KẾT LUẬN
Sinh bệnh học của bệnh ĐUTX là bất thường
nhiễm sắc thể và sự tương tác giữa tế bào tương
bào và các yếu tố vi môi trường trong tủy xương.
Chẩn đoán xác định ĐUTX cũng như chẩn
đoán phân biệt được thiết lập dựa trên 3 tiêu
chuẩn: sự hiện diện của đỉnh gamma đơn
dòng trong huyết tương hay nước tiểu, sự
tăng sinh tương bào ác tính trong tủy xương
và biểu hiện của tổn thương cơ quan đích.
Trong đó sinh thiết tủy xương hầu như luôn
phải thực hiện, bởi lẽ tiêu chuẩn tăng sinh
tương bào đơn dòng ác tính trong tủy xương
là một tiêu chuẩn rất quan trọng.
Giải phẫu bệnh, dựa chủ yếu vào đặc điểm
tổ chức học và hình thái học và hóa mô miễn
dịch, đóng vai trò quan trọng trong xác định 2
vấn đề cơ bản nhưng là 2 vấn đề chủ chốt: một là
phân biệt tương bào ác tính hay tăng sinh tương
bào phản ứng, hai là xác định tỉ lệ tương bào ác
tính trong tủy xương. Việc xác định tỉ lệ tương
bào ác tính trên mẫu tủy sinh thiết chính xác hơn
so với xét nghiệm tủy đồ trên mẫu tủy hút và kỹ
thuật dấu ấn miễn dịch tế bào (flow cytometry).
Ngoài việc chẩn đoán xác định bệnh, những
đặc điểm mô học, vi môi trường và hình thái học
cũng góp phần trong tiên lượng dự hậu của
bệnh. Tuy nhiên ở khía cạnh xếp giai đoạn và
tiên lượng bệnh, hiện nay khảo sát di truyền học
có vai trò chủ chốt hơn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 31 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của sinh thiết tủy xương trong chẩn đoán và tiên lượng bệnh đa u tủy xương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 78
VAI TRÒ CỦA SINH THIẾT TỦY XƯƠNG TRONG CHẨN ĐOÁN
VÀ TIÊN LƯỢNG BỆNH ĐA U TỦY XƯƠNG
Ngô Ngọc Ngân Linh*, Lê Thanh Tú*, Phù Chí Dũng*
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đa u tủy xương là một bệnh lý ác tính của
dòng tế bào B biệt hóa. Trong các bệnh lý ung
thư, đa u tủy chiếm tỉ lệ 1%. Trong các bệnh máu
ác tính, đa u tủy xương chiếm khoảng 10% và là
bệnh phổ biến đứng hàng thứ hai, chỉ sau bệnh
lymphoma không-Hodgkin. Sinh bệnh học của
bệnh ĐUTX là bất thường nhiễm sắc thể và sự
tương tác giữa tế bào tương bào và các yếu tố vi
môi trường trong tủy xương. Bệnh đặc trưng bởi
sự tăng sinh và tích luỹ bất thường các tế bào
dòng tương bào trong tuỷ xương, xuất hiện
protein đơn dòng trong huyết thanh và nước
tiểu, tổn thương các cơ quan đích. Các đặc trưng
trên cũng là 3 tiêu chuẩn cho chẩn đoán xác định
bệnh.
Phân biệt plasmocyte phản ứng hay
plasmocyte ác tính và đánh giá số lượng tế bào
plasmocyte trong tuỷ xương là một bước quan
trọng trong việc chẩn đoán và theo dõi điều trị
bệnh đa u tủy và các rối loạn tương bào khác. Vì
vậy, luôn luôn phải phân tích giải phẫu mô bệnh
học tủy xương (histopathology). Mặc dù dịch hút
tủy xương (BMA) là đủ để chẩn đoán vi thể
trong hầu hết các trường hợp(10,6). Tuy nhiên, có
sự khác biệt đáng chú ý và một tương quan
tương đối kém trong việc xác định tỷ lệ phần
trăm của các tế bào plasma tủy xương giữa BMA
và mẫu sinh thiết tủy xương (BMB)(16). Điều này
được giải thích là do đa u tủy xương có thể biểu
hiện từng ổ hoặc do ảnh hưởng của quá trình xơ
hóa tủy làm cho dịch tủy khó hút. Nghiên cứu
của Sanja Stifter ghi nhận tỷ lệ phần trăm
plasmocyte ước tính cao hơn ở mẫu tủy sinh
thiết (50%) so với mẫu tủy hút (29%)(26). Ngoài
việc xác định số lượng plasmocyte, sinh thiết tủy
xương kết hợp hóa mô miễn dịch còn giúp phân
biệt được tế bào plasmocyte phản ứng hay ác
tính. Giải phẫu mô bệnh học tủy xương có thể
cung cấp một số đặc điểm mô học và hình thái
học có thể có ý nghĩa tiên lượng, cũng như cho
biết một số chi tiết về đặc điểm vi môi trường
tủy xương và hoạt động tạo máu của tủy xương.
