Giai đoạn 6: Điều chỉnh dự án
Tận dụng độc quyền có được sau khi trúng
thầu, nhiều nhà thầu sử dụng thủ pháp điều
chỉnh dự án để thay đổi các cam kết kỹ thuật
hay giá thành khi tham gia dự thầu. Đôi khi
điều chỉnh dự án trong quá trình thực hiện
là việc khó tránh khỏi do biến động của thị
trường và môi trường chính sách, tuy nhiên,
những thay đổi này phải được thẩm định
hoặc thẩm tra như đã trình bày ở trên. Nhiều
nước quy định khi giá thành dự án tăng từ
10% hoặc 20%, dự án buộc phải tái thẩm
định lại với những chuẩn mực khắt khe như
dự án mới9.
Giai đoạn 7: Nghiệm thu, vận hành dự án
Sau khi thực hiện, các dự án đầu tư công
được nghiệm thu, tài sản công cần được đăng
ký tài sản. Phải có một hệ thống đăng ký tài
sản công đầy đủ, cập nhật, đáng tin cậy. Trọng
tâm trong giai đoạn này là thực thi các quy
định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước 2008 và thiết lập hệ thống đăng ký tài sản
công. Hơn thế nữa, việc tăng hiệu quả giám sát
của Kiểm toán Nhà nước có thể cũng cần được
thảo luận để hối thúc sử dụng công sản hiệu
quả hơn. Ưu tiên trong giai đoạn này không
phải là lập pháp, mà là tăng tuân thủ pháp luật
liên quan cũng như tăng tính công khai của các
báo cáo kiểm toán nhà nước.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của pháp luật trong kiểm soát đầu tư công, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 458
2011
CHÍNH SÁCH
Đ
ầu tư công của Việt Nam hiện
nay vừa cao, vừa không hiệu
quả. Trong khi tỷ lệ đầu tư công
ở các nước OECD và Đông Á
đều vào khoảng 3-5% GDP, Trung Quốc là
3,5%, Indonesia 1,6%, thì tỷ lệ này ở Việt Nam
hàng năm ước tính bằng khoảng 17%-20%
GDP1. Do số liệu thống kê chỉ giới hạn vào
các dự án đầu tư công theo nghĩa hẹp gồm các
dự án không có khả năng hoàn vốn trực tiếp2,
nếu kể cả đầu tư của khu vực doanh nghiệp
nhà nước (DNNN), có lẽ tỷ lệ này còn cao hơn
một cách đáng kể. Về số lượng dự án, theo số
liệu mới công bố ngày 21/04/2011 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, năm 2010 cả nước đã thống
kê được 34.607 dự án đầu tư đang tiến hành,
trong đó 20.332 dự án có trên 30% vốn từ ngân
sách nhà nước, ít hơn nhiều con số 60.639 dự
án đầu tư từ ngân sách vào năm 20083. Nhà
nước Việt Nam vừa đầu tư nhiều, vừa không
hiệu quả, kể cả so với các quốc gia chuyển đổi
trong những giai đoạn lịch sử tương ứng của
họ4. Nói cách khác, tăng trưởng ở Việt Nam đã
được dẫn dắt phần đáng kể bởi đầu tư của Nhà
nước, song hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp.
Đây là lĩnh vực còn phát sinh tham nhũng, là
nguyên nhân chính làm tồi tệ thêm lạm phát và
lãng phí nguồn lực. Thực tế đó chí ít đặt ra hai
bài toán, một là phải thắt chặt đầu tư, và hai là,
trong số các dự án Nhà nước buộc phải đầu tư,
cần thay đổi các thể chế để tăng cường hiệu
quả sử dụng đồng vốn.
Vai trò của hệ thống pháp luật nhằm thắt
chặt đầu tư công
Muốn giải hai bài toán trên, vừa thắt chặt
đầu tư công, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, cần tới nhiều công cụ và thể chế khác
nhau, trong đó hệ thống pháp luật đóng một vai
trò nhất định. Nói cách khác, để đầu tư công
diễn ra tràn lan và kém kiểm soát, cũng có một
phần lỗi của thể chế, trong đó có pháp luật.
