Lời mở đầu
Bất kì một quốc gia nào muốn phát triển, đạt được trình độ một nước phát triển đều phải trải qua nấc thang có tính tất yếu lịch sử. Đó là công nghiệp hoá. Trên thế giới đã có nhiều nước tiến hành thành công công nghiệp hoá và hiện nay cũng còn nhiều nước đang tiến hành công nghiệp hoá. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử loài người, công nghiệp hoá ở những nước khác nhau có sự khác nhau về mô hình, về thời gian thực hiện và do đó có sự khác nhau về ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế xã hội. Nước ta bắt đầu công nghiệp hoá từ năm 1960 theo đường lối do đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng đề ra. Đến nay sự nghiệp đó vẫn tiếp tục. Nhưng hoàn cảnh, điều kiện quốc tế và trong nước, trình độ phát triển kinh tế nước ta hiện nay khác nhiều so với năm 1960. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn phải giải quyết như: Công nghiệp hoá có còn là tất yếu khách quan nữa không? Đánh giá như thế nào về thực trạng công nghiệp hoá ở nước ta những năm qua? Mục tiêu, mô hình, nội dung công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như thế nào?
Sự phát triển của nền kinh tế trong hơn mười năm kể từ khi đổi mới đến nay đã thu được nhiều kết quả đáng kể.Trong đó phải kể đến vai trò rất quan trọng của Đảng và Nhà nước. Nhà nước là người hoạch định ra các chính sách chiến lược phát triển kinh tế, phát huy tối đa những mặt tích cực, hạn chế tối thiểu những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Mà quan trọng nhất là sự định hướng của nhà nước để kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đã lựa chọn. Đây là điểm khác biệt giữa cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta và các nước khác.
Mặc dù Nhà nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả trong sự nghiệp này, nhưng không phải là không có hạn chế. Đó là sự cồng kềnh của bộ máy, chưa xóa bỏ được thói quen của cơ chế cũ, chưa thích nghi với cơ chế mới nên hiệu quả chưa cao. Để nhận thức rõ hơn về vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế nói chung và trong công nghiệp hoá hiện đại hoá nói riêng, trong bài viết này, em xin chọn đề tài: “Vai trò của Nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta”.
Do trình độ có hạn, không thể bao quát được hết mọi khía cạnh của vấn đề to lớn và khó khăn này, nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xoay quanh một số vấn đề về vai trò của Nhà nước trong việc phát triển những điều kiện chính của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong bài viết này, em xin được trình bày các nội dung cơ bản về đề tài trên như: Tại sao công nghiệp hoá lại phải có vai trò của nhà nước? Nhà nước đóng vai trò quan trọng như thế nào? Thực trạng vai trò của nhà nước ra sao? Và cuối cùng là một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong thời gian tới.Và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về vai trò của Nhà nước đối với công nghiệp hoá hiện đại hoá
Mục lục
Trang
A. Phần mở đầu
B. Nội dung
Chương 1: Tính tất yếu khách quan về vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá
1.1. Vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá
1.1.1. Quan niệm công nghiệp hoá- Thực chất công nghiệp hoá
1.1.2. Vì sao hiện nay công nghiệp hoá lại gắn với hiện đại hoá
1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá
1.2. Tất yếu khách quan vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá
1.2.1. Vai trò của Nhà nước trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp hoá
1.2.2. Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển khoa học công nghệ
1.2.3. Nhà nước với vai trò phát triển nguồn vốn
1.2.4. Vai trò của Nhà nước trong quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
Chương 2: Thực trạng vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta
2.1. Định hướng cho quá trình công nghiệp hoá
2.1.1. Việc đề ra mục tiêu chiến lược kế hoạch bước đi của công nghiệp hoá
2.1.2. Thực trạng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với bước đi của quá trình công ngiệp hoá
2.1.3. Tạo nguồn lực cho tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
2.1.3.1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay
2.1.4. Phát triển giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
2.2. Chính sách phát triển công nghệ
2.2.1. Phát triển công nghệ sản xuất
2.2.2. Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học
2.2.3. Nâng cao hiệu quả quảnlý Nhà nước về khoa học và công nghệ trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá
2.2.3.1. Một số thành tựu về ứng dụng khoa học và công nghệ ở nước ta trong thời kì đổi mới
2.2.3.2. Thực trạng quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ
2.3. Chính sách huy động và sử dụng nguồn vốn
2.3.1. Thực trạng huy động vốn của Nhà nước
2.3.2. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng và quản lý vốn
2.4. Quản lý quá trình công nghiệp hoá
2.4.1. Thực trạng vai trò quản lý của Nhà nước
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta trong thời gian tới
3.1. Định hướng quá trình công nghiệp hoá
3.1.1. Xác định một cách toàn diện thích hợp hơn quá trình công nghiệp hoá
3.1.2. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của công nghiệp hoá hiện đại hoá
3.1.3. Một số giải pháp cụ thể nhằm củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
3.1.4. Một số giải pháp phát triển giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
3.2. Chính sách phát triển khoa học công nghệ
3.2.1. Công nghệ nước ngoài
3.2.2. Công nghệ và cán bộ khoa học trong nước
3.2.3. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước về KH - CN
3.3. Phát triển nguồn vốn
3.3.1. Giải pháp huy động vốn
3.3.2. Giải pháp sử dụng và quản lý vốn
3.3.3. Đổi mới tổ chức bộ máy tài chính quốc gia và công tác kiểm toán kế toán
3.4. Giải pháp trong vấn đề quản lý
3.4.1. Xác định đúng phương hướng của cơ chế quản lý
3.4.2. Xây dựng hệ thống luật kinh tế
C. Kết luận
Tài liệu tham khảo
36 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 3433 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc vay và sử dụng vốn còn khá phổ biến và nghiêm trọng. Nhà nước chưa có một chiến lược vay nợ, tiếp nhận và sử dụng vốn vay nước ngoài một cách chủ động, có tính đến nhu cầu, khả năng hấp thụ và trả nợ của đất nước nên việc vay nợ còn diễn ra rất tuỳ tiện.
Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu đầu tư vẫn còn tồn tại, người dân chưa thật tin tưởng vào đường lối đổi mới của Nhà nước. Trong một số chính sách kinh tế tài chính, nhà nước chưa có các biện pháp khuyến khích mạnh mẽ đầu tư trong và ngoài nước vào các lĩnh vực, ngành nghề mũi nhọn cần phát triển nhanh chóng để phục vụ công nghiệp hoá. Trong những năm tới, để quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao Nhà nước tất yếu phải bảo toàn phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn hơn nữa.
2.4. Quản lý quá trình công nghiệp hoá
2.4.1. Thực trạng vai trò quản lý của nhà nước
Các biện pháp quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá chủ yếu nhằm vào những hoạt động điều hành chỉ đạo việc hình thành và triển khai thực hiện chủ trương của Nhà nước trong nền kinh tế. Các biện pháp quản lý của Nhà nước ta trong thời gian qua đã có nhiều thay đổi tiến bộ. Trong nhận thức về công nghiệp hoá đã có những nhìn nhận mới cả về mục tiêu, nội dung, quy mô lẫn biện pháp quản lý. Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay là tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật và trình độ công nghiệp, nâng cao trình độ hiện đại hoá trong các ngành công nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân.