Các đặc điểm mô bệnh học sinh thiết tủy xương
và vai trò trong chẩn đoán, theo dõi và tiên
lượng bệnh đa u tủy xương sẽ được đề cập trong
phạm vi chuyên đề này.
TỔ CHỨC HỌC
Bước đầu tiên trong quá trình chẩn đoán mô
bệnh học là để phân biệt tăng plasmocyte là
plasmocyte phản ứng hay plasmocyte ác tính.
Trong tăng plasmocyte phản ứng, các tế bào
tương bào (plasmocyte) nằm trong các cụm tế
bào nhỏ theo các khe thường dọc theo các mạch
máu. Tế bào plasmocyte ác tính (tế bào đa u tủy)
thường hiện diện thành đám, các nốt lớn hơn(20).
(Hình 1)
Hình 1. Sinh thiết tủy xương Đám tế bào tương
bào tụ lại ở vùng tế bào mỡ và tế bào tạo máu. Hoạt
động hủy cốt bào trong xương xốp
Có ba kiểu tổn thương chính trong đa u tủy:
- Theo gian kẽ, có hoặc không có tích tụ
* Bệnh viện Truyền máu – Huyết học
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Ngô Ngọc Ngân Linh, ĐT: 0902 778 222, Email: nganlinhnn@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Tổng Quan
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 79
tương bào ở bè xương (paratrabecular). Thấm
nhập mô mỡ ở khoảng kẽ và giữa các tế bào tạo
máu liên quan đến quá trình diễn tiến âm thầm
và hủy xương từ từ. Vị trí của tế bào plasma nằm
xung quanh các mạch máu nhỏ thấy trong cả
trường hợp ác tính cũng như các trường hợp
tăng plasmocyte phản ứng.
- Tập trung thành nốt hoặc trong các dải
rộng. Thâm nhiễm dạng nốt có tương quan
với tổn thương hủy xương đa ổ và bệnh tiến
triển(20,26). Hiếm khi chỉ thấy xâm nhập chỉ
dạng nốt.
- Xâm nhập thành đám lớn lan tỏa trong tủy
hoặc thâm nhiễm sarcomatous gặp ở các trường
hợp hủy xương lan tỏa với mật độ xương mỏng
đi. Kiểu xâm nhập này được một số tác giả cho là
có tiên lượng xấu nhất(20,22,26).
HÌNH THÁI TẾ BÀO
Hình thái tế bào của tế bào plasmocyte là
quan trọng và có thể có ý nghĩa tiên lượng.
Trong khi ở một số bệnh nhân ghi nhận một
hình thái tế bào plasma đồng nhất, một số khác
ghi nhận biểu hiện hình thái tế bào plasma
không đồng nhất trong các giai đoạn khác nhau
của bệnh.
Có thể gặp ba kiểu hình thái tế bào tương
bào khác nhau: tế bào trưởng thành, tế bào
trung gian và tế bào chưa trưởng thành hay tế
bào plasmablastic (hình 2 và 3). Các tế bào
plasma chưa trưởng thành có liên quan với sự
tăng sinh nhanh và là yếu tố tiên lượng xấu(22), ví
dụ như các trường hợp tế bào plasma có nhân đa
bội phân thùy nhiều.
Hình 2. Ba dạng khác nhau của tương bào; A
trưởng thành, B trung gian. H&E 600x
Hình 3. Ba dạng khác nhau của tương bào; Kiểu
Plasmablastic. H&E 600x.
