Tuy nhiên, đến khi tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế thì các yếu tố của hội
nhập đã tác động rất lớn đến cơ cấu, thành
phần kinh tế. Cho đến nay, thực tiễn đã
chứng minh, kinh tế nông nghiệp không
còn phù hợp để dẫn dắt nền kinh tế phát
triển. Vì thế, chúng tôi cho rằng, trước
hết, cần thiết phải đổi mới tư duy làm
kinh tế và QLKT. Nói cách khác, chúng
ta cần phát triển các lĩnh vực kinh tế mới
như kinh tế tri thức hay kinh tế số. Bởi
đây là các lĩnh vực thu hút nguồn vốn tư
bản mạnh mẽ và rất nhiều quốc gia có nền
kinh tế tiên tiến, hiện đại đều đang áp
dụng triển khai. Mặt khác, trước thành
tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
mang lại, việc giao lưu, buôn bán, hợp tác
với các quốc gia khác ngày càng nhanh
chóng, đơn giản. Vì vậy, chúng ta cần
thiết có chủ trương cụ thể để khai thác, áp
dụng các thành tựu của khoa học công
nghệ để từng bước phát triển nền kinh tế
số tại Việt Nam. Còn đối với nền kinh tế
nông nghiệp truyền thống thì chỉ nên duy
trì trong phạm vi tại các địa bàn, khu vực
vốn có nhiều lợi thế sản xuất. Thiết nghĩ,
có như vậy, chúng ta mới có thể đưa nền
kinh tế Việt Nam từng bước ổn định và
hội nhập quốc tế./.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 498 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò và đặc điểm chức năng quản lý kinh tế của nhà nước Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 52 (02/2019) 37-44 37
VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG QUẢN LÝ KINH
TẾ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
Nguyễn Vinh Hưng*
*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 3/8/2018
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/2/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/2/2019
Tóm tắt: Chức năng quản lý kinh tế là chức năng rất quan trọng trong hệ thống
các chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi lẽ, đây là chức
năng có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến hầu hết các hoạt động của Nhà nước và đồng
thời ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Bài viết
nghiên cứu về vai trò và đặc điểm của chức năng quản lý kinh tế, từ đó, đề xuất một số kiến
nghị nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng quan trọng này.
Từ khóa: pháp luật, kinh tế, quản lý kinh tế, chức năng kinh tế, hội nhập quốc tế.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, “nền kinh tế thế giới
hiện đại ngày càng gắn kết chặt chẽ các
quốc gia với nhau”.1†Hòa cùng dòng chảy
của kinh tế thế giới, Việt Nam đã và đang
là thành viên của các tổ chức và diễn đàn
kinh tế lớn như: ASEAN, APEC, ASEM,
WTO... Mặt khác, nền kinh tế thị trường
của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn
hình thành và phát triển, nên vì thế luôn
đòi hỏi sự điều chỉnh kịp thời, linh hoạt
từ phía Nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu
cho thấy, khác với thời kỳ kinh tế tập
trung chỉ huy trước đây, vai trò và đặc
* Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
1 Phạm Quang Vinh (2011), Giáo trình Kinh tế học Vĩ mô, Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà
Nội, tr. 135.
điểm của chức năng quản lý kinh tế
(QLKT) trong giai đoạn hội nhập quốc tế
đã có sự thay đổi rất lớn. Từ đó, bài viết
nghiên cứu về vai trò và đặc điểm của
chức năng QLKT trong giai đoạn hội
nhập quốc tế nhằm đề xuất một số kiến
nghị để chức năng QLKT phù hợp hơn
với yêu cầu và hoàn cảnh hiện nay.
2. Vai trò của chức năng quản lý
kinh tế
Vai trò của chức năng QLKT thể
hiện ở các nội dung quan trọng như: “giải
phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và
38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh, hình thành đồng
bộ và hoàn thiện các loại thị trường và thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của Việt
Nam”.2*Tuy nhiên, khác với thời kỳ trước
đây, hiện nay, do chịu tác động từ hội
nhập kinh tế quốc tế nên vai trò của chức
năng QLKT đã mở rộng thêm các nội
dung: “chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại
gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ
của nền kinh tế”.3†Đây là sự đổi mới, sáng
tạo trong tư duy làm kinh tế và QLKT của
Việt Nam và điều này mang lại rất nhiều
cơ hội và thuận lợi cho nền kinh tế.