Như vậy, thảo luận về vai trò của pháp luật
để giám sát tốt hơn đầu tư công là việc làm có
ý nghĩa. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh ở đây hai
ý: thứ nhất, kiểm soát đầu tư công cần tới cả
hệ thống pháp luật, với sự can thiệp của nhiều
lĩnh vực pháp luật khác nhau, chứ không chỉ
bằng một đạo luật riêng biệt, ví dụ Luật Đầu tư
PHẠM DUY NGHĨA*
(*) PGS,TS. Khoa Luật và Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh
(1) Xem thêm: R Frensch at al, How to improve public investment efficiency in Ukraine, Osteuropa Institut (2004), Kurzanalysen und
Information Nr 17 Mai 2004.
(2) Dự thảo Luật Đầu tư công, bản tháng 3/2010 định nghĩa khái niệm đầu tư công theo nghĩa hẹp này.
(3) Báo cáo của Bộ KH&ĐT ngày 21/04/2011 về chế độ báo cáo, giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư năm 2010, Nguồn tin: Bộ Kế hoạch
và Đầu tư và Văn phòng Chính phủ.
(4) Xem thêm Nguyễn Đình Tài, Lê Thanh Tú, Nâng cao hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính, 04/2010.
VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
TRONG KIỂM SOÁT ĐầU TƯ CÔNG
46 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
CHÍNH SÁCH
công đang được soạn thảo từ hơn ba năm nay;
thứ hai, mặc dù có vai trò to lớn, song pháp
luật cũng có giới hạn của nó, những vấn đề
cần được giải quyết bằng ý thức hệ, nhận thức
chính trị hay các tương quan quyền lực khó có
thể giải quyết bằng công cụ pháp luật. Đầu tư
công gắn liền với quan niệm về công hữu và
quan niệm về vai trò của Nhà nước trong phát
triển, quan niệm về vai trò chủ đạo của DNNN
trong nền kinh tế, những nhận thức mang tính
chính trị, ý thức hệ này chỉ được thay đổi qua
tranh luận xã hội và nhận biết của giới cầm
quyền, hơn là bởi công cụ pháp luật.
Các công đoạn liên quan đến đầu tư công
cần được giám sát
Đầu tư công được thực hiện bằng các dự
án, ví dụ hơn hai vạn dự án có vốn từ ngân
sách đang được thực hiện trong năm 2010 và
vô số những dự án lớn nhỏ khác được đầu tư
bởi các DNNN, ví dụ như Tập đoàn Vinashin.
Để kiểm soát hiệu quả một dự án đầu tư công,
phải nhận diện toàn bộ quy trình từ hình thành,
thẩm định, thẩm tra, quyết định cấp ngân sách,
kiểm soát chi tiêu, nghiệm thu, vận hành cho
đến đánh giá hiệu quả dự án sau khi hoàn thành.
Những giai đoạn này do nhiều cơ quan nhà
nước thực hiện, cần được giám sát bằng những
thể chế khác nhau. Dựa vào những nghiên cứu
mới đây của WB và IMF về hiệu quả đầu tư
công5, bảng dưới đây tìm cách mô tả toàn bộ
quy trình đầu tư công thành 8 giai đoạn, sơ
khởi từ ý tưởng cho đến hoàn công, đưa vào
sử dụng và đánh giá nghiệm thu. Tương ứng
với 8 giai đoạn đó, nhiều lĩnh vực pháp luật đa
dạng khác nhau có thể có những vai trò nhất
định tới giám sát đầu tư công. Bài viết dưới
đây phác thảo những ý tưởng góp phần thảo
luận về vai trò của pháp luật và của cơ quan
dân cử tương ứng với 08 giai đoạn của một dự
án đầu tư công:
(5) Anand Rajaram at al, A Diagnostic Framework for Assessing Public Investment Management, WB Policy Working Paper 5397,
August 2010, xem thêm: Murray Petrie, Promoting Public Investment Efficiency: A Synthesis of Country Experiences, Hanoi, August
2010 (unpublished paper).