Những đặc điểm tế bào tương bào không
bình thường như thế này không được đưa vào
các tiêu chí phân loại hình thái học hiện tại, mặc
dù thực tế rằng một tế bào bất thường hình thái
plasma có thể chỉ ra sự hiện diện của đa u tủy,
không phụ thuộc vào tỷ lệ phần trăm của các tế
bào plasma. Ghi nhận của các hình thái biến thể
của các tế bào ung thư trong huyết tương, liên
quan đến tiên lượng kém hơn, là rất quan trọng
để cảnh báo các bác sĩ lâm sàng để có thể nhận
biết các khối u rất ác tính tiến triển nhanh.(26) Xét
theo khía cạnh này, ba đặc điểm tế bào học của
các tế bào plasma rất là quan trọng.
Đặc điểm tế bào học của tương bào
Sự đa hình của hạt nhân
Đặc điểm này hiếm khi xảy ra trong các tế
bào plasma phản ứng và là một chỉ dấu tốt
hướng đến bệnh ung thư. Các tế bào bình
thường cho thấy kiểu hình bánh xe lệch tâm
(eccentric wheel-spoke) của hạt nhân (Hình 4).
Trong bệnh ác tính, kiểu hình này có thể thay đổi
thành nhiều hình dạng khác nhau và có thể thấy
hình ảnh hạt nhân rất lớn. Tế bào plasmocyte ác
tính có thể biểu hiện một số rối loạn hình thái ví
dụ hình ảnh các tế bào có nhân tròn có hình
bánh xe nan hoa, thường lệch về một phía của tế
bào, nguyên sinh chất rất rộng, ưa base mạnh, có
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 80
thể có hình “ngọn lửa”. Một số sự khác biệt ở hạt
nhân được mô tả trong y văn là: sự lõm tế bào
chất vào trong hạt nhân, sự lõm của màng hạt
nhân vào bên trong, ghi nhận thể Dutcher, hạt
nhân phân thùy và nhiều hạt nhân (Hình 5). Sự
phân thùy của hạt nhân và hình ảnh phân bào là
biểu hiện của bệnh tiến triển về mặt lâm
sàng(8,19,24,30)) Tương bào đa nhân cho chúng ta biết
hoạt động ribosome hơn là cho thấy sự chưa
trưởng thành của tế bào và hoạt động tăng sinh
tế bào.
Hình 4. Các tế bào u tủy (tương bào ác tính) phân
biệt với tế bào bình thường bởi sự hiện diện của hạt
nhân rất lớn, thường lệch tâm.
Hình 5. Sự đa hình của hạt nhân; A Hạt nhân to nổi
bật, B Nhiều nhân. C Hạt nhân phân thùy. H&E
600x.
Tế bào chất
Tế bào plasmocyte có bào tương lớn và chứa
mạng lưới nội bào dày đặc, mang nhiều hạt; đây
chính là nơi tổng hợp kháng thể, protein màng
và protein tiết. Tương bào cũng có phức hợp
Golgi đặc biệt nằm quanh nhân là nơi các phân
tử kháng thể được chuyển thành thể dạng cuối
cùng trước khi được bài tiết ra ngoài.
Ở tế bào plasmocyte ác tính, thường ghi
nhận được sự bất thường của tế bào chất qua
những thay đổi hình ảnh khi nhuộm tế bào
chất.. Tế bào chất của các tế bào ác tính có
chứa các globulin miễn dịch được tạo thành ở
lưới endoplasmatic dưới nhiều hình thức khác
nhau: thể Russell, các tế bào giống dấu ấn
vòng nhẫn, các tế bào nhỏ, các tế bào Mott, các
tế bào flaming (tế bào chất là eosinophilic hoặc
có những vùng rực đỏ như “ngọn lửa” với
màu eosinophilic), các tế bào giống nòng nọc,
tế bào giống Gaucher có thể phân biệt
được(11,13,27) (hình 6).
Hình 6. Sự bất thường của tế bào chất ; A. Thể
Russel, B. Thể Gaucher , C. Các TB giống nòng
nọc. H&E 600x.
