Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945

Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945. Cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm rất đặc biệt: Pháp chạy, Nhật hàng, chính phủ thân Nhật tê liệt, triều đình phong kiến nhà Nguyễn bất lực, trong khi đó quân đồng minh chưa vào. Có thể nói đây là thời điểm vô cùng thuận lợi cho cuộc tổng khởi giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Vì vậy các lực lượng vũ trang và quân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đó tận dụng thời cơ “có một không hai” đưa lại để giành chính quyền, và chúng ta đó nhanh chóng bắt tay vào công cuộc chuẩn bị cho công cuôc khời nghĩa. Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra. Tháng 6-1940, nước Pháp bị phát-xit Đức chiếm đóng. Trước tinh hình này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở nước ngoài, có nhận định: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận tiện cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Là người có tầm nhìn chiến lược, có dự cảm thiên tài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho rằng, thời cơ giành độc lập đã đến với vận mệnh dân tộc. Người quyết định trở về nước đầu năm 1941, sau gần 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài .

doc25 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2352 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tộc dân chủ nhân dân là kết quả của những cao trào cách mạng nối tiếp nhau. Đảng đã đề ra được mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể sát hợp xác định đúng động lực và lực lượng cách mạng vạch ra được phương pháp, hình thức đấu tranh phù hợp; đề ra được khẩu hiệu hành động kịp thời, chính xác, kết hợp chặt chẽ khẩu hiệu hành động với khẩu hiệu tuyên truyền; kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức, v.v.. Vì thế mà động viên được mọi tầng lớp nhân dân hǎng hái tham gia phong trào cách mạng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ở miền Nam (1954-1975) là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta đã chỉ rõ: đất nước ta vốn là một Tổ quốc thống nhất và nhân dân ta có truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm bảo vệ bờ cõi và cùng nhau xây dựng đất nước. Tháng 7-1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam còn dưới ách thống trị của đế quốc và bọn tay sai. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, cùng bọn tay sai Ngô Đình Diệm tiếp tục thống trị nhân dân ta ở miền Nam, đất nước tạm thời bị chia cắt. Nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ và bọn tay sai là tiếp tục cuộc cách mạng đã được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng từ đâu nǎm 1930, nhằm hoàn thành sự nghiệp giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc để tiến lên xây dựng CNXH. Đây là sự tiếp nối lịch sử tất yếu. Đại hội Đảng lần thứ III ( 9-1960): " Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là sự tiếp tục các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Ba tơ, tổng khởi nghĩa tháng Tám và cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta trong điều kiện mới của lịch sử". Từ bối cảnh lịch sử chiến đấu và chiến thắng ấy, nhân dân ta miền Nam bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với tư thế người chiến thắng và đã kế thừa được nhiều kinh nghiệm quý báu của CMT8 và kháng chiến chống Pháp. Đó cũng là nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng miền Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong điều kiện đất nước bị chia làm hai miền, phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Đây là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7 nǎm 1954 đến tháng 5 nǎm 1975. Trong suốt thời gian đó việc hoạch định đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng phải phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Từ mục tiêu chung của cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn đề chủ trương, sách lược và phương pháp tiến hành phải phù hợp với đặc điểm trên, đúng sát với điều kiện cụ thể của từng miền. Đồng thời, phải xác định rõ vị trí cách mạng từng miền và mối quan hệ khǎng khít giữa cách mạng hai miền trong thế chiến lược chung của cả nước. Đại hội Đảng lần thứ III của (9-1960), xác định đường lối và vạch ra 2 nhiệm vụ chiến lược: - Tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc. - Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. - Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định: miền Bắc là cǎn cứ địa chung của cách mạng cả nước và sự nghiệp cách mạng XHCN ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển cách mạng cả nước và miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. - Việc xác định đường lối cách mạng được tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng khác nhau ở 2 miền là nét độc đáo chưa có trong lịch sử, là thành công lớn của Đảng ta. Đó là đường lối duy nhất đúng đắn, biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến hành cách mạng XHCN và là hậu phương lớn của cả nước, đã tạo cho cách mạng miền Nam có điều kiện thuận lợi mới khác hẳn các thời kỳ lịch sử trước đây. Đó là một nguyên nhân chủ yếu để cách mạng miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai. Trên thực tế, việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau trên hai miền Nam - Bắc chẳng những không mâu thuẫn, mà lại từng bước đưa cách mạng hai miền cùng phát triển, cùng đi lên trong thế tương hỗ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và chế độ tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hệ thống XHCN thế giới lúc này đang ở thời kỳ phát triển mạnh mẽ, có tác động to lớn tới quá trình phát triển của thế giới, được nối liền từ châu Á sang châu Âu, không ngừng phát triển và củng cố về mọi mặt. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng miền Nam, thì hệ thống XHCN thế giới lúc này nối liền với miền Bắc XHCN của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một thuận lợi chưa bao giờ có đối với cách mạng nước ta. Cuộc đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và hoà bình ở các nước TBCN phát triển rộng khắp và liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó ngày càng thay đổi có lợi cho CNXH, cho lực lượng cách mạng. CNĐQ tiếp tục suy yếu và khó khǎn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở thế tiến công. CMVN đã hoà được vào trào lưu chung của cách mạng thế giới. Thời kỳ này, tuy CNĐQ đã suy yếu nhưng khi nào còn CNĐQ thì vẫn còn có thể xảy ra chiến tranh. Họ tuyệt đối hoá đường lối chung sống hoà bình, đi vào phòng ngự bị động, gây không ít khó khǎn cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt với phong trào GPDT. Trong tình hình đó, nhân dân ta tiến hành giải phóng miền Nam, Đảng và nhân dân ta phải giải quyết thành công mối quan hệ giữa hoà bình và cách mạng. Giải quyết mối quan hệ này, đòi hỏi Đảng ta hết sức sáng suốt và có sách lược đúng đắn. Và thực tế Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ đó, góp phần bảo vệ hoà bình, đồng thời thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên hoàn thành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Khi nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên thế giới tồn tại bốn mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới với các lực lượng tư bản chủ nghĩa thế giới; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc đòi độc lập với các lực lượng đế quốc thực dân; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Đế quốc Mỹ xâm chiếm và thiết lập sự thống trị của chúng ở miền Nam nước ta đã làm nảy sinh và sâu sắc thêm cả bốn mâu thuẫn trên ở miền Nam. Đế quốc Mỹ thực hiện âm mưu xâm lược lâu dài miền Nam, biến nơi đây thành cǎn cứ quân sự của chúng nhằm ngǎn chặn "làn sóng" cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, và chuẩn bị tiến công các nước XHCN. Mỹ tuyên bố chiến tranh ở VN là chiến tranh hệ tư tưởng, giữa hệ tư tưởng cộng sản với hệ tư tưởng "tự do" kiểu Mỹ. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam, đẩy dần các Đế Quốc châu Âu ra khỏi Đông Nam Á, chèn ép quyền lợi của nhiều nước tư bản ở vùng này, càng làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ với các Đế Quốc khác thêm sâu sắc. Đế quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa Thực Dân mới ở miền Nam, chia cắt đất nước ta, làm cho cả dân tộc ta mâu thuẫn gay gắt với chúng, nhân dân ta đã đồng tâm đứng dậy chống Mỹ xâm lược, kiên quyết giành độc lập, thống nhất đất nước. Đế quốc Mỹ cố xây dựng ở miền Nam một GCTS mại bản làm tay sai cho chúng, làm mâu thuẫn giữa GCCN và TB ở miền Nam càng trở nên sâu sắc. Để phục vụ chiến tranh của chúng ở miền Nam, Đế Quốc Mỹ bóc lột GCCN và nhân dân lao động Mỹ, bắt họ sang miền Nam làm bia đỡ đạn để bọn tư bản Mỹ thu những món lợi lớn từ cuộc chiến tranh này. Mỹ còn lôi kéo các nước tay sai vào cuộc chiến tranh miền Nam. Do đó ngày càng mâu thuẫn quyết liệt với tư bản Mỹ, với các nhà cầm quyền Mỹ và GCTS các nước chư hầu Mỹ, làm rung chuyển hậu phương của chúng. Điều đó nói lên rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc đụng đầu lịch sử mang tính thời đại sâu sắc. Chống Đế Quốc Mỹ với chính sách thực dân mới của chúng là điểm mới, mang tính đặc trưng của cách mạng miền Nam lúc này, khác các thời kỳ trước đây của cách mạng nước ta là chống CNTD cũ của đế quốc Pháp. Đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam nước ta, biến nơi đây thành thuộc đia kiểu mới và cǎn cứ quân sự của chúng. Từ đây, đế quốc Mỹ đã thành kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm nhất của nhân dân ta. Từ tháng 7 nǎm 1954, Nghị quyết BCHTW Đảng lần thứ 6 đã xác định: "Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương". Chính sách thực dân mới của Mỹ là con đẻ của CNTB lũng đoạn, của chính sách đế quốc thực dân, là hiện tượng mới, do vậy ta chưa thể hình dung và thấy rõ, đây đủ ngay trong thời gian đầu của cuộc cách mạng miền Nam. Nó ra đời trong cơn tổng khủng hoảng và trước nguy cơ sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đảng ta nhận biết sớm bản chất CNTD mới của Mỹ. Nghị quyết 9 của TW đã chỉ ra: " Đặc điểm chủ yếu của chính sách thực dân là đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị mà thông qua chính quyền tay sai, dùng viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam". Qua thực tiễn đấu tranh với Mỹ, chúng ta ngày càng hiểu đầy đủ bản chất và thủ đoạn của chúng. Về chính trị: Mỹ không thiết lập bộ máy thực dân mà thông qua chính quyền tay sai với chiêu bài quốc gia, dân chủ giả hiệu. Về quân sự: Mỹ tin dùng và ra sức xây dựng đội quân nguy đủ mạnh làm lực lượng chiến đấu chiến lược cho chúng. Với hai mặt như trên, Đế Quốc Mỹ nhầm một ý đồ nham hiểm là khơi sâu và làm đậm nét tính chất nội chiến của cuộc đấu tranh, che đậy bản chất thực dân xâm lược của chúng. Về kinh tế, Mỹ dùng viện trợ làm công cụ chủ yếu để cột giữ chế độ tay sai ở miền Nam đi vào con đường phát triển TBCN, đối lập với miền Bắc, chia cắt lâu dài nước ta. Về VH-XH, chúng du nhập lối sống Mỹ, vǎn hoá Mỹ, hòng làm mất đi tất cả những tinh hoa, truyền thống dân tộc ta. Ngày càng hiểu sâu sắc bản chất và thủ đoạn xảo quyệt của chúng, Đảng và nhân dân ta đã có những chủ trương, phương pháp đấu tranh thích hợp, từng bước đánh bại chúng. Phương pháp cách mạng đúng đắn nhất: là phải kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với quân sự và hình thức đấu tranh chính trị với quân sự. Đó là quy luật cơ bản của phương pháp cách mạng bạo lực ở miền Nam. Quá trình xâm lược và thống trị của đế quốc Mỹ ở miền Nam là quá trình nhất quán thực hiện CNTD mới. Âm mưu xâm lược nước ta của đế quốc Mỹ đã có từ lâu. Song, đến tháng 5- 1954 mới là thời cơ để Mỹ trực tiếp thực hiện âm mưu đồ của chúng. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết. Đế quốc Mỹ phá hoại Hội nghị Giơnevơ. Tổng thống Mỹ Aixenhao đã trắng trợn tuyên bố: "Mỹ không ký Hiệp định Giơnevơ nên không bị ràng buộc bởi Hiệp định". Đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu của chúng sau Hiệp định: nhanh chóng hất cẳng Pháp, độc chiếm quyền thống trị ở miền Nam và Đông Dương; đàn áp phong trào cách mạng và áp đặt CNTD kiểu mới của Mỹ ở miền Nam, chia cắt lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa và cǎn cứ quân sự của chúng ở Đông Nam Á. Sự thật thì Mỹ đã chuẩn bị triển khai mưu đồ này từ trước. Mỹ đã nuôi dưỡng và đào tạo bọn tay sai ngay từ đầu những nǎm 50. Trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký, Đế Quốc Mỹ đã tìm cách ép Pháp đưa Ngô Đình Diệm (tay sai của Mỹ) về giành ghế thủ tướng Nguỵ vào ngày 7-7-1954, mở đầu quá trình Mỹ hất cẳng Pháp và cũng là mở đầu quá trình Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam nước ta. Mỹ lôi kéo một số nước đế quốc và chư hầu lập ra khối