Có thể khẳng định, chức năng
QLKT “là chức năng có tầm quan trọng
đặc biệt của Nhà nước”.4‡Sở dĩ như vậy là
vì chức năng QLKT trực tiếp tác động,
ảnh hưởng đến hầu hết các chủ thể trong
xã hội và cả Nhà nước. Đối với người
dân, kinh tế là vấn đề quan trọng và luôn
là mục tiêu phấn đầu, sự mong muốn của
mỗi người. Với các doanh nghiệp, hầu hết
các loại hình doanh nghiệp đều hoạt động
với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn đối
với Nhà nước, việc điều tiết thu chi, quản
2 Nguyễn Văn Động (chủ biên 2010), Giáo
trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, Nhà xuất bản tư pháp, tr. 115.
3 Nguyễn Văn Động (chủ biên 2010), Giáo
trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, sđd, tr. 116.
4 Nguyễn Minh Đoan (2010), Giáo trình lý
luận về nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, tr. 181.
lý và sử dụng nguồn quỹ ngân sách nhà
nước suy cho cùng đều liên quan đến
các hoạt động kinh tế. Vì vậy, việc Nhà
nước tác động, can thiệp đến chức năng
QLKT cũng đồng nghĩa đã ảnh hưởng
đến hầu hết các hoạt động kinh tế của mọi
chủ thể trong xã hội.
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, không
quốc gia nào có thể phát triển mà không
cần có sự hợp tác, giao lưu về kinh tế với
các quốc gia khác. Để nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển ổn định, bền vững thì
Nhà nước phải sử dụng chức năng QLKT
để định hướng, điều tiết nền kinh tế. Cụ
thể, Nhà nước sẽ “thông qua các công cụ,
đường lối chiến lược, các chính sách,
phương pháp, tạo điều kiện, môi trường
lành mạnh cho các chủ thể, thành phần
kinh tế phát triển”.5§Từ đó cho thấy, chức
năng QLKT giữ vai trò đặc biệt quan
trọng. Bởi lẽ, “kết quả thực hiện chức
năng QLKT của Nhà nước tác động một
cách trực tiếp tới tất cả các mặt của đời
sống xã hội”.6**
3. Đặc điểm chức năng quản lý
kinh tế
Thứ nhất, chức năng QLKT trong
giai đoạn hội nhập quốc tế do cả bộ máy
5 Phan Huy Đường (2012), Quản lý nhà nước
về kinh tế, Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 17.
6 Nguyễn Minh Đoan (2014), Hướng dẫn
môn học Lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà
xuất bản tư pháp, tr. 93.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 39
nhà nước thực hiện trên cơ sở sự phân
công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước từ trung ương xuống địa
phương: về cơ bản, quá trình xây dựng
các chính sách về QLKT được tiến hành
từ việc Quốc hội ban hành Hiến pháp,
luật và các nghị quyết liên quan đến
kinh tế. Đồng thời, Quốc hội quyết định
những vấn đề quan trọng nhất về kinh tế
và cũng chính Quốc hội sẽ thực hành
quyền giám sát tối cao các hoạt động
của Nhà nước và các chủ thể trong xã
hội.
Còn tại địa phương, Hội đồng
nhân dân các cấp sẽ thực hiện nhiệm vụ
ban hành các Nghị quyết về QLKT tại
địa phương và đồng thời sẽ giám sát
việc thực hiện của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
và mọi công dân liên quan đến hoạt
động kinh tế ở địa phương mình. Ngoài
ra, các cơ quan như Chính phủ, Bộ Tài
Chính, Bộ Công thương, Ngân hàng nhà
nước hay Ủy ban nhân dân các cấp đều
là những cơ quan quản lý hành chính đối
với lĩnh vực kinh tế. Đối với các cơ quan
tư pháp như Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân, trong phạm vi và
quyền hạn, các cơ quan này cũng góp
phần quan trọng vào việc kiểm tra và xét
xử các vi phạm liên quan đến việc các
chủ thể chịu trách nhiệm tổ chức, thực
hiện chức năng QLKT.