Chủ trương đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đã được xác định toàn diện thích hợp hơn. Đó là thực hiện công nghiệp hoá toàn diện trong các ngành kinh tế quốc dân, có trọng điểm là công nghiệp, ưu tiên ngành công nghiệp chế biến, có sự kết hợp chặt chẽ giữa trung ương và địa phương trong đó phải ưu tiên cho các vùng trọng điểm. Thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá với sự đầu tư phát triển toàn diện nhưng trong đó chú trọng nhất về công nghệ và tri thức công nghệ.
Biện pháp thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng được Nhà nước điều chỉnh trong đó rõ nhất là: Thực hiện quy hoạch phát triển toàn diện kinh tế xã hội theo từng cấp, căn cứ vào điều kiện và lợi thế so sánh cụ thể mà xác định quy hoạch xác đinh các công trình theo yêu cầu công nghiệp hoá. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung và sớm dứt điểm để nâng cao hiệu quả đầu tư, công tác đào tạo cán bộ được tăng cường mạnh ở những ngành chuyên môn đang rất thiếu như: Công nghệ, marketing quản trị kinh doanh và những lĩnh vực không thể thiếu khi thực hiện công nghiệp hoá.
Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề chưa thống nhất trong biện pháp quản lý thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cụ thể là:
Phương hướng khai thác tiềm năng chưa rõ ràng chính xác. Nhìn chung các địa phương đều đã xây dựng qui hoạch phát triển, trong đó phân tích khá rõ những điều kiện và lợi thế của địa phương mình, nhưng phân tích để làm rõ những lợi thế so sánh trong xu thế phát triển chung của nước ta và thế giới còn có những điểm khác xa nhau.
Tiến trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá chưa được nhà nước dịch ra cụ thể. Về tổng quát, quá trình công nghiệp hoá sẽ được thực hiện trong thời gian từ nay đến năm 2020 nhưng các bước cụ thể chưa được xác định rõ ràng. Do đó trong tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển đã nảy sinh một số vấn đề. Ví dụ như vấn đề thực hiện phát triển công nghệ chế biến như thế nào và vào lúc nào khi nguồn nguyên liệu chưa được phát triển...Giải pháp vay vốn và sử dụng vốn vay chưa thật thuyết phục trong cân nhắc về hậu quả. Nhu cầu vốn cho thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá rất lớn phải có sự hỗ trợ từ bên ngoài.Nhưng Nhà nước vẫn chưa tính toán kĩ trong việc thanh toán trả nợ sau này. Việc phát triển hiện nay với sức đè nặng của các món nợ trong 20-25 năm nữa.
Phương hướng chỉ đạo nhập công nghệ chưa cụ thể. Nhiều vấn đề trong chủ trương nhập công nghệ không được chỉ đạo dứt khoát và thực hiện thống nhất như: Xác định trình độ công nghệ tiên tiến ở mức nào, cơ cấu công nghệ cần nhập ra sao, hiện đại hoá các công nghệ truyền thống như thế nào.Việc kiểm soát nhập công nghệ qua các dự án đầu tư của nước ngoài cũng không chặt chẽ, diễn ra tình trạng nhập các công nghệ thấp công nghệ loại thải vào nước ta. Chúng ta lại quá thiếu các thông tin về công nghệ. Do vậy khi được nước ngoài giới thiệu về một công nghệ nào đó thì không có điều kiện để so sánh nhận biết được trình độ công nghệ đó tiên tiến mức nào, ưu điểm nhược điểm so với công nghệ cùng loại khác làm Nhà nước rất khó khăn trong quá trình quản lý, ảnh hưởng lớn tới quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta trong thời gian tới
3.1. Định hướng quá trình công nghiệp hoá
3.1.1. Xác định một cách toàn diện thích hợp hơn quá trình công nghiệp hoá
Để nâng cao vai trò của mình trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế, Nhà nước cần phải:
Phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế nhất là kinh tế Nhà nước, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Nhà nước phải sớm chủ động nắm bắt sự tác động khách quan của các quy luật trong nền kinh tế thị trường để định hướng đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xây dựng thống nhất chặt chẽ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, định hướng đúng đắn kế hoạch thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nhà nước phải nắm vững nhu cầu và khả năng tiến hành công nghiệp hoá, tập trung đúng mức vào những ngành, địa phương, lĩnh vực quan trọng nhất để có thể tạo ra sự tăng trưởng nhanh với hiệu quả kinh tế cao
3.1.2. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của công nghiệp hoá hiện đại hoá
Trong những năm trước mắt cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta sẽ được xác định là cơ cấu công nông nghiệp dịch vụ. Phương hướng phát triển của các ngành trong cơ cấu ấy phải đáp ứng được mô hình chiến lược của công nghiệp hoá. Cụ thể là:
- Nhà nước đẩy mạnh khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông lâm ngư nghiệp, thúc đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung, chuyên canh, đa công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Kết hợp phát triển nông lâm ngư nghiệp với phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản.
- Phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thoả mãn tiêu dùng cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế tối đa nhập khẩu mặt hàng này để tiết kiệm ngoại tệ phục vụ công nghiệp hoá.
- Xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các ngành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước hết ưu tiên cho những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
- Nhà nước chú trọng xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. ưu tiên phát triển dịch vụ du lịch, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Về cơ cấu giữa thị xã thị trấn, thành phố và đô thị thì:
Tuỳ điều kiện từng nơi, tất cả các thị xã thị trấn đều phải được phát triển trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn để dãn bớt công nghiệp và dân cư, tránh sự tập trung quá mức vào Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh tạo điều kiện cần thiết để thu hút công nghiệp và phát triển đô thị mới lên vùng trung du, tránh sử dụng nhiều diện tích đất lúa.
Hạn chế mở rộng quy mô các thành phố lớn. Sớm quy hoạch mạng lưới đô thị lớn, vừa và nhỏ trong toàn quốc phù hợp với phát triển kinh tế xã hội. Phát triển đô thị phải đi đôi với việc xây dựng và quản lý các công trình công cộng (điện, cấp, thoát nước, cây xanh...).
3.1.3. Một số giải pháp cụ thể nhằm củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Cần có nhận thức rõ ràng rằng, chiến lược trong cạnh tranh quốc tế gay gắt là vấn đề nhân tài. Sự cạnh tranh tổng hợp của một đất nước trong thời đại hiện nay không tách rời việc bồi dưỡng nhân tài, càng không tách rời việc nâng cao phát huy năng lực nội sinh, tố chất trí tuệ của hàng triệu người lao động ở tuyến đầu sản xuất. Vì thế, công tác cán bộ phải là vấn đề đặt lên hàng đầu. Người cán bộ phải biết rõ vị trí, nhiệm vụ của mình, trên cơ sở đó, phát huy được năng lực cá nhân, hội tụ được trí tuệ tập thể, các thế hệ đi trước phải tôn trọng, nâng đỡ thậm chí cả học hỏi lớp trẻ, vì công việc chung.
Cần nhanh chóng có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghiệp, nhất là cán bộ đầu đàn. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở tất cả các bậc học, từng bước tiến tới đạt trình độ khu vực và quốc tế. Cần phát hiện sớm các tài năng và có các hình thức đào tạo phù hợp. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để có thể nhanh chóng tiếp thu khoa học và công nghệ hiện đại cuả các nước phát triển.