SEATO, đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia vào khu vực bảo hộ của khối này. Mỹ xúc tiến việc mua chuộc và tiêu diệt các lực lượng thân Pháp ở miền Nam, tǎng cường viện trợ trực tiếp cho chính quyền Diệm và điều khiển chúng chống phá cách mạng. Ngày 2-12-1954, Mỹ ép Pháp ký kết việc rút quân Pháp khỏi miền Nam và ngày 10-12-1954, thỏa thuận kế hoạch tổ chức huấn luyện quân Nguy theo Mỹ. Ngày 23-10-1955, Diệm tổ chức " trưng cầu dân ý" phế truất Bảo Đại. và lên làm tổng thống, tuyên bố thành lập nhà nước "Việt Nam Cộng Hoà" và đổi "quân đội quốc gia", tay sai của Pháp, thành " quân lực Việt Nam Cộng Hoà", tay sai của Mỹ. Như vậy, với các thủ đoạn ngoại giao, quân sự, chính trị, kinh tế, đế quốc Mỹ đã thực hiện được âm mưu hất cẳng Pháp, độc chiếm miền Nam, triển khai chính sách thực dân mới của chúng ở miền Nam trên các mặt. Từ đây, dân tộc ta phải trực tiếp đương đầu với đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam nước ta. Qua 21 nǎm kháng chiến cực kỳ gian khổ và oanh liệt, dân tộc ta đã toàn thắng đế quốc Mỹ, chặt đứt một mắt xích trong hệ thống chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và đẩy CNTD kiểu mới của Mỹ thêm một bước suy yếu và khủng hoảng; thực hiện được nguyện vọng thiêng liêng là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và bảo vệ hoà bình thế giới. Luôn tìm cách kiềm chế đế quốc Mỹ để tránh thế khó khǎn bất lợi và thắng chúng một cách có lợi nhất là một chủ trương nhất quán của Đảng ta. Chủ trương đó dựa trên cơ sở phân tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả nǎng hành động của đế quốc Mỹ trong các mối quan hệ quốc tế đương thời; mặt khác thấy rõ thế và lực cùng khả nǎng phát triển của ta. Trước hết, tránh những khó khǎn, bất lợi sớm phải đụng đối với một kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần, mà lực lượng của ta còn hạn chế. Chúng ta có chính nghĩa và đang ở thế phát triển, nên có khả nǎng tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong nước và tranh thủ được các lực lượng dân chủ và hoà bình trên thế giới, có khả nǎng ngǎn chặn, phá tan những âm mưu và hành động chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là phi nghĩa, không thể lừa bịp được mãi nhân dân và Quốc hội Mỹ. Nước Mỹ tuy giàu có bậc nhất thế giới, song không phải bọn xâm lược Mỹ muốn huy động bao nhiêu lực lượng vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta cũng được. Mỹ có chiến lược toàn cầu phản cách mạng, nhưng không phải lực lượng của Mỹ ở đâu cũng mạnh, chúng cũng phải tự kiềm chế.tĐầu những nǎm 40, đế quốc Mỹ đã có âm mưu xâm chiếm Việt Nam, nhất là từ đầu những nǎm 50 thì Mỹ triển khai ráo riết. Phân tích đúng âm mưu của Mỹ, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân kiên quyết đứng lên làm Cách mạng tháng Tám nǎm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương, cũng như đánh bại thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ trong kháng chiến 9 nǎm, nên đã kiềm chế và chặn đứng Mỹ đưa quân, kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta. Sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam nước ta, chúng thiết lập chế độ thực dân mới và dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Chế độ Mỹ - Diệm đàn áp dã man phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam. Nhân dân ta không chịu khuất phục đã vùng lên chống lại chúng, Đảng ta đã ra Nghị quyết 15 (1-1959) về cách mạng miền Nam. Nghị quyết ra đời tuy có phần muộn, nhưng cũng đã kịp phát động quần chúng đấu tranh, đi tới cao trào đồng khởi khắp miền Nam. Phong trào đồng khởi đã đưa cách mạng miền Nam "từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công", là sự sáng tạo cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam, mở đâu cuộc chiến tranh cách mạng từ thấp lên cao, vừa tầm, vừa sức của lực lượng cách mạng miền Nam mới nổi dậy và đã kiềm chế được đế quốc Mỹ sớm đưa quân vào miền Nam, tránh được những khó khǎn, bất lợi của cách mạng miền Nam trong buổi ban đầu. Bước vào những nǎm 60, lực lượng so sánh trên thế giới nghiêng hẳn về phía cách mạng và hòa bình. Khả nǎng ngǎn chặn chiến tranh thế giới ngày càng nhiều. Chính sách "bên miệng hố chiến tranh" của Mỹ cùng chiến lược quân sự mang tính chất phản công của chúng như "trấn áp ồ ạt", "trả miếng hàng loạt" đã bị phá sản. Để thích ứng với tình hình, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược quân sự mới vừa có tính chất tiến công, vừa có tính chất phòng ngự. Đó là chiến lược "phản ứng linh hoạt" với ba loại chiến tranh: "chiến tranh thế giới", "chiến tranh cục bộ", và "chiến tranh đặc biệt". ở miền Nam nước ta từ khi có Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã thực hiện "chiến tranh đặc biệt" nhằm ba mục đích: - Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách thực dân mới; - Xây dựng cǎn cứ quân sự, chuẩn bị tiến công phe xã hội chủ nghĩa; Ngǎn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam á. Thực hiện ba mục đích trên, đế quốc Mỹ muốn khắc phục những mâu thuẫn đang tồn tại ở miền Nam Việt Nam: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa với lực lượng đế quốc chủ nghĩa, và mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp. Nhưng trên thực tế, Mỹ thực hiện "chiến tranh đặc biệt" chống lại nhân dân ta lại càng làm sâu sắc những mâu thuẫn đó. Đảng ta chỉ ra rằng, cách mạng miền Nam đề ra nhiệm vụ chống đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình trung lập là để chủ động kiếm chế địch trong loại "chiến tranh đặc biệt" và tìm cách hoà hoãn mâu thuẫn giữa lực lượng đế quốc chủ nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa trên vấn đề miền Nam Việt Nam, tranh thủ giai cấp tư sản dân tộc ở miền Nam để chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của các nước dân tộc chủ nghĩa và khơi sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và đế quốc Pháp. Đảng ta khẳng định: Chúng ta cần phải và có khả nǎng kiềm chế và thắng địch trong loại "chiến tranh đặc biệt". Bởi vì, khả nǎng này sẽ tǎng lên nhiều, nếu chúng ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời có sách lược khôn khéo biết lợi dụng hơn nữa mâu thuẫn trong nội bộ địch, giữa đế quốc Mỹ và các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp, giữa Mỹ và bọn tay sai ở miền Nam với bọn tư bản cầm quyền ở Đông Nam á, do đó mà làm cho đế quốc Mỹ khó sử dụng được lực lượng của khối xâm lược Đông Nam á