7 Nguyễn Vinh Hưng (2015), Thực hiện chức
năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam,
Thứ hai, chức năng QLKT trong
giai đoạn hội nhập quốc tế có nội dung
do pháp luật quy định: Chức năng QLKT
là những hoạt động của Nhà nước liên
quan đến việc tổ chức và quản lý nền kinh
tế. Như vậy, xét về bản chất, chức năng
QLKT cũng giống như các chức năng
quản lý khác của nhà nước và vì thế, nội
dung của chức năng QLKT phải do pháp
luật quy định và điều chỉnh. Nghiên cứu
cho thấy, “nội dung của pháp luật về tổ
chức và QLKT gồm hai bộ phận là pháp
luật nội dung và pháp luật hình thức”.7*
Cụ thể, pháp luật nội dung sẽ quy định các
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể hoạt
động kinh tế. Còn pháp luật hình thức lại
quy định về trình tự, thủ tục để các chủ
thể tham gia có thể thực hiện quyền và
nghĩa vụ của họ.
So với các giai đoạn trước đây, hệ
thống pháp luật liên quan đến QLKT hiện
nay khá đa dạng, phong phú và thường
xuyên có sự điều chỉnh. Ngoài ra, việc mở
cửa thị trường để các nhà đầu tư từ khắp
nơi trên thế giới đến làm ăn, kinh doanh
tại Việt Nam cũng góp phần làm cho hệ
thống pháp luật Đầu tư, luật Doanh
nghiệp, luật Thương mại phải thường
xuyên có sự điều chỉnh để đáp ứng, phù
hợp với tình hình.
Thứ ba, chức năng QLKT trong
giai đoạn hội nhập quốc tế có mục tiêu
cụ thể là điều tiết mọi hoạt động kinh tế
theo pháp luật nhằm đạt được những
Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế - ĐHQGHN, tr. 12.
40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
mục tiêu tổng quát của kinh tế: Về mục
tiêu của quản lý nhà nước đối với nền
kinh tế được phân chia thành: mục tiêu
tổng quát và mục tiêu cụ thể. Theo đó,
mục tiêu tổng quát được xác định căn cứ
vào các tiêu chí chung của nền kinh tế
Việt Nam. Mục tiêu cụ thể được xác
định căn cứ vào mục tiêu chung của
quản lý nhà nước đối với nền kinh tế là
xây dựng, phát triển nền kinh tế tiên
tiến, hiện đại, giàu mạnh và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Thứ tư, chức năng QLKT trong
giai đoạn hội nhập quốc tế được tiến hành
theo những nguyên tắc do pháp luật quy
định: Hoạt động quản lý nhà nước về kinh
tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, được tiến hành bởi tất cả các cơ
quan nhà nước từ trung ương xuống địa
phương dựa trên các nguyên tắc chính trị -
xã hội và các nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật.
Trong đó, các nguyên tắc chính trị gồm:
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong
QLKT, bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân
tộc trong QLKT, tập trung dân chủ.8*Các
nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật gồm: “kết hợp
quản lý theo ngành, chức năng với quản lý
theo địa phương; quản lý theo ngành kết
hợp với quản lý theo chức năng và phối hợp
quản lý liên ngành”.9†
Thứ năm, chức năng QLKT trong
giai đoạn hội nhập quốc tế tiếp nối chức
8 Điều 4, Điều 5 và Điều 6 của Hiến pháp
năm 2013.
9 Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức năng văn
hóa - giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, Luận văn
năng QLKT của Nhà nước Việt Nam từ
các giai đoạn phát triển trước đây: Từ khi
ra đời (năm 1945), Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã đảm nhiệm chức
năng QLKT và kéo dài cho tới năm 1976,
khi Quốc hội chung của cả nước họp
quyết định đổi tên nước và chức năng
QLKT chính thức được chuyển thành
chức năng QLKT của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Trong suốt giai đoạn này và kéo dài cho
đến trước Đại hội Đảng VI (12/1986),
chức năng QLKT được Nhà nước định
hướng phát triển kinh tế tập trung chỉ huy
(kinh tế quan liêu bao cấp). Kể từ Đại hội
Đảng VI, nhận thức được các khó khăn
của nền kinh tế và trước xu thế phát triển
mới, Đảng và Nhà nước chủ trương thay
đổi cơ chế QLKT từ kinh tế tập trung chỉ
huy sang thành kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Sau này, tổng kết
sau 30 năm đổi mới đã chứng minh cho
sự thay đổi đúng đắn và hợp lý của Đảng,
Nhà nước: “trong hơn 30 năm qua (1986
- 2017), tốc độ tăng trưởng kinh tế nước
ta, tuy có sự dao động nhất định, song vẫn
ở mức cao hơn trung bình khu vực và thế
giới với mức tăng bình quân cả thời kỳ
gần 7%/năm. Nếu như giai đoạn 1986 -
1990, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta
chỉ đạt 4,4%/năm, thì đến năm 2016 là
6,21% và năm 2017 là 6,81%”.10‡
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, tr. 11.