Thực hiện công bằng, văn minh trong sử dụng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản để phát triển và đào tạo nhân tài. Đảng đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này. Các bộ, ngành phải thực hiện các nghị quyết của đảng một cách nghiêm túc. Cần tạo lập các thể chế thuận lợi cho sự phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài trong quá trình phát triển đất nước dựa trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cũng như giáo dục và đào tạo trong cơ chế thị trường, trong nền kinh tế nhiều thành phần. Cần tuyệt đối tránh xu hướng coi trọng đầu tư của cải vật chất hơn đầu tư con người...
Trong thực tế, chính sách cân bằng mức lương, mức lương khởi điểm của kỹ sư, thạc sĩ, phó tiến sĩ đều như nhau ( Hệ số 1,78) và đều đặn 2-3 năm lên lương một lần mà chúng ta đang thực hiện trong mấy năm gần đây cũng cần phải xem xét lại. Chính sách này là một trong những yếu tố cơ bản làm già hoá đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao hiện nay. Nó cũng trả lời câu hỏi vì sao sinh viên, cán bộ khoa học trẻ có năng lực trong nhiều năm gần đây không chuyên tâm nghiên cứu mà chỉ lo việc tiếp thị và ngoại ngữ, làm thuê cho các công ty nước ngoài. Đây là nguyên nhân gây ra hiện tượng chảy máu chất xám từ các cơ quan nhà nước. Vì một tương lai của đất nước ở thế kỉ XXI, vì một đội ngũ cán bộ đầu đàn và một dân tộc có tri thức cao thì cần có cơ chế, chính sách đúng đắn để động viên thanh niên học tập, rèn luyện đảm bảo những điều kiện nhất định để cán bộ công chức yên tâm làm việc.
Cần đưa việc cấp bằng, chứng chỉ trong nước đi vào nề nếp. Đây là biện pháp tôn vinh nguồn nhân lực đã được đào tạo thực sự và giáo dục đào đức cho thế hệ trẻ. Nhiều cán bộ khi còn là học sinh trong các trường tiểu học, trung học chỉ học lực trung bình, khi ngoài 40; 50 tuổi muốn giữ vị trí của mình hay thăng tiến chỉ cần học hàm thụ một vài năm là có một bằng đại học, bằng thạc sĩ hay cao hơn. Liệu những người có những tấm bằng dễ dàng như vậy còn tôn trọng và thúc đẩy phát triển nhân lực trong nước hay không? Để lành mạnh đội ngũ tri thức, các cơ quan chức năng nên thanh tra, kiểm tra chặt chẽ quá trình đào tạo ở các cấp, bảo đảm chất lượng theo đúng quy trình, quy chế đào tạo.
Tăng cường đầu tư tài chính của nhà nước, đồng thời tăng trưởng quản lý, kiểm tra tổ chức sử dụng một cách hợp lý. Hội nghị trung ương lần thứ 2 (khoá VIII) đã định hướng đầu tư cho khoa học và công nghệ tăng dần đến năm 2000 là 2% và đối với giáo dục đào tạo là 15% trong tổng chi NSNN là rất đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Hiện nay, còn có hiện tượng “xin” và “cho” môt số đề tài và dự án, gây tiêu cực và lãng phí tiện của Nhà nước, của nhân dân, cần chấn chỉnh sớm để làm lành mạnh hoạt động đầu tư nâng cấp cho khoa học và công nghệ cũng như giáo dục đào tạo.
Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ giai cấp công nhân, lực lượng quan trọng của cách mạng Việt Nam. Mô hình tháp lao động ở nước ta hiện nay là 88% lao động không lành nghề; 5,5% lao động lành nghề; 3,5% chuyên viên kĩ thuật; 2,7% kỹ sư; 0,3% nhà khoa học và chuyên gia. Trong khi đó, tháp lao động của các nước công nghiệp thường là 35% lao động không lành nghề; 35% lao động lành nghề; 24,5% chuyên viên kĩ thuật; 5% kỹ sư và 0,5% nhà khoa học và chuyên gia. Vậy muốn xây dựng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đội ngũ này cần phải khẩn trương được đào tạo, nhất là nguồn nhân lực trẻ, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó đó là việc làm vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược, để bảo đảm thành công công cuộc đổi mới. Do đó, để tạo nguồn nhân lực cho tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, cần phải tạo được một môi trường tốt để phát huy nguồn lực trong nước, làm tốt công tác cán bộ, công tác dự báo, kế hoạch đào tạo, tổ chức, sử dụng đãi ngộ và bảo vệ nguồn nhân lực. Cần tìm ra và tận dụng các giải pháp hữu hiệu để xây dựng bằng được năng lực nội sinh đủ mạnh về khoa học và công nghệ, trong đó mọi hoạt động của con người đều phải dựa trên những cơ sở khoa học thực thụ.
Trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, yêu cầu và đòi hỏi đối với vai trò, vị trí và nhiệm vụ của đội ngũ tri thức Việt Nam nói riêng và nguồn lực cho công nghiệp hoá hiện đại hoá nói chung ngày càng to lớn. Đội ngũ tri thức phải cùng với mọi tầng lớp xã hội đưa giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ trở thành khâu đột phá vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, góp phần xứng đáng vào công việc xây dựng nước nhà. Vì Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta luôn luôn coi trọng đội ngũ tri thức là một lực lượng không thể thiếu trong mọi thời kỳ cách mạng, đặc biệt là trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá này, Đảng tin cậy và hy vọng ở sự đóng góp đầy hiệu quả của đội ngũ tri thức nước nhà.
3.1.4. Một số giải pháp phát triển giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
Xây dựng nền giáo dục đại học từng bước trở thành bậc học giữ vai trò quan trọng trong toàn hệ thống giáo dục quốc dân và trong việc thực hiện ba mục tiêu của giáo dục đào tạo: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, vì giáo dục đại học là bậc học đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nhân lực ở trình độ cao của các ngành, đặc biệt là đội ngũ giáo viên của hệ thống giáo dục quốc dân.
Tiếp tục thực hiện chủ trương đa dạng hoá các loại hình trường học, đa dạng hoá các phương thức đào tạo, cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập, loại bỏ dần phương pháp dạy chay. Phải gắn lý luận với thực tiễn, phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập, nghiên cứu thực nghiệm của người học dưới sự hướng dẫn của người dạy. Nội dung giảng dạy ở cấp đại học phải đảm bảo nguyên tắc kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, hiện đại và phát triển phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. Xây dựng lại nội dung chương trình, biên soạn các tài liệu học tập để đạt đến mức cập nhật với trình độ quốc tế. Nhanh chóng bổ xung sắp xếp lại các trường đại học một cách hợp lý, thống nhất hệ thống văn bằng, đẩy mạnh sự liên thông, liên kết giữa các trường, các viện nghiên cứu nhằm khai thác sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống các trường đại học và viện nghiên cứu.
Công tác đào tạo phải bám sát mục tiêu của giáo dục đại học Việt Nam là đào tạo những con người có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào trình độ đào tạo ở các bậc đại học mà mục tiêu đào tạo được nâng dần lên. Mục tiêu đào tạo ở trình độ cao đẳng là giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo. ở trình độ đại học, ngoài những nội dung trong mục tiêu của trình độ cao đẳng, sinh viên còn phải có “khả năng phát hiện”, trình độ thạc sĩ phải “nắm vững lý thuyết, có trình độ cao về thực hành”, trình độ tiến sĩ phải có “trình độ cao về lý thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề khoa học và công nghệ và hướng dẫn thực hành chuyên môn”. Những mục tiêu giáo dục ấy đòi hỏi nội dung, phương pháp giáo dục tất yếu phải đổi mới theo hướng tinh gọn, thiết thực, phương pháp hướng tới phát huy tính tích cực sáng tạo của sinh viên là chính.