Sự không đồng bộ giữa nhân và tế bào chất
Điều này có thể gặp khi các hạt nhân chứa
nhiều hạnh nhân nổi bật hoặc có sự lan tỏa của
sợi nhiễm sắc và tế bào chất có vẻ trưởng thành
bình thường (hình 7). Tiên lượng liên quan rõ rệt
đến sự thay đổi của hạt nhân và sự mất đồng bộ
giữa nhân và nguyên sinh chất. Không có giá trị
tiên lượng nếu chỉ biểu hiện sự bất thường tế bào
chất đơn độc(2)
Theo Frisch và Bartl, các biến thể trong hình
thái tế bào plasma có thể được tóm tắt thành ba
lớp tiên lượng dựa trên kiểu tế bào plasma
chiếm ưu thế: Marschalko hoặc độ ác thấp (tế
bào nhỏ), trung gian (cắt, đa hình, không đồng
bộ) và độ ác cao (dạng blastic).(13) Các hình thái
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Tổng Quan
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 81
plasmablastic của tế bào ung thư xảy ra ở
khoảng 10-15 % bệnh nhân đa u tủy trong giai
đoạn đầu của bệnh, nhưng tỷ lệ này có thể tăng
vào thời điểm tái phát tủy xương và nổi bật
trong tái phát ngoài tủy. Rõ ràng điều này có liên
quan đến tiên lượng rất xấu(4,9,12,13,15,20,24).
Hình 7. Sự không đồng bộ giữa Nhân & Nguyên
sinh chất. H&E 600x.
VI MÔI TRƯỜNG TỦY XƯƠNG
Các tế bào B đơn dòng ác tính biệt hóa
thành tế bào plasma bởi sự tương tác với các tế
bào mô đệm, các tế bào nội mô, với matrix
ngoại bào và bởi sự tương tác với các tế bào
plasma ác tính khác.
Các phân tử kết dính được chứng minh là có
tầm quan trọng trong đa u tủy xương và đóng
một vai trò trong việc kết nối và tương tác của tất
cả các tế bào và các thành phần khác. Các tế bào
đa u tủy biểu hiện một thụ thể đặc hiệu cho
interleukin-6, đó là yếu tố tăng trưởng và yếu tố
sống còn đối với các tế bào đa u tủy. Interleukin-
6 được sản xuất bởi các tế bào trong vi môi
trường tủy xương và là một trong những ví dụ
chính về tầm quan trọng của sự tương tác của
các vi môi trường và các tế bào khối u trong
bệnh đa u tủy(4,7,21,23). Tế bào mô đệm và ma trận
ngoại bào được kích hoạt bởi các tế bào khối u và
cũng sản xuất các cytokine, bao gồm IL-6, VEGF,
IGF1, SDF-1 và TNF-α, yếu tố tăng trưởng quyết
định, sự biệt hóa và độ bám dính của khối u và
do đó điều tiết sự sống còn của khối u, sự trưởng
thành, di cư và sự phát triển(14,17,18). Syndecan-1,
một trong số các phân tử kết dính quan trọng
nhất trong tế bào u tủy, tích tụ trong tủy xương
bệnh nhân đa u tủy và nồng độ cao của
syndecan-1 trong huyết thanh được xem là một
chỉ số tiên lượng xấu(29). Các phương pháp điều
trị thuốc mới (như Bortezomib, Thalidomide hay
các thuốc điều hòa miễn dịch khác) có tác dụng
trúng đích trên tế bào đa u tủy cũng như tác
dụng trên cả vi môi trường của tủy xương. Vì thế
mà điều trị thuốc mới có thể khắc phục vấn đề
kháng thuốc(3,18).
Về giải phẫu bệnh, thay đổi khác trong
xương và tủy xương là chỉ số hủy cốt bào cao,
hình ảnh xơ hóa, suy tủy, rối loạn tạo máu, thoái
hóa bột, mạch và tân sinh thứ phát (hình 8 và 9).
Hình 8. Dự hậu tiên lượng xấu: Xơ hóa thô.
Gomori 600x
Hình 9. Dự hậu tiên lượng xấu: Hủy cốt bào.
H&E 200x.
Các dòng tế bào sinh máu bình thường như
hồng cầu, bạch cầu, mẫu tiểu cầu có thể bình
thường, giảm sinh hoặc rối loạn hình thái nhẹ.