Ý tưởng, Kế hoạch, Đề xuất
Thẩm định dự án
Giám sát thẩm định
Chọn dự án, ngân sách
Thực hiện dự án
Điều chỉnh dự án
Thỏa thuận chính trị khác
Thảo luận, quyết định
các mục tiêu KT-XH
Thương lượng
ngân sách
Giám sát
ngân sách
Dự án
bị loại
Hiến pháp
Luật ngân sách
Luật đấu thầu
Luật kiểm toán
nhà nước
Luật phòng, chống
tham nhũng
Các luật khác
Quy chế hành chính
Quyết toán ngân sách
Tiêu chuẩn, chuẩn mực, kinh
nghiệm tốt, sách hướng dẫn,
Cẩm nang và quy phạm khác
Vận hành dự án
Gián sát sau vận hành
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 478
2011
CHÍNH SÁCH
Giai đoạn 1: Đề xuất ý tưởng, kế hoạch đầu
tư công
Hàng chục vạn dự án đầu tư công được các
DNNN, các đơn vị trong hệ thống chính trị và
chính quyền các cấp đề xuất. Nếu sáng kiến đề
xuất dự án từ khu vực DNNN xuất phát từ thị
trường, từ cơ hội kinh doanh, từ các lợi ích kinh
tế đa dạng, luật pháp khó mà kiểm soát chúng,
ngược lại, sáng kiến lập dự án của các đơn vị
công quyền chi dùng ngân sách phải xuất phát
từ sứ mạng, chức năng và các định hướng chính
trị, xã hội của chúng. Một hệ thống kiểm soát
đầu tư công tốt phải bắt đầu từ định hình các
tiêu chí sàng lọc sáng kiến dự án (prelimiary
screening), tránh ngay từ đầu các dự án hoang
tưởng, không thật gắn với chức năng, sứ mệnh
của cơ quan công quyền và chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội (KT-XH). Ở Việt Nam,
các chiến lược phát triển KT-XH trung và dài
hạn được định hình bởi các cơ quan của Đảng
(Đại hội, các nghị quyết Trung ương, chỉ thị của
Ban bí thư, các tổ chức Đảng cơ sở). Cần thảo
luận để làm rõ hơn các tiêu chí đề xuất sáng
kiến lập dự án đầu tư công, đặt chúng dưới sự
kiểm soát của một đầu mối nhất định. Như đã
nhấn mạnh, điều này không khả thi đối với khu
vực doanh nghiệp, song cần phải làm đối với
các đầu mối chi tiêu ngân sách6. Quy trình này
gắn với lập kế hoạch phát triển KT-XH cần
được minh bạch hơn, có các tiêu chí định lượng
cụ thể, tránh các đề xuất dựa theo thỏa thuận
chính trị giữa các phe nhóm. Pháp luật không
có vai trò lớn đối với nội bộ các cuộc thảo luận
về chiến lược phát triển KT-XH trong nội bộ
các cơ quan của Đảng, song có thể đẩy mạnh
thảo luận chính trị giúp các chiến lược đó có
khả năng định lượng, đủ để thẩm định các sáng
kiến lập dự án đầu tư công. Khi các chiến lược
và chỉ tiêu phát triển này được chuyển sang các
cơ quan dân cử, Quốc hội và Hội đồng nhân dân
(HĐND) quyết định các mục tiêu phát triển KT-
XH, chức năng này cần gắn liền với quy trình
ngân sách trung hạn. Ở giác độ này, Hiến pháp,
Luật Ngân sách, Luật Tổ chức Quốc hội và quy
trình hoạt động của Quốc hội cũng như pháp
luật tương ứng về cơ quan dân cử địa phương
cần được đánh giá nhằm khẳng định quyền lực
thực tế của Quốc hội và cơ quan dân cử trong
lập kế hoạch ngân sách trung hạn, lấy kế hoạch
ngân sách làm trọng tâm trong hoạch định chiến
lược phát triển quốc gia và các địa phương. Hai
quy trình ngân sách (do Bộ Tài chính chịu trách
(6) Ở Chile, 5-8% các đề xuất dự án bị bác ngay trong giai đoạn sàng lọc đầu tiên này, nguồn WB 2010 (đã dẫn), tr. 9.