Tăng cường hợp tác quốc tế, nhằm mục đích đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho học sinh, sinh viên cán bộ khoa học, cán bộ quản lý, tạo ra cơ hội để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng và trình độ cao, tranh thủ bổ sung trang thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy, đòi hỏi kinh nghiệm đào tạo, ứng dụng khoa học vào thực tiễn, nhất là khoa học công nghệ chất lượng cao. Song song với quá trình đó, cần tranh thủ liên kết, hợp tác với các nước khác để thu hút các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực giảng dạy, đào tạo, đồng thời Nhà nước cần tăng cường tiếp nhận học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh các nước vào học tập, nghiên cứu tai Việt Nam, tạo ra mối quan hệ, hợp tác giao lưu, học hỏi kiến thức, trao đổi kinh nghiệm góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập của nền giáo dục đại học Việt Nam với khu vực và quốc tế. Quan hệ hợp tác về giáo dục đại học giúp nền giáo dục Việt Nam mở rộng không gian hợp tác giáo dục khắp toàn cầu, tạo cơ hội để chúng ta thúc đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, tranh thủ mọi điều kiện để tạo ra sự phát triển đột biến trong một số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn. Con người Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, thông minh, cần cù và nhạy cảm với cái mới, mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế giáo dục ở các bậc đại học, chúng ta không những có điều kiện để chọn lọc, thừa hưởng thành quả chất lượng giáo dục cao của các nước tiên tiến, mà còn nâng xã hội hoá giáo dục lên một trình độ mới.
Nâng cao tỷ trọng đầu tư của nhà nước cho giáo dục đại học, quan tâm thích đáng đối với các trường trọng điểm quốc gia, đồng thời huy động các nguồn đầu tư khác trong xã hội trên nguyên tắc thống nhất lợi ích, trách nhiệm của nhân tố tham gia đại học. Thu hút nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ để phát triển giáo dục, trong đó giáo dục đại học là một trọng điểm đầu tư.
Từng bước mở rộng mô hình trường tự quản, trường đại học dân lập với số lượng hợp lý, đặc biệt là ở các vùng miền trung, miền núi nhằm giảm mật độ sinh viên ở các đô thị lớn, giảm được chi phí học tập cho con em những gia đình nghèo, vùng sâu, vùng xa. Đây là kinh nghiệm phát triển giáo dục đào tạo của các nước kinh tế phát triển. ở nước ta không thể nâng cao tỉ lệ trường tư thục và tiếp thu mô hình của các nước đó một cách máy móc mà phải chống khuynh hướng thương mại hoá, phi chính trị, giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục. Tuy nhiên kinh phí của Nhà nước ta không thể đủ gánh vác chi phí đào tạo khi mở rộng quy mô, số lượng trường đại học và tỉ lệ sinh viên trên vạn dân tăng lên. Giải pháp để phát triển giáo dục đại học là tăng thêm đóng góp của sinh viên trong các trường công lập và mở thêm một số trường dân lập, vì các trường dân lập có cơ chế mềm dẻo, dễ thích nghi hơn. Mặc dù giải pháp này sẽ tạo ra những khó khăn cho con em những gia đình nghèo, gia đình chính sách, nhưng Nhà nước sẽ có chính sách trợ giúp về tài chính một cách thích hợp như: Chính sách cấp học bổng, giảm học phí, cho vay tạo điều kiện cho con em nhà nghèo học tập và thi tốt nghiệp ra trường sẽ có cơ hội thu nhập cao hoàn lại vốn vay. Xây dựng cấp giáo dục đào tạo đại học mang tính hiện đại là một quá trình vừa hội nhập, liên kết, vừa kế thừa và hiện đại hoá nội dung và phương pháp giáo dục truyền thống, phải coi đây là chìa khoá để nền giáo dục đóng vai trò là khâu đột phá của sự tăng trưởng kinh tế đất nước.
3.2. Chính sách phát triển khoa học công nghệ
Trước hết cần khẳng định sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ nước ta trong thời gian qua. Những chính sách đúng đắn, những định hướng chiến lược về khoa học công nghệ do Nhà nước ban hành đã có tác dụng kích thích các cơ sở sản xuất kinh doanh đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Tuy vậy so với yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế nói chung và công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hóa nói riêng thì Nhà nước chưa hỗ trợ được nhiều cho phát triển khoa học công nghệ. Vì thế, Nhà nước cần ban hành thay đổi một số chính sách nhằm phát triển mạnh công nghệ theo hướng công nghiệp hoá. Phương hướng chung là: Hình thành cơ cấu kỹ thuật nhiều tầng, kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô, tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, cải tiến công nghệ truyền thống. Trong những năm trước mắt, coi trọng loại công nghệ có suất đầu tư thấp thu hồi vốn nhanh, tạo thêm việc làm cho người lao động, cụ thể:
3.2.1. Công nghệ nước ngoài
Nhà nước trong việc hoạch định pháp triển công nghệ phải tạo ra môi trường thuận lợi nhất cho việc nhập khẩu công nghệ, nhằm tăng các nguồn cung công nghệ. Phải chú ý đổi mới và hoàn thiện các quy định về nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam.
Cố gắng tranh thủ các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước ngoài. Thực hiện giám định nghiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị. Nhà nước cần đặt ra một cách nghiêm túc ngay từ đầu vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá để tránh những hậu quả xấu phải trả giá đắt sau này. Đầu tư nước ngoài bắt buộc phải tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về bảo về môi trường, nên bố trí các cụm công nghiệp phân tán ở nhiều địa bàn vừa là một biện pháp tiết kiệm vừa để hạn chế ô nhiễm. Trong quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ phải rất tỉnh táo để tránh nhập công nghệ lỗi thời do các nước thải ra, tránh không để cho Việt Nam trở thành “bãi thải công nghệ” của các nước phát triển.
Gấp rút nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia nhằm đổi mới và làm chủ công nghệ nhập, sáng tạo công nghệ mới. ưu tiên nghiên cứu tập trung cho các lĩnh vực công nghệ điện tử và tin học, công nghệ sinh học, hoá học, chế tạo và gia công vật liệu nhất là nguồn nguyên vật liệu trong nước.