Mục tiêu trị liệu mới có thể nhắm vào sự tương
tác của các tế bào ác tính và vi môi trường của
tủy xương(17). Sự không thống nhất giữa số lượng
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 82
tế bào plasmocyte ghi nhận trên tủy hút và trên
sinh thiết tủy có thể xảy ra do xơ hóa hoặc thâm
nhiễm dạng nốt, làm cho khó hút tương bào
trong dịch tủy hút. Sự phát triển của xơ hóa
nhiều thường dự báo dự hậu tiên lượng xấu.
Ngoài ra, biểu hiện của nhiều hủy cốt bào hấp
thu trong xương là tiên lượng cho khối u tiến
triển(1,28). Điều trị với bisphosphonate giúp giảm
sự tái hấp thu hủy cốt bào và kích thích sự sửa
chữa tạo cốt bào(13). Những thay đổi không đặc
hiệu do điều trị có thể là mất đi sự xâm nhập
mức độ nặng, tăng lymphocyte và tế bào u hạt
trong tủy xương.
HÓA MÔ MIỄN DỊCH
Có thể phân biệt một trường hợp Đa u tủy
Plasmablastic với một u lymphô thể
immunoblastic hoặc ung thư biểu mô không biệt
hoá. Để chẩn đoán phân biệt, nhuộm hóa mô
miễn dịch là rất hữu ích. Trong hầu hết các
trường hợp, tương bào ác tính trong đa u tủy sản
xuất paraproteins đại diện cho globulin miễn
dịch chuỗi nặng hoặc globulin miễn dịch chuỗi
nhẹ. Trong 60% bệnh nhân, các paraprotein tiết
ra là IgG; IgA được tiết ra ở 20% bệnh nhân,
trong khi ở 15-20% bệnh nhân, chỉ có chuỗi nhẹ
được sản xuất. Các globulin miễn dịch đơn dòng
có thể được phát hiện trong huyết thanh và/hoặc
phát hiện protein Bence-Jones trong nước tiểu.
Trên mẫu sinh thiết tủy chúng có thể được nhìn
thấy nhờ kỹ thuật hóa mô miễn dịch. Trong bạch
cầu cấp dòng tương bào nguyên phát, các tế bào
thường chỉ biểu hiện chuỗi nhẹ, IgE hoặc IgD và
số lượng tuyệt đối của các tế bào này tương quan
với hoạt động của bệnh.
Ngoài các globulin miễn dịch thuộc tế bào
chất, tế bào u tủy thường thể hiện nhiều
marker trên màng mà những marker này có
thể phát hiện qua nhuộm hóa mô miễn dịch.
Trong giai đoạn đầu của bệnh CD38, CD79a,
CD56, CD54 và CD40 có thể được tìm thấy.
Thông thường, các dấu ấn pan-B, CD19, CD20
(L26) và CD45, là âm tính. Đặc biệt là sau khi
điều trị, đánh giá immunophenotypic là rất
quan trọng, vì một kiểu hình polytypic bình
thường của các tế bào plasma sau khi điều trị
dự báo thời gian sống không bệnh tiến triển
kéo dài(25). Tại thời điểm tái phát tủy, biểu hiện
của CD28 có thể xuất hiện và tại thời điểm tái
phát ngoài tủy CD56 có thể bị mất(4).
Người ta ngày càng nhận thức nhiều hơn
về tầm quan trọng của các phân tử kết dính
trong sinh bệnh học bệnh lý ĐUTX. Các phân
tử giống như CD44, CD56, CD58, VLA4,
VLA5, RHAMM và CD138 (syndecan-1) đóng
một vai trò trong việc dẫn đường, tăng trưởng,
tồn tại và lây lan của tế bào đa u tủy(5). Việc
phát hiện những phân tử này sẽ trở nên ngày
càng quan trọng đối với việc dự đoán tiên
lượng và cung cấp các mục tiêu điều trị mới.
Ki67 (MIB-1) là một kháng nguyên hạt nhân
của các tế bào tăng sinh trong pha-S của chu
kỳ tế bào và có thể giúp chẩn đoán phân biệt
giữa ĐUTX và MGUS, mặc dù chỉ dương tính
trong 1-2% số tương bào trong đa u tủy.