Quy trình ngân sách và quy trình xây dựng kế hoạch
phát triển KT-XH thực hiện hàng năm:
Công việc thuộc Bộ tài chính Công việc thuộc Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Tháng 4: Thủ tướng ra Chỉ thị
Tháng 6: Bộ TC ra thông tư hướng
dẫn triển khai
Hạn 25/7 hàng năm: Các tỉnh gửi
dự toán về Bộ TC
Tháng 8: Tổng hợp dự toán, dự
kiến kế hoạch phân bổ
Tháng 9: CP xem xét trình QH
Trước 15/11: QH phê chuẩn dự
toán NSNN
10/12: HĐND quyết định dự toán
NS địa phương
Tháng 6: Bộ KH & ĐT xây dựng
khung định hướng - kế hoạch
Cuối tháng 7: Các ngành/tỉnh gửi
báo cáo xây dựng kế hoạch
Tháng 8: Bộ KH & ĐT tổng hợp kế
hoạch phát triển toàn quốc
Tháng 9: CP thảo luận
Tháng 10-11 QH thảo luận QĐ kế
hoạch phát triển KT-XH của đất
nước (qua nghị quyết với 20-25 chỉ
tiêu hàng năm)
48 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
CHÍNH SÁCH
nhiệm chính) và quy trình xây dựng kế hoạch
phát triển KT-XH (do Bộ Kế hoạch và đầu tư
chịu trách nhiệm chính) hiện đang được tiến
hành song song, có lẽ nên thống nhất lại (xem
bảng dưới đây). Thêm nữa, trong Hiến pháp,
Luật Tổ chức Quốc hội và pháp luật về thủ tục
nghị viện, cần chuyển nội dung Quốc hội và
HĐND quyết định kế hoạch phát triển KT-XH
thành quyền lực thẩm tra và thông qua kế hoạch
tài chính trung hạn. Trong quy trình ngân sách,
cần chỉnh sửa Luật Ngân sách tạo điều kiện cho
cơ quan dân cử tham gia sớm vào quá trình đề
xuất và thông qua chỉ tiêu ngân sách, kiểm soát
việc “dịch” chỉ tiêu thành kế hoạch ngân sách
trung hạn và hàng năm. Kiểm soát được ngân
sách, cơ quan dân cử sẽ kiểm tra được kế hoạch
tổng thể về đầu tư công. Cũng như vậy, kỷ luật
chi tiêu của Chính phủ phải được đánh giá dựa
theo khung ngân sách do cơ quan dân cử đã
chấp thuận.
Tóm lại, trong giai đoạn thứ nhất, thắt
chặt đầu tư công bắt đầu bằng việc kiểm
soát các sáng kiến đầu tư. Các ưu tiên
của Đảng cầm quyền là lĩnh vực mà pháp
luật khó có thể can thiệp. Song, tăng minh
bạch, thảo luận và quyết định tại các cơ
quan dân cử về các chỉ tiêu hay tiêu chí
đánh giá các sáng kiến đầu tư là điều có
thể làm. Muốn vậy, phải thay đổi quyền lực
của cơ quan dân cử trong quá trình xây
dựng chỉ tiêu ngân sách cũng như kế hoạch
KT-XH. Đây là lĩnh vực cần đánh giá lại
vai trò của Luật hiến pháp, luật ngân sách,
các quy trình quyết định kế hoạch KT-XH
hiện hành.