3.2.2. Công nghệ và cán bộ khoa học trong nước
Gắn liền với các biện pháp kích thích công nghệ nhập, Nhà nước cũng cần tạo ra sự phát triển mạnh mẽ đối với công nghệ sản xuất trong nước. Những văn bản quản lý của Nhà nước đối với hoạt động công nghệ phải tạo thành một hệ thống ăn khớp với nhau. Phải có các văn bản chính sách mới cho hợp với bối cảnh hiện tại và bao quát hết mọi khía cạnh của hoạt động phát triển khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Khuyến khích công nghệ nhập và bảo hộ công nghệ sản xuất trong nước là hai mặt không thể tách rời của một vấn đề. Đây phải là quan điểm cơ bản của Nhà nước trong việc thiết kế đồng bộ chính sách và biện pháp phát triển công nghệ sản xuất. Nhà nước cần sớm ban hành chính sách công nghệ quốc gia trong đó có một nội dung quan trọng là danh mục các công nghệ cần ưu tiên phát triển mà nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ VII vừa qua đã xác định. Đó là công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin học hoá nền kinh tế quốc dân, công nghệ sinh học phục vụ nông lâm ngư nghiệp chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái, công nghệ chế tạo và gia công vật liệu. Nhà nước cần có những biện pháp điều tiết vĩ mô thích hợp cả về kinh tế lẫn hành chính để điều tiết lợi nhuận của việc kinh doanh và sản xuất công nghệ phục vụ công nghiệp hoá. Trong chính sách thuế, Nhà nước cũng cần giảm thuế cho các sản phẩm công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc gia và có thể thay thế cho hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu được. Phải tăng cường vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ. Việc đầu tư này phải được chú ý ở cả hai phía đầu tư của Nhà nước và đầu tư của các cơ sở sản xuất. Cũng cần sớm ban hành chính sách và cụ thể hoá thành cơ chế, biện pháp để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển công nghệ. Vì vai trò quan trọng của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát triển công nghệ quốc gia trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải có công cụ tài chính đủ mạnh. Do đó Nhà nước phải sớm xây dựng ngân hàng đầu tư phát triển khoa học và công nghệ để tập trung đầu tư xây dựng một số khu công nghệ cao và các trung tâm ứng dụng công nghệ mới. Đó chính là những hạt nhân làm cơ sở nghiên cứu thử nghiệm sự thích nghi cũng như ứng dụng công nghệ phù hợp với điều kiện cuả đất nước nói chung và của từng địa phương nói riêng.
Thônh tin về công nghệ đang là một khâu tất yếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường công nghệ nước ta. Nhà nước cần xây dựng và đảm bảo hệ thống thông tin công nghệ, thị trường công nghệ cho nền kinh tế, thể chế hoá cụ thể hoá các chính sách và biện pháp nhằm tạo nguồn thông tin, chuẩn hoá các thông tin phát sinh, trao đổi bảo vệ thông tin công nghệ. Có như vậy mới đảm bảo phổ cập thông tin công nghệ, tạo cơ sở thông tin rộng rãi cho các quyết định về mua bán trao đổi công nghệ, nhanh chóng phát triển công nghệ hiện đại phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nhà nước phải tác động nhằm đẩy mạnh và định hướng với quá trình trao đổi với công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và một số ngành nói riêng. Khung tỉ lệ cần được quy định cụ thể để đảm bảo cho nhu cầu đổi mới và phát triển của các dự án đầu tư cả trong và ngoài nước. Một tỉ lệ thích đáng và hợp lý dành cho công nghệ trong vốn đầu tư, bản thân nó chắc chắn sẽ là sự kích thích không nhỏ cho đổi mới, phát triển công nghệ, đưa mặt bằng công nghệ của nước ta cao ngang tầm khu vực và thế giới.
Nhà nước phải đổi mới chính sách và cơ chế để khuyến khích đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ hoạt động phục vụ trực tiếp cho sản xuất ở mọi khâu, mọi lĩnh vực và địa bàn. Cần chú ý tới chính sách và biện pháp tổ chức quản lý đối với hoạt động giáo dục đào tạo, tổ chức lại hệ thống giáo dục đào tạo. Chính sách giáo dục đào tạo phải coi trọng các tổ chức giáo dục đào tạo chất lượng cao,với quy mô nhỏ, chọn lọc để bồi dưỡng nhân tài, tạo nên nguồn nhân lực khoa học quản lý kinh doanh có năng lực sáng tạo có trình độ cao. Đầu tư cho công nghệ còn bao hàm cả đầu tư vào con người, chuẩn bị cho tương lai. Nếu cứ để tình trạng bỏ học, học không thực chất như hiện nay thị chỉ sau một thế hệ sẽ khó có được năng lực nội sinh vững vàng để tiếp thu khoa học kỹ thuật của thế giới phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.
3.2.3. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ
Cần sớm ban hành “luật khoa học và công nghệ” và các văn bản dưới luật nhằm từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực trọng yếu này, phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Thực hiện việc đổi mới cơ chế, chính sách, trong đó có chính sách tiền lương, gắn với kết quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đối với các chương trình trọng điểm, đặc biệt là các chương trình về nông thôn và miền núi.
Phát huy nội lực bao gồm tổng hợp các nguồn lực trong nước, đó là vốn, tài sản, cơ sở vật chất kỹ thuật đã tích luỹ được, tài nguyên chưa đưa vào sử dụng và quan trọng hơn hết là nguồn lực con người sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống văn hoá của dân tộc ta. Chú trọng phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đông đảo, giàu tài năng và tâm huyết: Gồm nhiều thế hệ được chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, dầy công học tập, rèn luyện hiện có và đông đảo tri thức người Việt ở nước ngoài, có mặt ở hầu khắp các lĩnh vực khoa học và công nghệ, có mong muốn được góp phần xây dựng đất nước.
Tăng cường hợp tác quốc tế là một yếu tố cơ bản của sự phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta vì nó góp phần đắc lực vào sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ khoa học qua khâu đào tạo, bồi dưỡng, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ quan nghiên cứu và cung cấp các thông tin, tài liệu khoa học, mẫu vật trao đổi Đồng thời, có biện pháp khắc phục dần sự phụ thuộc về khoa học và công nghệ vào phía nước ngoài, loại bỏ thủ tục rườm rà, thiếu cụ thể và quan liêu để nâng cao hiệu quả trong sự hợp tác.
3.3. Phát triển nguồn vốn
3.3.1. Giải pháp huy động vốn
Trước hết để huy động vốn trong nước, Nhà nước phải coi tiết kiệm là quốc sách, tăng thuế đánh vào hàng tiêu dùng xa xỉ, không cần thiết, không phù hợp với hoàn cảnh kinh tế hiện tại của đất nước, hạn chế tối đa việc xuất vốn ra nước ngoài. Vấn đề lớn nhất là cần kiệm trong sản xuất và tiêu dùng cá nhân, thay đổi cơ cấu đầu tư. Đầu tư Nhà nước chủ yếu tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, xây dựng một số cơ sở công nghiệp then chốt và quan tâm đúng mức tới phát triển nông thôn. Nhà nước phải tạo điều kiện cho từng địa phương từng cơ sở phát triển mạnh mẽ sản xuất nhằm huy động nguồn vốn nhàn rổi trong dân để phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cải cách hành chính gắn với giảm biên chế và các đầu mối cơ quan quản lý để giảm chi trong lĩnh vực này.
Các chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước phải được hoàn thiện theo hướng đảm bảo cho người dân yên tâm bỏ vốn sản xuất kinh doanh. Chính sách thuế cần khuyến khích lợi ích vật chất đối với những người đầu tư vào lĩnh vực phục vụ cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Có chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả được huy động vốn ngoài xã hội bằng các hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Nhà nước nhanh chóng mở rộng các hình thức tiết kiệm dài hạn có mục đích cụ thể.
Nhà nước phải nghiên cứu đổi mới và hiện đại hoá hoạt động tín dụng ngân hàng, nâng cao chất lượng dich vụ của các tổ chức tín dụng, đảm bảo thanh toán thuận tiện an toàn.
Điều chỉnh hợp lý lãi suất tín dụng cho phù hợp với cơ chế thị trường tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc đầu tư bằng cách ban hành các quy chế liên quan đến mua bán chứng khoán, luật liên quan đến điều hành thị trường chứng khoán.