KẾT LUẬN
Sinh bệnh học của bệnh ĐUTX là bất thường
nhiễm sắc thể và sự tương tác giữa tế bào tương
bào và các yếu tố vi môi trường trong tủy xương.
Chẩn đoán xác định ĐUTX cũng như chẩn
đoán phân biệt được thiết lập dựa trên 3 tiêu
chuẩn: sự hiện diện của đỉnh gamma đơn
dòng trong huyết tương hay nước tiểu, sự
tăng sinh tương bào ác tính trong tủy xương
và biểu hiện của tổn thương cơ quan đích.
Trong đó sinh thiết tủy xương hầu như luôn
phải thực hiện, bởi lẽ tiêu chuẩn tăng sinh
tương bào đơn dòng ác tính trong tủy xương
là một tiêu chuẩn rất quan trọng.
Giải phẫu bệnh, dựa chủ yếu vào đặc điểm
tổ chức học và hình thái học và hóa mô miễn
dịch, đóng vai trò quan trọng trong xác định 2
vấn đề cơ bản nhưng là 2 vấn đề chủ chốt: một là
phân biệt tương bào ác tính hay tăng sinh tương
bào phản ứng, hai là xác định tỉ lệ tương bào ác
tính trong tủy xương. Việc xác định tỉ lệ tương
bào ác tính trên mẫu tủy sinh thiết chính xác hơn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Tổng Quan
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 83
so với xét nghiệm tủy đồ trên mẫu tủy hút và kỹ
thuật dấu ấn miễn dịch tế bào (flow cytometry).
Ngoài việc chẩn đoán xác định bệnh, những
đặc điểm mô học, vi môi trường và hình thái học
cũng góp phần trong tiên lượng dự hậu của
bệnh. Tuy nhiên ở khía cạnh xếp giai đoạn và
tiên lượng bệnh, hiện nay khảo sát di truyền học
có vai trò chủ chốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexandrakis MG, Passam FH, Malliaraki N, Katachanakis C,
Kyriakou DS, Margioris AN (2002) Evaluation of bone disease
in multiple myeloma: a correlation between biochemical
markers of bone metabolism and other clinical parameters in
untreated multiple myeloma patients. Clinica Chimica
Acta;325;51-7.
2. Bain BJ, Clark DM, Lampert IA (1996) Bone marrow
pathology, 2nd edn. Oxfort: Blackwell Science.
3. Barlogie B, Epstein J, Selvanayagam P, Alexanian R (1989)
Plasma cell myeloma-new biological insights and advances in
therapy. Blood 73: 865-879.
4. Bataille R, Harousseau J-L (1997) Multiple myeloma. New Eng
J Med 336(23):1657-64.
5. Bayer-Garner IB, Sanderson RD, Dhodapkar MV, Owens RB,
Wilson CS (2001) Syndecan-1 (CD138) immunoreactivity in
bone marrow biopsies of multiple myeloma: shed syndecan-1
accumulates in fibrotic regions. Mod. Pathol. 14: 1052-1058.
6. Blade J, Samson D, Reece D (1998) Criteria for evaluating
disease response and progression in patients with multiple
myeloma treated by high-dose therapy and haemopoietic
stem cell transplantation. Br J Haematol. 102:1115–1123.
7. Bloem A C, Lamme T, Smet de M, et al (1998) Long term bone
marrow cultured stroma cells regulate myeloma tumour
growth in vitro: studies with primary tumour cells and
LTBMC-dependent cell lines. Brit J Haematol;100 (1):166-175.
8. Buss D H, Reynolds G D, Cooper M R (1988) Multiple
myeloma associated with multilobated plasma cell nuclei.
Virchows Archiv B Cell Pathol; 55: 287-92.
9. Carter A, Hocherman I, Linn S, Cohen Y, Tatarsky I (1987)
Prognostic significance of plasma cell morphology in multiple
myeloma. Cancer: 60; 1060-65.
10. Charles KS, Winfield DA, Angel C (2004) Audit of bone
marrow aspirates and trephine biopsies in multiple myeloma -
a single centre study. Clin Lab Haematol. 26:403–406.