Trong giai đoạn 2, điều quan trọng là
phải xây dựng những chuẩn mực, thủ tục
chặt chẽ trong lập và thẩm định đề xuất dự
án đầu tư, cũng như xây dựng năng lực (con
người và bộ máy để thực thi các chuẩn mực
đó). Nhu cầu pháp điển hóa các chuẩn mực
này trong một Dự luật Đầu tư công có thể
không cao. Quan trọng và cấp thiết hơn là
phải có một cơ quan chuyên trách được ủy
quyền đưa ra các chuẩn mực giám sát thẩm
định dự án đầu tư công cũng như đào tạo
năng lực thẩm định đầu tư công của nhân
viên hành chính toàn quốc. Đây là lĩnh vực
mà pháp luật về tổ chức Chính phủ, quy chế
hoạt động của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Tài chính có liên quan chặt chẽ tới giám sát
quá trình lập dự án đầu tư công.
Giai đoạn 2: Lập và thẩm định dự án đầu tư
công
Dựa trên sáng kiến và đề xuất, hàng năm,
hàng chục vạn dự án đầu tư công sẽ được lập
và thẩm định. Dự thảo Luật Đầu tư công đã
(7) Nghị quyết số 66/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội về dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư, dự kiến được sửa đổi nâng mức đầu tư lên 35.000 tỷ đồng đối với các dự án cần được Quốc hội phê chuẩn.
tìm cách pháp điển hóa thực tiễn hiện nay vào
các điều từ 30-38 của dự luật. Đây là lĩnh vực
cơ bản thuộc hành pháp, Chính phủ với tính
chất là cơ quan hoạch định chính sách hoặc ủy
quyền cho một cơ quan hành chính chấp pháp
có thể lập các tiêu chuẩn và thủ tục thẩm định
dự án đầu tư công.
Giai đoạn 3: Thẩm tra dự án
Có lẽ cần có những chuẩn mực phân quyền
rạch ròi, những khoản chi nào Chính phủ
được tự quyết, và những khoản chi nào cần
sự chấp thuận của Quốc hội hoặc của HĐND
các cấp. Đây là nội dung thông thường của
một đạo luật khung về ngân sách và các kế
hoạch ngân sách hàng năm thường do Quốc
hội ban hành cũng dưới dạng một đạo luật, gọi
là luật ngân sách hàng năm. Hiện nay, bằng
một nghị quyết7, Quốc hội đã quy định các
dự án đầu tư công có quy mô vốn đầu tư và
tỷ trọng vốn nhà nước trên tổng số vốn đầu tư
của dự án từ 20.000 tỷ đồng phải trình Quốc
hội phê chuẩn. Tuy vậy, một lỗ hổng đặt ra là
Hội đồng quản trị các tập đoàn quốc doanh
được tự quyết các dự án tới 50% tài sản tập
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 498
2011
CHÍNH SÁCH
Giai đoạn thẩm tra có trọng tâm nhấn
mạnh vào hoạt động thẩm tra của cơ quan
dân cử, ví dụ HĐND và Quốc hội. Có thể
có nhiều hoạt động liên quan đến quá
trình này, ví dụ yêu cầu thẩm định bởi một
tổ chức độc lập, trước khi thảo luận tại
các ủy ban của Quốc hội và HĐND phải
có các phiên điều trần, cho phép các ý kiến
tranh luận và phản biện đa chiều. Lĩnh
vực này cần có một tuyên bố rõ ràng trong
Luật Ngân sách về những chi tiêu công,
bất kể là từ DNNN hay từ cơ quan công
quyền, trong khuôn khổ nào thì hành pháp
được tự quyết định, trong những khuôn
khổ nào thì Quốc hội và HĐND phải quyết
định. Những điều này thường thể hiện ở
luật ngân sách hàng năm với quy trình
nghị viện công khai, cho phép điều trần và
thảo luận đa chiều. Những sức ép này giúp
cơ quan dân cử quyết định trong thẩm tra
các đề xuất đầu tư công của cơ quan hành
pháp. Một Nghị quyết của Quốc hội về
công trình trọng điểm quốc gia cần chấp
thuận của Quốc hội dường như chưa đủ,
cần thảo luận về luật khung ngân sách và
luật ngân sách hàng năm. Các đạo luật
này sẽ phân quyền rạch ròi giữa lập pháp
Ưu tiên trong giai đoạn lựa chọn dự án
hiện nay không phải lập pháp, trên thực tế
là tăng tuân thủ pháp luật, tuân thủ đúng
các quy định về đấu thầu dự án công, các
cam kết tiết kiệm, phòng và chống tham
nhũng mà Nhà nước đã ban hành. Muốn
vậy, phải tăng trách nhiệm giải trình của
những người có trách nhiệm trong Chính
phủ và bộ máy hành chính, tăng minh bạch,
bảo đảm quyền có thông tin của người dân,
tăng giám sát của người dân và xã hội dân
sự đối với tuân thủ pháp luật.