để mở rộng chiến tranh ở miền Nam. Mặt khác, chúng ta phải tranh thủ mở rộng phong trào chống đế quốc Mỹ gây chiến và xâm lược, làm cho nhân dân thế giới, nhất là nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc á, Phi và Mỹ latinh, ủng hộ cách mạng miền Nam ngày càng sâu rộng và thiết thực hơn nữa. Kiềm chế và thắng Mỹ trong "chiến tranh đặc biệt" là chúng ta đã đẩy Mỹ vào thế bị động leo thang chiến tranh từng bước. Nhân dân ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đạo trên của Đảng Đó là quá trình nhân dân ta tiến hành ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự chống địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao để cô lập địch, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ đối với ta trên trường quốc tế, mà đấu tranh chính trị và quân sự ở miền Nam là cơ bản và đấu tranh ngoại giao là rất quan trọng. Thực hiện quá trình đó, nhân dân ta đã phá tan các hành động chiến tranh của Mỹ - ngụy và làm phá sản các chiến thuật tân kỳ của chúng làm cho "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị thất bại. Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là nhằm thực hiện một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, nhằm thiết lập ở miền Nam chế độ thực dân mới. Tất cả các âm mưu, thủ đoạn chính trị và quân sự của Mỹ đêu nhằm mục đích đó. Do vậy, Mỹ thực hiện "chiến tranh đặc biệt", hay trước thất bại nặng nề mà liều lĩnh tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân cũng đều nhằm mục đích đó. Mỹ không thể liều lĩnh đến mức có thể gây phương hại đến chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Điều đó đòi hỏi Mỹ phải có thời gian để xây dựng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của chúng, đánh phá lực lượng cách mạng miền Nam bằng những thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt hơn. Do vậy, Mỹ buộc phải thực hiện chính sách leo thang chiến tranh từng bước. Giữa nǎm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ hoàn toàn phá sản, tổng thống Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, thực hiện "chiến tranh cục bộ" và tǎng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận định: trong khi chiến lược quân sự của địch đã có sự thay đổi và đã vượt khỏi khuôn khổ của "chiến tranh đặc biệt" thì mục đích chính trị của đế quốc Mỹ. ở miền Nam vẫn là tiếp tục thực hiện chính sách thực dân kiểu mới, tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ đưa quân đội viễn chinh vào, miền Nam không những để tǎng cường hoạt động quân sự và còn để tạo điều kiện ổn định ngụy quyền, ra sức xây dựng lực lượng tay sai của chúng về mọi mặt, tức là chúng cố dựng cho được chế độ thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam. Đảng ta phân tích các mối quan hệ giữa Mỹ và các nước, các khu vực trên thế giới: rõ ràng là tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình hình riêng của nước Mỹ không cho phép sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Mỹ thua trong "chiến tranh đặc biệt", buộc phải đưa quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam mở rộng chiến tranh, chúng đã mắc sai lầm đánh giá quá thấp lực lượng của ta. Chúng tính, với "chiến tranh cục bộ" sẽ thay đổi thế bị động của chúng thành thế chủ động và đẩy lực lượng cách mạng từ thế chủ động, thế thắng thành thế bị động và bị tiêu diệt. Phân tích toàn diện thế và lực cách mạng cả nước ta lúc này, Đảng ta kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện đánh bại âm mưu trước mất và lâu dài của địch. Đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng sự bất đông giữa Liên Xô và Trung Quốc để leo thang chiến tranh chống Việt Nam, nhưng cũng chỉ có giới hạn. Vì với cách mạng Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác lúc này vẫn hết lòng ủng hộ và chi viện có hiệu quả. Đồng thời, phong trào độc lập dân tộc, hoà bình, cùng những nhà hoạt động chính trị - xã hội nổi tiếng trên thế giới, đã hình thành trong thực tế mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Như vậy, Đảng ta đánh giá đúng việc Mỹ đưa hàng chục vạn quân vào miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, đánh giá đúng lực lượng và khả nǎng của địch, đồng thời đánh giá đúng lực lượng và khả nǎng to lớn của nhân dân ta ở cả hai miền và các điều kiện quốc tế. Trên cơ sở đó, Đảng đã xác định quyết tâm chiến lược đúng đắn là: tập trung lực lượng cả nước, kiên quyết đánh địch và thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó. Chúng ta động viên lực lượng cả nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày càng sa lầy và thất bại lớn, đi tới giành thắng lợi quyết định ở miền Nam. Tuy vậy, Đảng ta cũng chỉ ra là cần phải đề phòng đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra cả miền Bắc, phải xây dựng và bố trí lực lượng sẵn sàng đánh bại chúng ngay từ trận đầu nếu xảy ra. Có đường lối đúng đắn lại được chỉ đạo thường xuyên và kịp thời của Trung ương và các cấp đảng bộ, nhân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã phối hợp nhịp nhàng trong chiến đấu và xây dựng lực lượng, đã làm thất bại tất cả các kế hoạch quân sự của Mỹ - nguỵ, bẻ gẫy tất cả các cuộc phản công của địch, dồn địch vào thế tiến thoái lưỡng nan, trên cơ sở đó ta mở cuộc tiến công chiến lược Xuân 1968, làm phá sản kế hoạch "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã giữ vững được thế thắng, kiềm chế và thắng địch trong "chiến tranh cục bộ" của chúng trên chiến trường miền Nam. Tháng 11-1959, xứ uỷ Nam Bộ quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương. Nghị quyết 15 đi vào cơ sở giữa lúc quần chúng đang sôi sục cǎm thù Mỹ - Diệm, đã bùng lên thành phong trào đông khởi khắp miền Nam. Phong trào đông khởi đã giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đây là một mốc rất quan trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, làm thất bại kế hoạch "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ. Sau Đồng khởi, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ được thế làm chủ của nhân dân. Tháng 1-1961, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết chỉ rõ hướng phát triển của cách mạng miền Nam sau Đồng khởi là chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng, kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng để đưa cách mạng tiến lên. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam sau Đồng khởi là: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt quân sự và chính trị. Bộ Chính trị khẳng định: Cần phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh để tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Dưới ánh sáng chỉ đạo của Nghị quyết Bộ Chính trị, cách mạng miền Nam đã phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Một lực lượng lớn được đưa từ miền Bắc vào cùng lực lượng tại chỗ tạo cho cách mạng miền Nam vững vàng cả về thế và lực. Với thế và lực đó, với phương hướng tiến lên bằng cả lực lượng chính trị và quân sự, bằng sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhân dân ta ở miền Nam đã liên tục tiến công địch, làm phá sản kế hoạch Xtalây Taylơ nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng (1961-1962) và kế hoạch Giônxơn - Mắcnamara cùng mục đích trên thực hiện trong hai nǎm (1964-1965). Đây là quá trình nhân dân miền Nam đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - nguy. Những chiến thắng vang dội và có ý nghĩa bước ngoặt như chiến thắng ấp Bắc (2-1-1963), chiến thắng Bình Giã (12-1964), chứng tỏ sự trưởng thành toàn diện của lực lượng cách mạng, khẳng định thế tất thắng của nhân dân ta, mở ra phong trào thi đua diệt nguy, diệt Mỹ khắp miền Nam. Đến giữa nǎm 1965, quân nguỵ bị đánh tan vỡ từng mảng, ngụy quyền khủng hoảng triển miên, quốc sách "ấp chiến lược" bị phá sản, "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy bị thất bại. Giữ vững thế thắng, thế tiến còng, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh. "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị đánh bại. Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố theo đuổi chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đế quốc Mỹ đã leo thang chiến tranh, tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân ác lệt hơn. Đây là một thử thách quyết liệt có tính chất quyết định thắng bại với cả hai bên tham chiến. Trước chiều hướng đó, tháng 3-1965, Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11. Trên cơ sở phân tích hết sức khách quan các yếu tố của cuộc chiến tranh, Hội nghị đã nhận định: Mỹ sẽ mở rộng chiến tranh, đưa quân vào miền Nam thực hiện "chiến tranh cục bộ" và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc thường xuyên và ác liệt hơn. Trung ương Đảng hạ quyết tâm: quyết thắng địch ở mức cao nhất trong "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch nếu chúng biến chiến tranh ở miền Nam thành "chiến tranh cục bộ" và kể cả khi chúng mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra hai miền Nam - Bắc nước ta. Đây là một dự đoán rất đúng đắn và kịp thời. Tháng 5-1965, Giônxơn tuyên bố đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam. Tháng 9-1965, Bộ Chính trị họp và tháng 12-1965, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 12 bàn về cách mạng miền Nam đã nhận định: Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã từ "chiến tranh đặc biệt" chuyển thành "chiến tranh cục bộ", song về tính chất và mục đích vẫn là nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Hội nghị đã phân tích rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, đề ra phương châm chiến lược của chiến tranh giải phóng miền Nam và những hình thức, biện pháp cụ thể để đánh thắng cả lực lượng Mỹ và nguỵ. Một lần nữa, Đảng ta hạ quyết tâm: quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh. Phải đánh phủ đầu quân Mỹ ngay khi chúng vừa vào miền Nam. Tháng 5-1965, khi quân Mỹ gồm đủ các quân binh chủng hùng hổ kéo vào miền Nam thì tại cǎn cứ Núi Thành, một đại đội thuộc bộ đội tỉnh Quảng Nam đã tập kích tiêu diệt gọn một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, 180 tên chết và bị thương. Đây là trận đầu tiên lực lượng vũ trang cách mạng giáp chiến tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ ở miền Nam. Qua trận Núi Thành, ta hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu của quân Mỹ trên thực tế, và khẳng định ta đánh được Mỹ. Tiếp trận Núi Thành là chiến thắng Vạn Tường, Plâyme... là những trận phủ đầu nặng nề đối với quân Mỹ. Phong trào thi đua diệt Mỹ nở rộ khắp miền Nam. Ngay nǎm 1965, nǎm đầu quân Mỹ tham chiến ở miền Nam, ta đã tiêu diệt 20 vạn quân Mỹ - ngụy. Khí thế chiến thắng này đã tạo đà cho quân dân ta ở miền Nam đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ vào hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Với cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966-1967 thì sự cố gắng cùng sự thất bại của Mỹ đã đến độ cao, bộ mặt xâm lược tàn bạo của chúng đã lộ rõ trước dư luận thế giới, xã hội Mỹ khủng hoảng sâu sắc, chính giới Mỹ phân hoá và mâu thuẫn gay gắt. ở miền Nam, đế quốc Mỹ lâm vào thế thua, thế bị động và khó khǎn; ngược lại, ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi. Tình hình đó cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ mới. Quân và dân ta ở miền Nam đã thực hiện bước chuyển đó bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt khắp nông thôn và thành thị miền Nam vào đầu Xuân 1968. Đây là đòn quyết định đánh bại "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải từng bước xuống thang chiến tranh và đi vào chiều hướng kết thúc cuộc chiến. Tuy vậy, trong bản anh hùng ca Xuân 1968, Đảng ta mắc sai lầm chủ quan, nóng vội, muốn kết thúc chiến tranh khi điều kiện chưa đủ. Bởi vậy, đợt tổng tiến công nổi dậy đầu tiên ta giành thắng lợi vang dội, nhưng các đợt sau ta bị tổn thất nặng nề, làm chậm lại sự phát triển theo chiều hướng trên của cuộc chiến mà thắng lợi thuộc về ta đã rõ. Kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao giành thắng lợi quyết định Phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện cái gọi là học thuyết Níchxơn bằng chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" hòng kéo dài chiến tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Chúng đổ tiền của vào cố xây dựng cho được ngụy quyền và ngụy quân làm xương sống cho "Việt Nam hoá chiến tranh". Mỹ thực hiện ở miền Nam một lúc ba loại chiến tranh: giành dân, bóp nghẹt và huỷ diệt tàn khốc hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó, đồng thời thực hiện ngoại giao xảo quyệt để cản phá ta giành thắng lợi hoàn toàn. Tháng 1- 1970, Trung ương Đảng ta họp Hội nghị lần thứ 18, Hội nghị đã phân tích sâu sắc tính chất thâm độc của chiến lược "Việt Nam hoá" và những mâu thuẫn không thể khắc phục được của nó. Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt cho cách mạng miền Nam là ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao làm thất bại âm mưu "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ. Quân và dân ta đã thực hiện xuất sắc những nhiệm vụ trên và đã giành thắng lợi quyết định. Tận dụng sai lầm của Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia, tháng 4-1970, Hội nghị cấp cao Đông Dương đã họp, hình thành mặt trận thống nhất nhân dân Đông Dương đoàn kết chống Mỹ, củng cố vững chắc thế liên hoàn Đông Dương là một chiến trường, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ ba nước Đông Dương chống Mỹ xâm lược. Mặt trận ngoại giao đã chủ động và phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và chính trị, liên tục tiến công đế quốc Mỹ tại Hội nghị Pari và trước dư luận toàn thế giới. Mũi tiến công quân sự đã giành thắng lợi rực rỡ, thực sự làm đòn xeo cho mũi tiến công chính trị và ngoại giao. Nǎm 1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và Campuchia giành thắng lợi lớn ở XǎmThông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum trên chiến trường Lào và giải phóng phần lớn đất đai cùng 4,5 triệu dân ở Campuchia, chiến thắng đường số 9 -Nam Lào đã mở ra khả nǎng thực tế làm thất bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Níchxơn. Ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam với quy mô lớn, cường độ mạnh, với đủ các binh chủng tác chiến hợp đồng và kéo dài suốt nǎm 1972. Bị thất bại nặng, Mỹ đã "Mỹ hoá" trở lại cuộc chiến tranh, thả mìn các cửa sông, cửa biển và ném bom trở lại miền Bắc, đồng thời thực hiện chính sách ngoại giao xảo quyệt hòng ngǎn cản thắng lợi của ta. Mỹ lật lọng tại Hội nghị Pari và tháng 12-1972, chúng mở cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng suốt 12 ngày đêm. Nhưng cũng như ở miền Nam, cuộc tập kích này của Mỹ đã thất bại nặng nề. Đúng như Đại hội IV của Đảng ta (12-1976) đã nhận định: "Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược nǎm 1972 và chiến công xuất sắc của quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B. 52 vào Hà Nội, Hải Phòng, cuối cùng đã buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi nước ta". Ta đã giành thắng lợi quyết định với đế quốc Mỹ. Từ thắng lợi quyết định tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn . Phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của chúng ở miền Nam, biến miền Nam thành một "quốc gia" thân Mỹ, xoá bỏ chính quyền cách mạng. Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam chưa có ngừng bắn hoàn toàn, chưa có hoà bình thật sự, Mỹ - ngụy vẫn tiến hành bình định và lấn chiếm khắp miền Nam. Tháng 7-1973, Trung ương Đảng đã kịp thời họp Hội nghị lần thứ 21, phân tích rõ tình hình trên, âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ - nguỵ. Hội nghị cũng chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của địch. Hội nghị nhận định thế và lực của cách mạng miền Nam hiện mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào kể từ nǎm 1954 đến đó. Nhưng ta cũng còn nhiều mặt cần nhanh chóng khắc phục, nhất là đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận và xây dựng lực lượng phát triển chưa đều từ sau Hiệp định Pari. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam lúc này là: tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ngụy quyền, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Phương pháp cách mạng bạo lực là nhất quán cả quá trình cách mạng miền Nam đi tới giành thắng lợi hoàn toàn. Nghị quyết 21 của Trung ương giúp các đảng bộ miền Nam kịp thời nhận thức và khắc phục những thiếu sót, lệch lạc từ sau Hiệp định Pari. Nhờ vậy, tình hình chiến trường miền Nam có những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Đầu nǎm 1974, về cơ bản ta đã thu hồi được các vùng giải phóng và vùng tranh chấp bị địch lấn chiếm từ sau Hiệp định Pari và giải phóng thêm được gần nửa triệu dân. Từ giữa nǎm 1974, những điều kiện cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam đang chín muồi. Tháng 10 - 1974, Bộ Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 nǎm (1975-1976). Sau đó Bộ Chính trị làm việc với các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường miền Nam. Tháng 1-1975, Bộ Chính trị nhận định: "Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn, thuận lợi như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc". Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định lấy chiến trường Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm chiến trường và điểm mở đầu cho kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị theo dõi chặt chẽ và chỉ đạo kịp thời các bước tiến quân giành thắng lợi ở các chiến trường miền Nam. Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (từ ngày 10 đến 20-3-1975) đã điểm trúng huyệt vào Buôn Ma Thuột, làm rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược của quân ngụy Sài Gòn, ngụy quyền hốt hoảng cho rút quân chiến lược khỏi Tây Nguyên, làm rối loạn quân ngujy. Ta giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên. Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29-3-1975) đã phá tan âm mưu co cụm về giữ đồng bằng ven biển miền Trung của địch, đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế suy sụp, tan vỡ không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời cơ tổng tiến công và nổi dậy vào sào huyệt cuối cùng của địch: Chiến dịch giải phóng Sài Gòn và Nam Bộ - Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975). 17 giờ ngày 26-4-1975, nǎm quân đoàn của ta mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định, 11 giờ ngày 30-4-1975, quân ta chiếm dinh tổng thống ngy, buộc ngụy quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện. Sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam của nhân dân ta toàn thắng. 