10 Báo điện tử Tạp chí công thương (2019),
Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh
tế của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 41
Những năm gần đây, cùng với
việc Việt Nam ra nhập hàng loạt sân chơi
kinh tế lớn của khu vực và thế giới, chức
năng QLKT hiện nay vẫn đang từng bước
được điều chỉnh đề phù hợp với yêu cầu,
hoàn cảnh và tình hình mới. Tuy nhiên,
có thể thấy rằng, chức năng QLKT hiện
nay vẫn đang được kế thừa và phát triển
từ những nền tảng ban đầu. Đồng thời với
đó, hiện nay, Nhà nước đã có một hệ
thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh về
QLKT và vẫn không ngừng hoàn thiện,
bổ sung bằng những quy định mới, để phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, chức năng quản lý kinh
tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế có
đối tượng tác động là các quan hệ kinh
tế cơ bản và quan trọng nhất liên quan
tới kinh tế: Những lĩnh vực quan hệ kinh
tế chủ yếu mà Nhà nước tác động thông
qua việc thực hiện chức năng QLKT rất
đa dạng, phong phú và phức tạp. Tuy
nhiên, trước sức ép từ hội nhập kinh tế
quốc tế thì các lĩnh vực kinh tế trọng yếu
như ngoại thương, xuất nhập khẩu, đầu
tư, tài chính, ngân hàng, chứng khoán,
bất động sản được quan tâm, chú ý
hơn cả.
Thứ bảy, chức năng quản lý kinh
tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế
được thực hiện dưới những hình thức và
bằng các phương pháp nhất định: Hình
trường, nguồn truy cập:
tuu-hon-30-nam-doi-moi-tu-duy-kinh-te-
thức thực hiện chức năng QLKT là biểu
hiện bên ngoài hoạt động của Nhà nước
trong lĩnh vực kinh tế. Thông thường,
Nhà nước thực hiện chức năng QLKT
dưới các hình thức pháp lý và các hình
thức không mang tính pháp lý. Các hình
thức pháp lý được pháp luật quy định cụ
thể về nội dung, thủ tục, trình tự tiến
hành (ví dụ: các hoạt động ban hành văn
bản quy phạm pháp luật (QPPL) về lĩnh
vực kinh tế, ban hành văn bản áp dụng
QPPL về kinh tế, kiểm tra và giám sát
việc thực hiện pháp luật về kinh tế, văn
bản áp dụng QPPL về kinh tế). Về các
hình thức không mang tính pháp lý,
pháp luật quy định thủ tục, trình tự
chung để tiến hành như thủ tục, trình tự
tiến hành hội nghị tổng kết công tác
QLKT, hội nghị, hội thảo khoa học về
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kinh
tế, hội nghị phổ biến kinh nghiệm quản
lý nhà nước đối với lĩnh vực kinh tế
Phương pháp quản lý nhà nước
đối với lĩnh vực kinh tế được hiểu là
cách thức tác động của chủ thể QLKT
tới đối tượng QLKT nhằm đạt được mục
tiêu. Ở cấp độ chung, có các phương
pháp thuyết phục, cưỡng chế, hành
chính và kinh tế. Ở cấp độ cụ thể,
phương pháp quản lý nhà nước đối với
kinh tế là cách thức mà các cơ quan
quản lý nhà nước đối với kinh tế sử
dụng trong khi thực hiện những nhiệm
cua-dang-ve-xay-dung-nen-kinh-te-thi-
truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-
58999.htm , ngày 01/3/2019.