đoàn, nếu tài sản của Vinashin là 90.000 tỷ
đồng thì Hội đồng quản trị tập đoàn này được
tự quyết các dự án tới 45.000 tỷ đồng, lớn
hơn nhiều hạn mức mà Chính phủ phải trình
Quốc hội. Đây rõ ràng là một nội dung cần
tính toán để sửa đổi lại luật khung về ngân
sách và luật ngân sách hàng năm, tăng quyền
cho các cơ quan dân cử. Nếu Bộ Kế hoạch
và đầu tư đề xuất tăng ngưỡng các dự án cần
Quốc hội phê chuẩn từ 20.000 tỷ đồng thành
35.000 tỷ đồng, thì thực ra đề xuất này chỉ
tăng quyền cho Chính phủ và trên thực tế, có
thể giảm quyền của Quốc hội.
(8) Xem Luật Phòng, chống tham nhũng 2005; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí 2005; Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước
2008; Luật Quản lý nợ công 2009 và nhiều văn bản pháp luật có liên quan.
và hành pháp trong quyết định về đầu tư
công, trong đó công luận phải được biết về
khung chi tiêu tổng thể và có quyền tham
gia trong quá trình đó.
Giai đoạn 4: Chấp thuận ngân sách và lựa
chọn dự án
Sau khi được chấp thuận về ngân sách,
lựa chọn dự án thuộc thẩm quyền hành
pháp, việc này được tiến hành trong một
khung khổ dày đặc các quy định của luật
đấu thầu, luật về mua sắm công, luật về
quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, luật thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí và pháp luật
về phòng, chống tham nhũng và các luật
khác. Khung khổ pháp luật Việt Nam về
những vấn đề liên quan đã được ban hành
có thể nói tương đối đầy đủ, khuyến khích
minh bạch trong mua sắm công, khuyến
khích đấu thầu cạnh tranh, khống chế lạm
dụng, lãng phí công quỹ8.
Giai đoạn 5: Thực hiện, triển khai dự án
Sau khi dự án được lựa chọn, điều quan
trọng là giám sát thực hiện dự án để tuân
thủ đúng các mục đích và chi phí của dự án.
Trong hầu hết các tình huống, thắng thầu
trở thành một thứ độc quyền, chủ đầu tư tận
50 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
CHÍNH SÁCH
dụng cơ hội đó, không tuân thủ các cam kết
về mục đích và giá, có những dự án tổng giá
thành đã tăng lên rất nhanh so với dự kiến
hoặc mức phác thảo ban đầu (ví dụ Dự án
Nhà máy lọc dầu Dung Quất). Luật pháp có
thể tác động tới quá trình này bao gồm các
quy định về báo cáo thực hiện tiến độ dự án,
các quy định về thương thảo hợp đồng sau
khi thắng thầu quy định quyền và nghĩa vụ
một cách rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và đơn vị thắng thầu, các quy
định về kiểm toán, các chuẩn mực kế toán
để đánh giá thực hiện dự án. Các quy định
từ điều 39-55 Dự thảo Luật Đầu tư công đã
phác thảo những nội dung cần điều chỉnh
trong giai đoạn này.