3- Sáng tạo nhiều cách đánh, cách thắng đế quốc Mỹ Đánh thắng đế quốc Mỹ bằng phương pháp cách mạng bạo lực của quần chúng. Đây là phương pháp nhất quán của Đảng ta suốt quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nó không ngừng được bổ sung và hoàn thiện trong quá trình cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương đã chỉ rõ: "Ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ", "con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân". Vào bước cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hội nghị trung ương lần thứ 21 lại khẳng định: tư tưởng cách mạng bạo lực là thống nhất của cả quá trình cách mạng miền Nam. Chiến thắng 30-4-1975 chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của phương pháp cách mạng bạo lực của Đảng ta. Bạo lực cách mạng trong cách mạng Việt Nam có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, với hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự và sự kết hợp đấu tranh chính trị với quân sự. Quá trình thực hiện bạo lực cách mạng, nhân dân ta thể hiện sinh động sự kết hợp chặt chẽ giữa ý chí giành độc lập dân tộc với phương pháp cách mạng đúng đắn. ý chí giành cho được độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc là truyền thống thiêng liêng của cả dân tộc ta, là mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. ý chí đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu khẳng định khi cả dân tộc đứng lên làm Cách mạng tháng Tám 1945: Dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do. 21 nǎm sau, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ ở thời điểm quyết liệt nhất, Người lại nói: Không có gì quý hơn độc lập tự do. Để giữ vững và thực hiện được ý chí dó, suốt 21 nǎm lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã vận dụng những giải pháp hết sức mềm dẻo và khôn khéo về chính trị, quân sự, ngoại giao. Do đó, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng ta đã giữ vững được tính độc lập sáng tạo về đường lối cách mạng, đã lãnh đạo tiến hành chiến tranh cách mạng thắng lợi, đồng thời góp phần cùng nhân dân các nước bảo vệ hoà bình thế giới. Một nước nhỏ, dân số không đông, kinh tế còn kém phát triển đã liên tục đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam. Từ khởi nghĩa quần chúng chuyển sang tiến hành chiến tranh cách mạng và kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng . Đây là phương pháp nổi bật trong kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta ở miền Nam được Đảng ta tổng kết và chỉ ra là hướng đi lên của cách mạng miền Nam sau Phong trào Đồng khởi (1960). Bằng cách thức đó, lực lượng cách mạng miền Nam đã đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy, và đã phát triển cao ở các thời kỳ tiếp theo, thể hiện hết sức phong phú, sinh động trong đấu tranh chính trị, quân sự và kết hợp giữa hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự. Về sau lại được kết hợp với hình thức đấu tranh ngoại giao. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sáng ngời chính nghĩa, đó là ưu thế chính trị rất lớn của ta, cũng là điểm yếu cǎn bản của Mỹ - ngụy. Đảng và nhân dân ta đã biết phát huy ưu thế này mà liên tục tiến công địch trên mặt trận chính trị, những "đội quân tóc dài", học sinh, sinh viên, giáo phái... đã tiến công chủ nghĩa thực dân mới bằng chính những luận điệu mị dân của chúng. Đấu tranh chính trị kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao đã tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ trước nhân dân toàn thế giới, hình thành ba tầng mặt trận: trong nước, Đông Dương và thế giới, cùng tiến công đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Từ thực hiện chiến tranh cách mạng chống lại chiến tranh thực dân mới, đồng thời cũng là làm chiến tranh giải phóng, tất yếu phải xây dựng được lực lượng quân sự và đấu tranh quân sự mạnh. Thực tiễn kháng chiến chống Mỹ cho ta thấy không có lực lượng quân sự và đấu tranh quân sự mạnh thì khó lòng đẩy mạnh các mặt đấu tranh chính trị và ngoại giao và không thể có thắng lợi triệt để như mùa Xuân 1975. Mặt trận ngoại giao của ta đã phát huy tính chủ động liên tục tiến công địch, đồng thời phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với mặt trận chính trị và quân sự tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù. Đây là một nét đặc sắc trong lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng ta. Đánh thắng quân viễn chinh Mỹ bằng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Phát động chiến tranh nhân dân chống lại các thế lực xâm lược là truyền thống của dân tộc ta và cũng là đường lối nhất quán suốt 30 nǎm lãnh đạo chiến tranh của Đảng ta chống lại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến tranh nhân dân của ta phát triển tới đỉnh cao. Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân. Nhờ vậy, tuy quân số ta không đông, nhưng lực lượng vũ trang của ta được huy động và bố trí chiến lược đồng đều và rộng khắp, địch ở đâu cũng có thể bị tiến công. Nét đặc trưng của chiến tranh nhân dân Việt Nam là cách đánh địch không chỉ ở ba thứ quân trong lực lượng vũ trang, mà bất cứ ai từ già đến trẻ đều có thể góp sức mình tiến công giặc, góp phần giải phóng quê hương. Cách đánh sở trường, rộng khắp là đánh du kích. Bằng cách đánh này, mà vũ khí thô sơ của ta đã nhiều lần làm cho kẻ thù có vũ khí hiện đại phải chấp nhận thất bại. Kết hợp đánh du kích và đánh chính quy, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng vũ trang và sức mạnh của toàn dân đánh giặc. Hình thức tác chiến trong chiến tranh nhân dân của ta vô cùng phong phú, đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn và sự kết hợp các quy mô tác chiến đó trong từng chiến dịch một cách linh hoạt và sáng tạo, làm cho kẻ địch không thể lường hết được các mũi tiến công của ta. Chiến tranh nhân dân của ta tiến công địch cả bằng quân sự, chính trị và binh vận, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức này, nâng cao hiệu quả chiến đấu của ta lên rất cao. Cả ba vùng miền núi, đồng bằng và đô thị đều có những hình thức tiến công địch phù hợp là nét đặc sắc trong chiến tranh nhân dân của ta. Miền núi lấy tiến công quân sự là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng tiến công cả quân sự và chính trị, và kết hợp hai hình thức đó; ở các đô thị ta tiến công địch bằng chính trị là chủ yếu, đồng thời kết hợp tiến công quân sự với những lực lượng nhỏ, tinh nhuệ vào các sào huyệt của địch đạt hiệu quả chiến đấu cao. 4- Tổ chức và chỉ đạo phối hợp chặt chẽ cách mạng hai miền Đất nước Việt Nam vốn thống nhất, từ kinh tế - xã hội, tiếng nói, tình cảm và truyền thống, cố kết nhau trong một cộng đồng bền vững từ lâu đời mà tồn tại và phát triển. Từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng, khối đoàn kết thống nhất của dân tộc được kế thừa và phát triển , trở thành truyền thống cách mạng. Vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuy mỗi miền có nhiệm vụ cụ thể khác nhau, nhưng đều có chung một mục tiêu là hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhiệm vụ cách mạng hai miền có mối quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy lẫn nhau. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã tổ chức, chỉ đạo sự kết hợp chặt chẽ cách mạng hai miền Nam - Bắc trên nhiều mặt từ chiến lược, sách lược và những nội dung cụ thể. Kết hợp về chiến lược, Đại hội III của Đảng ta đã xác định: "Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta". "Cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước". Và cách mạng hai miền "cùng có một mục tiêu chung là thực hiện thống nhất nước nhà, cho nên quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển". Miền Bắc là hậu phương của tiền tuyến miền Nam, là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi. Vì vậy, bất kể trong tình huống nào, hoà bình hay không có hoà bình, hoặc vừa có hoà bình vừa có chiến tranh, thì nhân dân ta vẫn quyết tâm xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt. Cách mạng miền Nam còn có vai trò tích cực bảo vệ miền Bắc. Đồng bào miền Nam nói: Mỹ đánh miền Bắc một, chúng ta đánh Mỹ gấp mười ở miền Nam. Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong sự kết hợp giữa hậu phương và tiền tuyến, mỗi đòn tấn công mạnh của quân dân ta ở miền Nam có tác dụng trực tiếp đánh bại cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ. Xây dựng lực lượng và tổ chức chiến đấu là lĩnh vực kết hợp phong phú nhất của cách mạng hai miền. Miền Bắc bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời với chất lượng tốt nhất về lực lượng vũ trang, vũ khí, trang bị và mọi nhu cầu thiết yếu cho tiền tuyến miền Nam. Cách mạng miền Nam bên cạnh nhiệm vụ xây dựng lực lượng tại chỗ, đồng thời phải tổ chức, chuẩn bị địa bàn tiếp nhận lực lượng từ miền Bắc chi viện và bảo đảm sự chi viện đó phát huy hiệu quả cao nhất. Trong chiến đấu, cách mạng miền Nam có nhiệm vụ kiềm chế và thắng Mỹ ngay tại chiến trường miền Nam. Thực hiện tốt nhiệm vụ đó, đồng bào ta ở miền Nam đã góp phần tích cực bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đồng bào ta ở miền Bắc vì miền Nam ruột thịt, mỗi người làm việc bằng hai, vừa sản xuất giỏi vừa chiến đấu giỏi. 5- Đoàn kết và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế cao nhất Đoàn kết quốc tế là tư tưởng chiến lược nhất quán và sách lược khôn khéo của Đảng ta. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Tại Hội nghị thành lập Đảng, trong Sách lược vắn tắt của Đảng đã khẳng định: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, lại phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới" . Tư tưởng này là cơ sở cho sự phát triển chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta. Chính sách đó luôn được bổ sung, hoàn thiện và là một nguồn tǎng thêm sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn có của ta, là một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Cách mạng thế giới ở thế tiến công. Chủ nghĩa đế quốc lâm vào tổng khủng hoảng. Các đế quốc bị kiệt quệ sau chiến tranh. Riêng đế quốc Mỹ trở thành giàu nhất và mạnh nhất về kinh tế, tài chính, quân sự và trở thành kẻ thù chung của các dân tộc trên thế giới. Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt ở một số nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện tư tưởng hoà bình chủ nghĩa và chủ nghĩa cơ hội mang màu sắc dân tộc. Trong tình hình đó, chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta nhằm đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta vào thế tiến công chung của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đồng thời cùng nhân dân thế giới đấu tranh giữ vững hoà bình. Chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta lúc này là: tiếp tục tǎng cường sự đoàn kết nhất trí giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa khác, củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta với các nước anh em, đồng thời góp phần tǎng cường sự thống nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống lại chính sách xâm lược và chiến tranh của đế quốc Mỹ. Ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu á, châu Phi và châu Mỹ latinh. Với các nước, chúng ta xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đi đôi với việc xây dựng và tǎng cường quan hệ giữa các chính phủ, cần mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước. Nhờ có chính sách đoàn kết quốc tế đúng đắn lại có sách lược khôn khéo nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta đã giành được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ cả về tinh thần và vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hoà bình, các tổ chức quốc tế và nhiều cá nhân có tên tuổi ở nhiều nước trên khắp thế giới. Đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần đưa sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi. Trong chính sách đoàn kết quốc tế của mình. Đảng ta đặc biệt chú ý xây dựng và củng cố khối đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Trên thực tế, ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã hình thành mặt trận chung chống đế quốc Mỹ xâm lược, phối hợp chặt chẽ trong chiến đấu. Đông Dương thành một chiến trường, cùng chiến đấu và cùng chiến thắng đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng nên có mâu thuẫn với cả thế giới, là kẻ thù chung của nhân dân thế giới. Đó là một cơ sở để nhân dân ta thực hiện trên thực tế mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Chưa bao giờ nhân dân thế giới đến với nhân dân ta nhiều và mạnh mẽ như thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân ta đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận đông đảo, rộng khắp, sôi nổi ở trong nước, trên bán đảo Đông Dương và trên toàn thế giới, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ, kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta và cũng là kẻ thù chung của nhân dân thế giới. Sự giúp đỡ về vật chất của bạn bè trên thế giới là cực kỳ to lớn. Nhân dân ta đã sử dụng vũ khí, trang bị và các phương tiện chiến tranh của các nước anh em và bạn bè giúp đỡ với hiệu quả cao. Đảng ta xác định: "Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính", "nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế", "kể cả nhân dân Mỹ". Thực tiễn đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược đã làm sáng tỏ phương châm đó.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclich su dang.doc