42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
vụ, chức năng cụ thể của mình, đặc biệt
trong việc giải quyết những vấn đề cụ
thể phát sinh trong quá trình QLKT.
Theo nghĩa này, có các phương pháp cụ
thể mang tính tổ chức, kỹ thuật, nghiệp
vụ như phối kết hợp hoạt động giữa các
cán bộ quản lý ở những vị trí khác nhau,
đảm nhận các công việc khác nhau
nhưng đều hướng tới thực hiện nhiệm
vụ chung và nhằm đạt mục tiêu chung.
Thứ tám, chức năng quản lý kinh
tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế
thường xuyên biến đổi về nội dung, hình
thức và phương pháp thực hiện: Cùng với
xu hướng phát triển chung của thời đại và
quốc tế, nền kinh tế Việt Nam luôn luôn
biến đổi. Mặt khác, nhu cầu, đòi hỏi của
xã hội đối với kinh tế ngày càng lớn hơn
trước. Vì thế, chức năng QLKT vẫn
thường xuyên đổi mới, cải tiến cả về nội
dung, hình thức, phương pháp cho phù
hợp.
Thứ chín, chức năng quản lý kinh
tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế được
thực hiện trên cơ sở đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
lĩnh vực kinh tế: Hiến pháp năm 2013
khẳng định Đảng “là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”.11*Vì vậy, các quan
điểm của Đảng về lĩnh vực kinh tế là cơ
sở để Nhà nước thể chế hoá thành pháp
11 Khoản 1, Điều 4 của Hiến pháp năm
2013.
12 Nguyễn Vinh Hưng (2018), Nguyên tắc,
hình thức và phương pháp thực hiện chức
năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam
luật, tức là thành những quy tắc xử sự
chung và được bảo đảm thực hiện bằng
sự cưỡng chế nhà nước. Khi đã có pháp
luật đòi hỏi Nhà nước phải điều chỉnh
chức năng QLKT theo nội dung của
pháp luật thì mới đạt được các mục tiêu
của kinh tế.
4. Kiến nghị
Hiện nay, “hội nhập kinh tế quốc
tế và toàn cầu hóa đang là xu hướng phát
triển tất yếu của mọi quốc gia”.12†Khi
Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế thì
yếu tố hội nhập đầu tiên và chịu tác động
mạnh nhất luôn là kinh tế. Vì thế, chức
năng QLKT trong giai đoạn hội nhập
quốc tế luôn đối mặt với các khó khăn,
thách thức. Chính vì vậy, để chức năng
QLKT hoạt động hiệu quả hơn thì cần
thiết xem xét giải pháp sau:
Việt Nam tiến hành xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trên một nền tảng hạ tầng kinh tế
thiếu thốn, khó khăn vì phải trải qua các
cuộc chiến tranh kéo dài. Hơn nữa, “Việt
Nam xưa nay là một xứ nông nghiệp
một xã hội chỉ chuyên sản xuất về nông
nghiệp”.13‡ Suốt thời kỳ phong kiến, “nền
kinh tế Việt Nam kéo dài trong tình trạng
tự nhiên, tự cấp, tự túc. Ở đó, nông nghiệp
là nền tảng kinh tế, công thương nghiệp
phát triển phụ thuộc vào nông nghiệp và
giai đoạn hội nhập quốc tế, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật, số 04, tr. 3.
13 Lê Tài Triển, Nguyện Vạng Thọ, Nguyễn
Tân (1972), Luật Thương mại Việt Nam dẫn
giải, Nhà xuất bản Sài Gòn Kim lai ấn quán,
Quyển I, tr. 3.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 43
là hoạt động kinh tế phụ trợ cho nông
nghiệp. Tầng lớp công thương chuyên
nghiệp còn quá ít so với dân cư cả
nước”.14*Với “hạ tầng cơ sở” là nền kinh
tế phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông
nghiệp nên “thượng tầng kiến trúc” của
xã hội suốt “thời kỳ Bắc thuộc và thời kỳ
các triều đại phong kiến, các tư tưởng
pháp luật thống trị ở Việt Nam là tư tưởng
pháp luật phong kiến, phản ánh tồn tại xã
hội của xã hội phong kiến với nền sản
xuất nông nghiệp lạc hậu, phân tán, manh
mún”.15†Chính vì thế, suốt một thời gian
dài, Việt Nam chỉ quan tâm phát triển
nông nghiệp và xác định kinh tế nông
nghiệp là lĩnh vực chủ đạo của nền kinh
tế.