Đối với nguồn vốn nước ngoài, Nhà nước cần hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến đầu tư nước ngoài sao cho luật lệ của ta có nội dung thống nhất dễ hiểu, dễ áp dụng phù hợp với thông lệ của khu vực và thế giới. Kiện toàn, phânđịnh rõ phạm vi, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý vốn đầu tư nước ngoài. Xoá bỏ các thủ tục hành chính đang gây chậm trễ phiền hà cho việc đăng kí đầu tư nước ngoài. Mạnh dạn chọn các đối tác có nguồn vốn lớn, đầu tư vào những công trình trọng điểm yêu cầu kỹ thuật hiên đại, nguồn vốn lớn mà nước ta chưa giải quyết được bằng nguồn vốn trong nước nhằm thúc đẩy nhanh, mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nâng cao trình độ quy hoạch, lập luận chứng khả thi, chuẩn bị tốt vốn đối ứng và cung cấp đầy đủ kịp thời những yếu tố sản xuất khác từ phía trong nước như đất đai, nhân lực, nguyên vật liệu và cả các thiết bị kỹ thuật trong nước chế tạo được. Cần xây dựng tổng mức vay nợ nước ngoài trên cơ sở cân nhắc tính toán đúng đắn tính hợp lý và quy mô của sự phát triển.
3.3.2. Giải pháp sử dụng và quản lý vốn
Cùng với việc huy động vốn thì sử dụng và quản lý vốn cũng là một vấn đề không kém quan trọng. Nhà nước cần xác định rõ mục tiêu phương hướng đầu tư ưu tiên ttong bối cảnh nguồn vốn hạn hẹp. Những năm trước mắt, nước ta cần hướng ưu tiên đầu tư cho việc cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là điện năng và giao thông vận tải. Việc đầu tư này có ý nghĩa sống còn vì với cơ sở hạ tầng nghèo nàn lạc hậu thì sẽ không thể hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nhà nước sử dụng các công cụ tài chính: Tín dụng, thuế để khuyến khích các thành phần kinh tế từng bước hiện đại hoá các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, phát triển mạnh việc đầu tư máy móc, thiết bị có trình độ tiên tiến. Có chính sách đầu tư tài chính tích cực đối với việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, trí tuệ khoa học đáp ứng yêu cầu phát triển công nghệ và công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Thực hiện công nghiệp hoá đòi hỏi phải nâng cao trình độ năng lực tri thức của người lao động sao cho thích hợp với nền sản xuất hiện đại. Vì vậy Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo trong những năm tới. Nhà nước cũng có thể kích thích các doanh nghiệp tự đầu tư đào tạo lao động bằng cách giảm thuế đối với các chi phí liên quan đến đào tạo. Đối với vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần có quy hoạch gọi vốn gắn liền với quy hoạch sử dụng vốn đầu tư để phuc vụ chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vốn đầu tư nước ngoài phải được sử dụng tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Trong các văn bản có liên quan đến quản lý vốn đầu tư, Nhà nước cần kiện toàn, công bố đầy đủ, công khai rõ ràng nhằm tránh hiện tượng lạm dụng tham ô tham nhũng. Kiện toàn công tác lập, duyệt dự án đầu tư đưa vào hệ thống chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật thống nhất. Nhà nước tăng cường công tác giám sát và thanh tra từ hai phía: Bộ tài chính và thanh tra Nhà nước nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tệ nạn tham nhũng và đảm bảo vốn được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả. Ban hành các quy chế quản lý chặt chẽ việc vay trả nợ nước ngoài của chính phủ, các ngành, địa phương cũng như quy chế bảo lãnh vay nợ và quy chế tự trả của doanh nghiệp.
Nhà nước nhanh chóng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý các nguồn tài trợ quốc tế nói chung và các nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính nói riêng.
Để nâng cao và làm tốt vai trò của mình trong việc huy động sử dụng và quản lý vốn cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, Nhà nước cần gấp rút thực hiện các giải pháp:
Xúc tiến cải cách các thủ tục hành chính tinh giảm biên chế thích hợp để nâng cao và phát huy vai trò của bộ máy Nhà nước.
Nhà nước có chiến lược huy động vốn cho công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn liền với việc tạo môi trường kinh tế, chính trị, ngoại giao thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế thị trường.
Nhà nước phải xây dựng quy hoạch và kế hoạch đầu tư theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, chỉ đạo và hỗ trợ về vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia.
Nhà nước có các chính sách kinh tế và tài chính đúng đắn, thực hiện khuyến khích phát triển sản xuất và khai thác những nguồn lực về vốn cho đầu tư phát triển qua chính sách thuế, chính sách giá cả tín dụng.
Lập ra chương trình hành động cụ thể nhằm thực hiện chủ trương tiết kiệm của Đảng như vận động, tuyên truyền, giáo dục ý thức tiết kiệm trong dân chúng.
3.3.3. Đổi mới tổ chức bộ máy tài chính quốc gia và công tác kiểm toán kế toán
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế nhất định biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, phát sinh trong quá trình phân phối để hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Do đó chính sách tài chính là công cụ hữu hiệu dể nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước thực hiện được mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cho nên Nhà nước cần phải:
Nghiên cứu và ban hành chính sách tài chính quốc gia thống nhất phù hợp với đặc điểm nước ta, giải quyết đúng đắn việc phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân. Nhà nước cần phải định lại chế độ phân cấp quản lý thu chi ngân sách cho hợp lý. Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, tăng cường quản lý thị trường, có chính sách khuyến khích đúng mức để tăng mạnh nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế, chống thất thu. Mặt khác phải căn cứ vào nguồn thu mà bố trí chi tiêu, không chi vượt quá khả năng thu của ngân sách, triệt để tiết kiệm chỉ tiêu về mọi mặt.
Bằng phương thức kế hoạch hoá gián tiếp, thúc đẩy xí nghiệp phấn đấu giảm giá thành, tăng tích luỹ cho Nhà nước. Để đảm bảo nguồn thu tài chính Nhà nước phải thực hiện thu thuế theo đúng thời giá và đối tượng không khoan nhượng đối với những đối tượng không chấp hành hoặc cố tình không nộp thuế. Xúc tiến nghiên cứu và có sự điều chỉnh hợp lý đối với các loại thuế nông nghiệp, thuế vườn, thuế thuỷ sản, thuế thu nhập… Mau chóng củng cố tổ chức ngành thuế, loại trừ số nhân viên tiêu cực, thực hiện hệ thống song trùng lãnh đạo.
Nhà nước thực hiện thường xuyên chế độ thanh tra tài chính xử lý nghiêm theo pháp luật để nhanh chóng thiết lập trật tự kỷ cương về tài chính, phát động quần chúng kiểm soát giám sát để chống tệ tham nhũng, lãng phí.
Đối với chính sách tín dụng: Nhà nước cần phải chuyển mạnh chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường góp phần ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, quản lý ngoại tệ, vàng bạc đá quý. Tổ chức tốt hệ thống quỹ tín dụng nhân dân. Quản lý chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Có biện pháp đồng bộ để giảm dần lãi suất, tạo điều kiện cho đầu tư phát triển. Có chính sách tỉ giá hối đoái và quản lý ngoại hối hợp lý thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết được nhập khẩu từng bước làm cho đồng Việt Nam có giá trị chuyển đổi đầy đủ và là phương tiện lưu thông duy nhất trong nước.
Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp quy về tín dụng ngoại hối và ngân hàng đồng thời thực chi việc kiểm tra quá trình thực hiện của các ngân hàng, áp dụng các biện pháp quản lý nhằm đảm bảo sự tôn trọng các nguyên tắc hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động và kiểm tra các tổ chức tín dụng trong chấp hành pháp luật về tiền tệ tín dụng thanh toán ngoại hối và ngân hàng thi hành các biện pháp an toàn nhằm đảm bảo khả năng chi trả kịp thời đẩy đủ theo yêu cầu khách hàng của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng có quyền bắt buộc các tổ chức tín dụng duy trì các dự trữ pháp định các nguồn tiền khác sẵn sàng thanh toán các khoản tiền gửi và nợ theo quy định. Ban hành tỉ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc và tỉ lệ an toàn khác tuỳ theo loại hình của tổ chức tín dụng ngân hàng Nhà nước quy định các giới hạn về các nghiệp vụ, hoa hồng lệ phí, dịch vụ
Đối với chính sách tiền tệ: Nhà nước cần có hệ thống chính sách thích hợp, thực chi một chính sách đúng đắn điều hoà cung cầu tiền tệ theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, cải tổ hệ thống ngân hàng hoạt động theo thông lệ của kinh tế thị trường. Ngân hàng Nhà nước quản lý về mặt tiền tệ như: Chính sách lãi suất, điều tiết khối lượng tiền tệ phù hợp như bơm hút tiền vào lưu thông qua hệ thống ngân hàng thương mại để tác động vào cung cầu, dùng lực lượng dự trữ để can thiệp khi cần thiết. Nhà nước cần phải xem xét tuỳ theo thực trạng kinh tế và tình hình cụ thể của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá mà thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt hay mở rộng.
Đối với chính sách giá cả: Nhà nước phải vận dụng tổng hợp nhiều quy luật trong đó quy luật giá trị có tác động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị đồng thời phù hợp với sức mua của đồng tiền và tính đến quan hệ cung cầu. Chính sách giá cả cần phải ổn định và kích thích các cơ sở sản xuất và mọi người lao động làm ra nhiều sản phẩm hàng hoá hạ giá thành. Không nên ổn định giá cả bằng cách giữ giá một cách cứng nhắc, bất chấp sức mua của đồng tiền, bất chấp quan hệ cung cầu và sự biến động của các yếu tố hình thành giá cả. Mặt khác phải có biện pháp tích cực khắcphục từng bước tính tự phát của giá cả thị trường tự do. Nhà nước cần phấn đấu thi hành chính sách một giá đó lá kinh doanh thương nghiệp cần sớm ban hành cơ chế định giá và quản lý giá đúng đắn.
3.4. Giải pháp trong vấn đề quản lý
3.4.1. Xác định đúng phương hướng của cơ chế quản lý
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì (khoá VII) đã xác định “đưa đất nước chuyển dần sang một thời kì phát triển mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá”. Coi đó là nhiệm vụ trung tâm trong thời gian tới. Phương hướng và nội dung của cơ chế quản lý mới đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá trong giai đoạn nàylà: “Đa dạng có định hướng”. Đa dạng hướng phát triển ngành, có định hướng ngành mũi nhọn. Đa dạng công nghệ, có lựa chọn công nghệ thích hợp, hiện đại. Đa dạng vùng phát triển, có định hướng vùng trọng điểm
Với những định hướng như vậy Nhà nước phải có những biện pháp để khuyến khích và thúc đẩy quản lý quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá. Nhà nước cần có chính sách tài trợ cho một số lĩnh vực, mặt hàng, sản phẩm khuyến khích hoặc đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội. Việc tài trợ này không cần phân biệt thành phần kinh tế, thành phần nào làm được thì hưởng ưu đãi. Đồng thời với việc đảm bảo tính dân chủ, phải đảm bảo tính bình đẳng giữa các thành kinh tế, vùng kinh tế tạo điều kiện phát huy đầy đủ năng lực và vị trí của các thành phần kinh tế. Trong điều kiện hiện nay muốn sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công và phát triền bền vững thì mọi thành phần kinh tế phải được hoạt động một cách bình đẳng, có hiệu quả, có sức cạnh tranh cao. Điều này cần được thể hiện trong việc hoạch định các chính sách của Nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc hai mặt: Đối xử giống nhau đối với mọi thành phần kinh tế để đảm bảo công bằng theo chiều ngang và đối xử khác nhau đối với các thành phần để đảm bảo công bằng theo chiều dọc.
Phân định rõ chức năng và quan hệ phân công phối hợp giữa các cơ quan các đơn vị với nhau. Xác định cụ thể trách nhiệm của từng đơn vị công chức trong thực hiện công việc, nhiệm vụ. Xác định rõ những bộ phận chỉ đạo điều hoà tổng hợp ở các cơ quan quản lý tổng hợp. Ví dụ như ở văn phòng chính phủ, văn phòng uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và nhất là trong chỉ đạo điều hoà quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng thì phải chỉ đạo phối hợp chặt chẽ hoạt động của các đơn vị liên quan, thực hiện nghiêm ngặt quy định thi công một lần.
Tạo điều kiện giao lưu quốc tế rộng rãi cho mọi đối tượng, trong khuôn khổ pháp luật mà Nhà nước quy định. Quan hệ giao lưu quốc tế cần mở rộng trước hết là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ và vốn. Cùng với các biện pháp về kỹ thuật công nghệ, về kinh tế tổ chức, các biện pháp để thực hiện một cơ chế quản lý chặt chẽ có hiệu quả nêu trên sẽ có tác dụng tạo thuận lợi cho việc triển khai công nghiệp hoá hiện đại hoá theo đúng những mục tiêu đã đề ra và đạt kết quả tốt. Tính đồng bộ của các biện pháp là một yêu cầu cần được nhấn mạnh đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết thoả đáng đề phát huy cao nhất hiệu lực của các biện pháp quản lý.
3.4.2. Xây dựng hệ thống luật kinh tế
Nhà nước pháp quyền trước tiên phải được thể hiện ở những bộ luật đồng bộ, đầy đủ và khoa học sau đó là việc thực hiện pháp luật trên thực tế một cách nghiêm minh bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn cho mọi công dân trước pháp luật.
Kinh tế thị trường gắn liền với Nhà nước pháp quyền và Nhà nước sẽ quản lý chủ yếu bằng pháp luật. Kinh tế thị trường lành mạnh chỉ có thể hoạt động trong khuôn khổ luật pháp. Đây là công cụ cực kỳ quan trọng tạo nên hành lang năng động và có trật tự cho các chủ thể kinh doanh. Theo hướng đó Nhà nước cần phải dày công tạo dựng, bổ xung, hoàn chỉnh, chống đặc quyền hành chính bình đẳng giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh. Trước hết ban hành luật kinh doanh chuyển từ nguyên tắc “xin phép” sang nguyên tắc “được làm cái mà luật không cấm”. Theo từng nấc thang của kinh tế thị trường mà có thể chế hoá các quan hệ kinh tế. Trước mắt cần hoàn chỉnh bổ sung các luật liên quan đến tư cách pháp nhân như bổ sung và sửa đổi luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty ban hành, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật hợp tác xã, các luật liên quan đến điều kiện sản xuất kinh doanh. Nâng pháp lệnh ngân hàng thành luật, luật đất đai, bổ sung sửa đổi luật thuế, các luật liên quan đến hậu quả sản xuất kinh doanh như luật phá sản, thất nghiệp hiểm kinh doanh.
