với nguyên tắc truy tố bắt buộc và nếu
pháp luật không quy định khác, trong mọi
trường hợp xác định được đầy đủ yếu tố cấu
thành tội phạm, đều phải ra quyết định truy tố
và kết quả điều tra từ giai đoạn điều tra của cơ
quan tiến hành điều tra đóng vai trò quan trọng
và chủ yếu trong việc đưa ra quyết định truy tố
của kiểm sát viên Việt Nam. Trong khi đó, công
tố viên Nhật Bản nắm quyền tuỳ nghi truy tố và
có thẩm quyền đưa ra quyết định có truy tố bị
can ra toà hay không, do đó, quyền tuỳ nghi này
khuyến khích cũng như tạo áp lực cho công tố
viên tích cực chủ động tham gia vào quá trình
điều tra vụ án.
2.3. Giai đoạn xét xử
Trong hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam,
kiểm sát viên có trách nhiệm chuyển cho tòa án
bản cáo trạng và hồ sơ vụ án. Nội dung của bản
cáo trạng không chỉ mô tả các yếu tố cấu thành
tội phạm, danh tính của bị cáo mà còn có các
bằng chứng chi tiết về hành vi phạm tội (Điều
243 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2015).
Ngoài ra, thẩm phán có thể tiếp cận hồ sơ vụ án
ở giai đoạn rất sớm; thời gian nghiên cứu hồ sơ
vụ án của tòa án tương đối dài (lên đến bốn
tháng - Điều 227 Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt
Nam 2015). Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử,
tòa án, viện kiểm sát và cơ quan công an có thể
tổ chức cuộc họp để thảo luận về vụ án. Trong
thực tế, việc tranh tụng tại toà còn hạn chế, và
phán quyết dựa trên các tài liệu và bằng chứng
trong hồ sơ vụ án, quan điểm đại diện viện
kiểm sát với tư cách một cơ quan kiểm sát hoạt
động tư pháp, có tác động lớn đến việc xét xử
và đưa ra hình phạt. Ngoài ra, kiểm sát viên
cũng có cơ hội bổ sung bằng chứng và củng cố
tội danh theo bản cáo trạng của mình trong giai
đoạn xét xử khi tòa án trả lại hồ sơ vụ án cho
viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Tất cả những
yếu tố này khiến cho tỉ lệ tha bổng ở Việt Nam
thấp [10].
Liên quan đến khía cạnh này, trong hệ
thống tư pháp hình sự Nhật Bản, trước khi bắt
đầu phiên tòa, công tố viên chỉ gửi bản cáo
trạng tới tòa án mà không gửi hồ sơ vụ án. Nội
dung của bản cáo trạng rất ngắn gọn và súc tích,
chỉ bao gồm thông tin về danh tính của bị cáo,
tên của tội danh và các yếu tố cấu thành tội
phạm (Điều 256 Bộ luật Tố tụng Hình sự Nhật
Bản). Những tài liệu hoặc nội dung có khả năng
khiến cho thẩm phán có sự suy đoán đối với vụ
án không được đính kèm hay đưa vào trong bản
cáo trạng (Khoản 6 Điều 256 Bộ luật Tố tụng
Hình sự Nhật Bản). Tất cả các tài liệu và bằng
chứng trong hồ sơ vụ án được thu thập trong
thời gian điều tra được công tố viên lưu giữ và
lựa chọn, đệ trình trong phiên tòa để làm bằng
chứng. Công tố viên chỉ chuyển bản cáo trạng
cho thẩm phán và chuẩn bị bằng chứng và lập
luận để tranh trụng tại phiên toà.
3. Một số đánh giá
Những khác biệt được đề cập ở trên xuất
phát từ sự khác biệt giữa hệ thống tư pháp hình
sự của Việt Nam - mô hình tố tụng thẩm vấn và
Nhật Bản - mô hình tố tụng tranh tụng. Tại Việt
Nam, hệ thống dân luật được tiếp nhận trong
quá trình Việt Nam là thuộc địa của Pháp.
Trong quá trình này pháp luật của Pháp được áp
dụng theo cách thức bắt buộc bên cạnh hệ thống
pháp luật phong kiến hiện thời. Thậm chí sau
khi giành độc lập, kĩ thuật lập pháp, hệ thống
khái niệm cơ bản và cấu trúc pháp luật của
N.H. Yen / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 84-91
89
Pháp vẫn được Việt Nam duy trì [11]. Từ năm
1945, tổ chức và hoạt động của hệ thống tư
pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ của mô hình Liên Xô.
Trong lĩnh vực pháp luật hình sự, sự ảnh hưởng
này được thể hiện đậm nét trong Bộ luật tố tụng
hình sự đầu tiên được ban hành năm 1988 và
vẫn được phản ảnh trong Bộ luật hiện hành.
Cho đến nay, hệ thống tư pháp hình sự của Việt
Nam đã tiếp thu một số yếu tố của mô hình tố
tụng tranh tụng, nhưng về cơ bản vẫn mang bản
chất của mô hình tố tụng thẩm vấn [12].