Tuy nhiên, đến khi tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế thì các yếu tố của hội
nhập đã tác động rất lớn đến cơ cấu, thành
phần kinh tế. Cho đến nay, thực tiễn đã
chứng minh, kinh tế nông nghiệp không
còn phù hợp để dẫn dắt nền kinh tế phát
triển. Vì thế, chúng tôi cho rằng, trước
hết, cần thiết phải đổi mới tư duy làm
kinh tế và QLKT. Nói cách khác, chúng
ta cần phát triển các lĩnh vực kinh tế mới
như kinh tế tri thức hay kinh tế số. Bởi
đây là các lĩnh vực thu hút nguồn vốn tư
bản mạnh mẽ và rất nhiều quốc gia có nền
kinh tế tiên tiến, hiện đại đều đang áp
dụng triển khai. Mặt khác, trước thành
tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
14 Nguyễn Trí Dĩnh, Phạm Thị Quý (2007),
Giáo trình lịch sử kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh
tế Quốc dân, tr. 285.
mang lại, việc giao lưu, buôn bán, hợp tác
với các quốc gia khác ngày càng nhanh
chóng, đơn giản. Vì vậy, chúng ta cần
thiết có chủ trương cụ thể để khai thác, áp
dụng các thành tựu của khoa học công
nghệ để từng bước phát triển nền kinh tế
số tại Việt Nam. Còn đối với nền kinh tế
nông nghiệp truyền thống thì chỉ nên duy
trì trong phạm vi tại các địa bàn, khu vực
vốn có nhiều lợi thế sản xuất. Thiết nghĩ,
có như vậy, chúng ta mới có thể đưa nền
kinh tế Việt Nam từng bước ổn định và
hội nhập quốc tế./.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo điện tử Tạp chí công thương
(2019), Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tư
duy kinh tế của Đảng về xây dựng nền kinh
tế thị trường, nguồn truy cập:
tuu-hon-30-nam-doi-moi-tu-duy-kinh-te-
cua-dang-ve-xay-dung-nen-kinh-te-thi-
truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-
58999.htm , ngày 01/3/2019.
2. Nguyễn Trí Dĩnh và Phạm Thị Quý
(2007), Giáo trình lịch sử kinh tế, Đại học
Kinh tế Quốc dân, Nxb Đại học Kinh tế Quốc
dân.
3. Nguyễn Văn Động chủ biên
(2010), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước
và pháp luật, Nxb Tư pháp.
4. Nguyễn Minh Đoan (2010), Giáo
trình lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb
Chính trị quốc gia.
15 Nguyễn Minh Đoan (2011), Ý thức pháp
luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 52 -
53.
44 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
5. Nguyễn Minh Đoan (2011), Ý thức
pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia.
6. Nguyễn Minh Đoan (2014),
Hướng dẫn môn học Lý luận nhà nước và
pháp luật, Nxb Tư pháp.
7. Phan Huy Đường (2012), Quản lý
nhà nước về kinh tế, Đại học Kinh tế -
ĐHQGHN, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức
năng văn hóa - giáo dục của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
9. Nguyễn Vinh Hưng (2015), Thực
hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường
Đại học Kinh tế - ĐHQGHN.
10. Nguyễn Vinh Hưng (2018),
Nguyên tắc, hình thức và phương pháp thực
hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế, Dân
chủ và pháp luật, số 04.
11. Quốc hội, Hiến pháp năm 2013.
12. Lê Tài Triển, Nguyện Vạng Thọ
và Nguyễn Tân (1972), Luật Thương mại Việt
Nam dẫn giải, Nxb Sài Gòn Kim lai ấn quán,
Quyển I
13. Phạm Quang Vinh (2011), Giáo
trình Kinh tế học Vĩ mô, Đại học kinh tế - Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Địa chỉ tác giả: Khoa Luật - Đại học Quốc
Gia Hà Nội
Email: nguyenvinhhung85@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_va_dac_diem_chuc_nang_quan_ly_kinh_te_cua_nha_nuoc_v.pdf