Để có thể làm được việc này Nhà nước cần phải thực hiện các nguyên tắc và quan điểm sau:
Trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế, chúng ta phải đối mặt với một khó khăn lớn là phải tạo lập một hệ thống pháp luật trong đó cơ chế pháp lý của nó phản ánh đa dạng của các chủ thể kinh doanh và lợi ích kinh doanh. Nhưng lại phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật đó phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích kinh doanh và công bằng xã hội. Một mô hình như thế chưa từng tồntại trên thực tế, chưa kể đến quan hệ kinh tế thị trường cũng chỉ mới bước đầu phát sinh ở nước ta và pháp luật chỉ mới bắt đầu biết đến nó. Vì vậy việc hoàn thiện một cách nóng vội, muốn có đầy đủ ngay một hệ thống pháp luật ban hành dưới hình thức pháp luật cao sẽ không tránh khỏi những nhược điểm thiếu sót. Việc hoàn thiện pháp luật kinh tế phải được tiến hành từng bước vững chắc, có chương trình, trật tự ưu tiên sau khi pháp luật được ban hành và đưa vào điều chỉnh trong thực tế thì việc sửa đổi bổ sung pháp luật là một khâu quan trọng của hoạt động luật pháp phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới bắt đầu hình thành các quan hệ kinh tế chưa ổn định. Vì vậy cần thiết phải sửa đổi bổ sung thường xuyên. Mặt khác đặc biệt quan trọng là phải siết chặt kiểm tra thực hiện luật. Tiến hành thường xuyên việc tổ chức tổ chức kiểm nghiệm lại hiệu lực thi hành của các văn bản pháp luật đã ban hành là vấn đề quan trọng nhằm giúp cho việc sửa đổi bổ sung kịp thời đáp ứng hoạt động kinh doanh có hiệu quả hiệu lực. Điều cần hết sức tránh là ở chỗ một văn bản mớ ban hành chưa thực thi thì đã có ngay một quyết định hoãn hoặc xoá bỏ nó như thời gian qua.
Trong nền kinh tế thị trường quyền tự do kinh doanh là trung tâm, mục tiêu động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Tuy nhiên tự do kinh doanh không có nghĩa là vô chính phủ, là vô hạn mà nó được thực hiện trong sự tôn trọng lợi ích của xã hội, của nhân dân, của các chủ thể kinh doanh khác. Pháp luật không thể là những quy định hạn chế quyền tự do kinh doanh mà phải tạo tiền đề pháp lý cho sự ổn định các quan hệ kinh doanh làm cho mọi thành phần kinh tế, mỗi doanh nghiệp và công dân yên tâm huy động mọi tiềm năng sáng tạo và tiềm năng kinh tế vào hoạt động kinh doanh. Vì vậy pháp luật về kinh tế phải rất rộng về nhiều phương diện và các bộ phận hợp thành.
Luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội ban hành vào ngày 21/12/1990 và có hiệu lực từ ngày15/4/1992 nhưng cho đến nay việc thi hành hai luật này còn nhiều lúng túng lắm phiền hà bởi vì không một cơ quan có trách nhiệm nào của Nhà nước có văn bản hướng dẫn quy trình xét duyệt cho phép thành lập công ty doanh nghiệp tư nhân theo luật định vậy cần nhanh chóng sửa đổi luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân trên những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cần nhanh chong xây dựng và ban hành luật phá sản của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có quá trình ra đời hoạt động kinh doanh thì tất yếu có quá trình phá sản nếu không được chấp nhận. Do đó cần phải có quy định rõ ràng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Kết luận
Trong thời đại ngày nay việc nâng cao vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là xu hướng khách quan đối với mọi quốc gia không phân biệt thể chế chính trị. Ngày nay không có một Nhà nước nào đứng ngoài đời sống kinh tế, không có một nền kinh tế thị trường nào hoạt động thuần tuý mà ở những mức độ khác nhau đều có sự can thiệp của Nhà nước. Nhà nước không còn được quan niệm giản đơn là người giữ trật tự, làm trọng tài mà Nhà nước nằm trong cơ cầu kinh tế, điều tiết từ bên trong nền kinh tế. Mọi quốc gia các trường hợp kinh tế phát triển thành công hay suy thoái, giàu hay nghèo, ổn định hay rối loạn đều tìm thấy nguyên nhân chủ yếu ở vai trò kinh tế của Nhà nước. Vì thế chuyển sang kinh tế thị trường chỉ là điều kiện cần còn điều kiện đủ phải là vai trò kinh tế của Nhà nước. Do vậy việc chuyển nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, là con đường đúng đắn nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn để đưa đất nước tiến lên sánh vai cùng cường quốc năm châu như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn: “ cơ chế mới với nhiều thách thức mới do đó hơn bao giờ hết cần thiết phải có vai trò kinh tế của Nhà nước để đảm bảo cho sự phát triển là hiệu quả nhất và giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã xác định bằng mồ hôi và xương máu trong suốt hai cuộc chiến tranh trường kì. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước trong quản lý vĩ mô như cải cách chính sách tài chính, chuyển giao công nghệ, thương mại thuế quan để phát huy các tiềm năng trong nước cũng như thu hút được vốn và công nghệ tiên tiến của nước ngoài đồng thời phát triển nguồn nhân lực phát huy nhân tố con người tiếp nhận được tri thức, thành tựu khoa học hiệnđại của thế giới để có thể cải tiến công nghệ và từng bước tiến tới sáng tạo công nghệ mới nhằm đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá, đạt được yêu cầu tăng trưởng nhanh, ổn định, vững chắc.
Tài liệu tham khảo
1. Vũ Tuấn Anh - Vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế.
- NXB Khoa học xã hội 1999.
2. Kinh tế học của D.Beed tập 1 chương IV.
3. Ngô Đình Giao - Suy nghĩ về công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta 1996.
4. Nguyễn Duy Hùng - Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong kinh tế thị trường - Kinh nghiêm các nước ASEAN.
5. Phạm ích Khiêm - Nguyễn Đình Phan - Công nghiệp hoá hiện đại hoá Việt Nam và các nước trong khu vực. - NXB Thống kê - 1994.
6. Võ Đại Lược - Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam trong quá trình đổi mới. - NXB Khoa học xã hội 1996.
7. Công nghiệp hoá hiện đại hoá Việt Nam đến năm 2000.
- NXB Khoa học xã hội 1996.
8. Những xu hướng phát triển của thế giới và sự lựa chọn mô hình công nghiệp ở nước ta. - NXB Khoa học xã hội1994.
9. Võ Đại Lượng - Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế. Kinh nghiệm ASEAN và Việt Nam. - NXB Khoa học xã hội 1993.
1o. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
- NXB Sự thật - 1987.
11. Văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
- NXB Sự thật - 1991.
12. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
- NXB Sự thật - 1996.
13. Kinh tế chính trị Mác - Lê Nin (tập II).
- NXB giáo dục - 1998.
14.Paul. Samuellson: Kinh tế học, tập 1 chương III.
15.Tạp chí Quản lý Nhà nước.
16. Tạp chí Thương mại.
17. Tạp chí Giáo dục và Thời đại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KC025.doc