Mô hình tố tụng thẩm vấn mà Việt Nam áp
dụng có những điểm đặc biệt dẫn đến sự khác
biệt giữa mô hình tố tụng của Việt Nam so với
các quốc gia áp dụng mô hình tố tụng tranh
tụng như Nhật Bản. Hệ thống tư pháp hình sự
Việt Nam đặt mục tiêu xác định sự thật khách
quan của vụ án, do vậy, quá trình giải quyết vụ
án hình sự coi trọng việc sử dụng quyền uy Nhà
nước [13] và không coi quan hệ hình sự là tranh
chấp hoặc xung đột giữa các bên. Tội phạm
được coi là hành vi xâm phạm trật tự công cộng
và lợi ích chung của xã hội và Nhà nước phải
có nghĩa vụ xử lí. Do đó, việc truy tố tội phạm
theo quan điểm tố tụng tại Việt Nam là bắt
buộc. Thẩm phán không đóng vai trò của bên
thứ ba trong cuộc tranh luận giữa công tố viên
và người bào chữa như trong mô hình tố tụng
tranh tụng. Giống như cơ quan điều tra và Viện
Kiểm sát, Tòa án được giao trách nhiệm chứng
minh tội phạm và có vai trò tích cực trong việc
phối hợp chặt chẽ với Viện Kiểm sát trong việc
xác định sự thật của vụ án, chứng minh tội
phạm. Phiên tòa xét xử được coi là giai đoạn
tiếp theo trong quá trình tìm ra sự thật của vụ án
[12]. Đây cũng là lí do trong hệ thống tố tụng
hình sự Việt Nam, Viện Kiểm sát có trách
nhiệm cung cấp cho Tòa án không chỉ bản cáo
trạng mà còn cả hồ sơ vụ án để Tòa án xem xét,
đồng thời, cho phép Toà án trả lại hồ sơ cho
Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
Trong khi đó, sau Chiến tranh Thế giới thứ
hai, kể từ năm 1945 Nhật Bản đã được chuyển
đổi thành quốc gia chế độ quân chủ và chịu ảnh
hưởng đáng kể của Hoa Kì. Với sự can thiệp
của Hoa Kì, một loạt các cải cách xã hội đã
được tiến hành, quan trọng nhất là việc ban
hành hiến pháp mới với các quy định tiến bộ về
đảm bảo quyền cơ bản của công dân trong tố
tụng hình sự [9]. Việc bắt giữ, giam giữ hoặc áp
dụng các biện pháp điều tra liên quan đến tài
sản của công dân đều phải được thực hiện dựa
trên quyết định của thẩm phán có thẩm quyền
dưới hình thức trát của Toà; bị can hoặc bị cáo
có quyền có luật sư bào chữa và quyền giữ im
lặng trong quá trình tố tụng (Điều 33 và 35
Hiến pháp Nhật Bản 1946). Hiến pháp mới đã
dẫn đến sự ra đời của Bộ luật Tố tụng Hình sự
mới (Luật số 131 ngày 10 tháng 7 năm 1948, có
hiệu lực từ năm 1949) và được áp dụng cho đến
nay. Quá trình soạn thảo Bộ luật Tố tụng Hình
sự mới đã nhận được sự ủng hộ tích cực từ Hoa
Kì và phản ánh rõ quan điểm của luật tố tụng
Hoa Kì, thể hiện trong các nguyên tắc tranh
tụng, điều tra, bằng chứng và hạn chế trong việc
chấp nhận bằng chứng gián tiếp [6]. Quá trình
tuyển chọn công tố viên, thẩm phán, luật sư
cũng được thay đổi căn bản, nếu như trước
Chiến tranh Thế giới thứ II, công tố viên và
thẩm phán được đào tạo riêng biệt với luật sư,
thì đến giai đoạn này, cả công tố viên, thẩm
phán và luật sư được tuyển chọn chung thông
qua một kì thi quốc gia, các ứng cử viên được
chọn sẽ được đào tạo cùng với nhau bất kể sự
lựa chọn nghề nghiệp của họ là gì. Điều này là
nhằm nâng cao vị thế của luật sư trong tố tụng
cũng như trong con mắt của công chúng. Vị trí
ngồi của công tố viên, thay vì ngang hàng với
thẩm phán như trước, đến giai đoạn này đã hạ
xuống cùng vị trí với bên bào chữa [14]. Trong
quá trình tố tụng, thẩm phán chỉ đóng vai trò
trung lập, đưa ra phán quyết công bằng trên cơ
sở các bằng chứng được đưa ra bởi công tố viên
và luật sư bào chữa tại phiên tòa. Vai trò chính
trong tố tụng sẽ được dành cho bên buộc tội và
bên bào chữa. Do đó, để đảm bảo sự độc lập
của tòa án, thẩm phán không được phép đọc
toàn bộ tài liệu của các cơ quan điều tra hoặc
công tố. Việc sở hữu và xử lí các tài liệu điều
tra được giao cho công tố viên để tránh thẩm
phán bị ảnh hưởng bởi kết quả điều tra trong
việc đưa ra phán quyết.