11. Dimopoulos M A, Moulopoulos L A, Maniatis A, Alexanian R
(2000) Solitary plasmacytoma of bone and asymptomatic
multiple myeloma. Blood 96:2037-44
12. Fassas AB, Muwalla F, Berryman T et al (2002) Myeloma of
the central nervous system: association with high-risk
chromosomal abnormalities, plasmablastic morphology and
extramedullary manifestations. Br J Haematol 117:103-8.
13. Frisch B, Bartl R (1999) Biopsy interpretation of bone and bone
marrow. Histology and immunohistology in paraffin and
plastic. Ahold, Hodder headline group 1999 second
edition;310-25.
14. Ghia P, Granziero L, Chilosi M, Caligaris-Cappio F (2002)
Chronic B cell malignancies and bone marrow
microenvironment. Cancer Biology 12:149-55.
15. Greipp PR, Leong T, Bennet J M et al (1998) Plasmablastic
morphology-an independent prognostic factor with clinical
and laboratory correlates: Eastern Co-operative Oncology
Group (ECOG) myeloma trail E9486. Blood 91:2501-1207.
16. Handa U, Chhabra S, Mohan H (2009) Plasma cell tumours:
cytomorphological features in a series of 12 cases diagnosed
on fine needle aspiration cytology. Cytopathology. in press.
17. Hayashi T, Hideshima T, Anderson K C. (2003) Review:
Novel therapies for multiple myeloma. Br J Haematol:120; 10-
17.
18. Hideshima T, Anderson K C (2002) Molecular mechanisms of
novel therapeutic approaches for multiple myeloma. Nature
reviews; 2:927-37.
19. Islam A, Noyes S, Henderson E S (1990) A case of aggressive
multiple myeloma with convoluted and multilobated plasma
cell nuclei and no visible nucleoli. Br J Haematol;76(2):306-7.
20. Jaffe E S, Harris N L, Stein H, Vardiman J W (2001) Tumors of
haematopoietic and lymphoid tissues Pathology and Genetics.
World Health Organisation classification of tumours. IARC
Press Lyon.
21. Kuehl W M, Bergsagel P L (2002) Multiple myeloma: evolving
genetic events and host interactions. Nature reviews;2:175-87.
22. Kyle RA et al. (1988) Prognostic factors in multiple myeloma.
Hematological Oncology; 6:125-30
23. Lokhorst H M, Lamme T, Smet de M, et al (1994) Primary
tumour cells of myeloma patients induce interleukin-6
secretion in long-term bone marrow cultures. Blood;
84(7):2269-77.
24. Rajkumar S V, Fonseca R, Lacy M Q et al. (1999) Plasmablastic
morphology is an independent predictor of poor survival after
autologous stem-cell transplantation for multiple myeloma. J
Clin Oncol;17:1551-7
25. San Miguel J F, Almeida J, Mateo G et al (2002)
Immunophenotypic evaluation of the plasma cell
compartment in multiple myeloma: a tool for comparing the
efficacy of different treatment strategies and predicting
outcome. Blood;99:1853-6.
26. Sanja S et al (2010) Combined evaluation of bone marrow
aspirate and biopsy is superior in the prognosis of multiple
myeloma.Diagnostic Pathology, 5:30
27. Van den Tweel JG, Taylor CR, Parker JW, Lukes RJ (1978)
Immunoglobulin inclusions in non-Hodgkin’s lymphomas.
Am J Clin Pathol;69(3):306-13.
28. Yaccoby S, Pearse RN, Johnson CL, Barlogie B, Choi Y, Epstein
J. (2002) Myeloma interacts with the bone marrow
microenvironment to induce osteoclastogenesis and is
dependent on osteoclast activity. Br J Haematol;116(2):278-90
29. Yang Y, Yaccoby S, Liu W et al (2002) Soluble syndecan-1
promotes growth of myeloma tumors in vivo. Blood;100:610-7.
30. Zukerberg L R, Ferry J A, Conlon M, Harris N L (1990) Plasma
cell myeloma with cleaved, multilobated, and monocytoid
Nuclei. Am J Clin Pathol;93: 657-61.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_sinh_thiet_tuy_xuong_trong_chan_doan_va_tien_luo.pdf