Nếu dự án kéo dài nhiều năm, thậm chí
dài hơn cả nhiệm kỳ của cơ quan hành
pháp, cần xác lập những thể chế để giám
sát được chi phí và mục đích cần đạt được
của toàn bộ dự án, vượt qua những giới hạn
của trách nhiệm giải trình theo nhiệm kỳ.
Luật pháp có thể tác động tới giai đoạn này
có thể bao gồm nhiều lĩnh vực từ chuẩn mực
báo cáo, thông kê, kế toán, kiểm toán, tới
cơ chế thực thi các cam kết của Nhà nước
và đơn vị thắng thầu. Thách thức lớn ở đây
là tạo ra một cơ chế trách nhiệm vượt qua
giới hạn nhiệm kỳ của Quốc hội và Chính
phủ, theo dõi toàn bộ dự án, từ những cam
kết về mục đích đầu tiên tới quá trình thực
hiện dự án.
Pháp luật ảnh hưởng tới giám sát thực
hiện và điều chỉnh dự án bao gồm các quy
định về đấu thầu và thẩm định dự án, đặc
biệt khi chi phí thực tế thực hiện dự án tăng
lên một cách đáng kể. Để tăng hệ thống
chuẩn mực giám sát dự án đa dạng, ngoài
pháp luật, phải tính tới hệ thống các quy
chế hành chính (dưới luật, mang tính nội bộ
hành pháp) và các chuẩn mực nghề nghiệp,
hiệp hội (chuẩn mực không mang tính quy
phạm pháp luật).
(9) Xem thêm Murray Petrie (2010) đã dẫn ở trên, tài liệu này phác thảo những chuẩn mực giám sát dự án công của một số nhóm nước,
chia thành các nhóm nước OECD, nhóm nước sử dụng tài nguyên và nhóm nước đang phát triển.
(Xem tiếp trang 60)
Giai đoạn 6: Điều chỉnh dự án
Tận dụng độc quyền có được sau khi trúng
thầu, nhiều nhà thầu sử dụng thủ pháp điều
chỉnh dự án để thay đổi các cam kết kỹ thuật
hay giá thành khi tham gia dự thầu. Đôi khi
điều chỉnh dự án trong quá trình thực hiện
là việc khó tránh khỏi do biến động của thị
trường và môi trường chính sách, tuy nhiên,
những thay đổi này phải được thẩm định
hoặc thẩm tra như đã trình bày ở trên. Nhiều
nước quy định khi giá thành dự án tăng từ
10% hoặc 20%, dự án buộc phải tái thẩm
định lại với những chuẩn mực khắt khe như
dự án mới9.
Giai đoạn 7: Nghiệm thu, vận hành dự án
Sau khi thực hiện, các dự án đầu tư công
được nghiệm thu, tài sản công cần được đăng
ký tài sản. Phải có một hệ thống đăng ký tài
sản công đầy đủ, cập nhật, đáng tin cậy. Trọng
tâm trong giai đoạn này là thực thi các quy
định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước 2008 và thiết lập hệ thống đăng ký tài sản
công. Hơn thế nữa, việc tăng hiệu quả giám sát
của Kiểm toán Nhà nước có thể cũng cần được
thảo luận để hối thúc sử dụng công sản hiệu
quả hơn. Ưu tiên trong giai đoạn này không
phải là lập pháp, mà là tăng tuân thủ pháp luật
liên quan cũng như tăng tính công khai của các
báo cáo kiểm toán nhà nước.
Giai đoạn 8: Đánh giá dự án sau khi triển
khai
Như đã trình bày, vượt qua khuôn khổ nhiệm
kỳ, cần có những đánh giá về hiệu quả đầu tư
công sau khi dự án đã được triển khai. Chúng
tôi chưa rõ hiện nay, các dự án đầu tư công ở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_phap_luat_trong_kiem_soat_dau_tu_cong.pdf