N.H. Yen / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 84-91
90
Cả hai hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam
và Nhật Bản đều nhấn mạnh tầm quan trọng của
vai trò của kiểm sát viên và công tố viên trong
quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Với đặc
thù về bản chất của hai mô hình tố tụng, thẩm
quyền truy tố, cũng như hoạt động của kiểm sát
viên hay công tố viên ở các giai đoạn khác nhau
của quá trình tố tụng giữa hệ thống của hai
nước, cũng khác nhau. Sự tồn tại của một mô
hình tố tụng nhất định ở một quốc gia không
phải là một sự kiện ngẫu nhiên mà có nguồn
gốc lịch sử, do vậy không thể nói hệ thống của
quốc gia nào hiệu quả hơn quốc gia nào mà cần
căn cứ vào bối cảnh của mỗi quốc gia đó. Hệ
thống Việt Nam với sự ảnh hưởng từ hệ thống
pháp lí của Pháp và Nga, đặc trưng bởi mô hình
tố tụng thẩm vấn, với quan điểm rằng việc truy
tố tội phạm là một nghĩa vụ bắt buộc đã dẫn đến
những hạn chế nhất định về phạm vi thẩm
quyền truy tố của kiểm sát viên so với công tố
viên Nhật Bản, đồng thời, nhấn mạnh sự phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
quá trình xử lí vụ án hình sự. Trong khi đó, hệ
thống tố tụng hình sự Nhật Bản hiện thời với
ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống Hoa Kì đã áp
dụng các đặc điểm của mô hình tố tụng tranh
tụng, trong đó tối đa hóa thẩm quyền truy tố của
công tố viên, đảm bảo sự bình đẳng giữa các
bên trong tố tụng và tính khách quan của tòa án
khi đưa ra phán quyết.
Mặc dù sự khác nhau về mô hình là như
vậy, tuy nhiên, không phải là Việt Nam không
thể nghiên cứu tiếp thu các yếu tố tranh tụng từ
mô hình tố tụng hình sự của Nhật Bản nhằm
nâng cao hiệu quả của quá trình giải quyết vụ
án hình sự, đặc biệt khi Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định “đổi
mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ
hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá
của hoạt động tư pháp”. Nhìn từ thực tiễn thực
thi quyền truy tố của công tố viên Nhật Bản nói
riêng và cách thức vận hành của hệ thống tố
tụng hình sự Nhật Bản nói chung, có thể nhận
thấy để nâng cao tính tranh tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự của kiểm sát viên Việt
Nam, cần chú ý các khía cạnh: (i) tăng cường
tính chủ động và trách nhiệm của kiểm sát viên
trong hoạt động điều tra, nắm bắt vụ án; (ii) trau
dồi kĩ năng tranh tụng tại phiên toà cho kiểm
sát viên; (iii) hạn chế sự tiếp xúc của toà đối với
hồ sơ vụ án và trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
thay vào đó, việc đưa ra phán quyết chỉ được
dựa trên nội dung tranh luận và chứng cứ đưa ra
tại phiên toà.
Tài liệu tham khảo
[1] Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Mô hình tố
tụng hình sự Nhật Bản,
[2] J. Mark Ramseyer and Eric B. Rasmusen, Why Is
the Japanese Conviction Rate so High?, The
Journal of Legal Studies 30, 1(2001) 53.
[3] Supreme Court of Japan, Outline of Criminal
Justice in Japan 2016, Table 4,
of_Criminal_Justice_in_Japan_2016.pdf, truy cập
25/12/2017.
[4] Shigemitsu Dando, System of Discretionary
Prosecution in Japan, The American Journal of
Comparative Law, 18 (1970) 3.
[5] A Didrick Castberg, Prosecutorial Independence
in Japan, Crime and Justice, 41 (2012) 19.
[6] Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Bàn về vai trò,
trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự,
[7] Phạm Văn An, Nâng cao vai trò, trách nhiệm, tính
chủ động của kiểm sát viên trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự, Tạp chí
kiểm sát, 15 (2015) 34.
[8] Malcolm Feeley and Setsuo Miyazawa, The
Japanese Adversary System in Context:
Controversies and Comparisons, Advances in
Political Science, Houndsmills, Basingstoke,
Hampshire; New York, Palgrave Macmillian, 2002.
[9] UNAFEI, “The Criminal Justice System in Japan:
Prosecution” n.d., p. 43
53_10FP.pdf.
[10] Stéphanie Balme and Mark Sidel, Vietnam’s New
Order: International Perspectives on the State and
Reform in Vietnam, Palgrave Macmillan, 2007.
N.H. Yen / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 84-91
91
[11] Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Tổng quan về
hệ thống pháp luật các nước ASEAN,
[12] Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Thuỷ, Hoàn thiện mô
hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải
cách tư pháp,
[13] Đào Trí Úc, Tổng quan về mô hình Tố tụng Hình sự
Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện,
[14] Marcia E. Goodman, The exercise and Control of
Prosecutorial Discretion in Japan, Pacific Basin
Law Journal, 5 (1986) 78.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_kiem_sat_vien_viet_nam_va_cong_to_vien_nhat_ban.pdf