Vấn đề vi phạm hiến pháp trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Một số giải pháp khắc phục những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp Thứ nhất, quán triệt nguyên tắc “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Nội dung này được thể hiện tại Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua cho thấy mô hình tố tụng tại phiên tòa của Việt Nam theo hướng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng, các chứng cứ, tình tiết của vụ án đã được những người tham gia tố tụng trình bày khách quan tại phiên tòa và trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử ra các phán quyết nhằm đảm bảo các phán quyết đó chính xác, đúng pháp luật. Vì vậy, chất lượng xét xử của Tòa án các cấp trong thời gian vừa qua cũng đã được nâng lên, giảm các vụ, việc oan, sai. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo. Cơ quan tư pháp phải quy định chi tiết, cụ thể về tranh tụng tại phiên tòa của tất cả các lĩnh vực xét xử. Thứ hai, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Phải thực hiện và xử lý nghiêm những Thẩm phán, Hội thẩm không độc lập xét xử trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử chứ không chỉ giới hạn bởi “khi xét xử”. Đồng thời, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm trong công tác xét xử và cũng là đảm bảo cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề vi phạm hiến pháp trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 34 1. Một số dấu hiệu vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp Ở Việt Nam, quyền tư pháp chỉ trở thành quyền lực thực tế thông qua các hoạt động cụ thể của các chủ thể xác định. Đây là quá trình chuyển quyền tư pháp được ghi nhận trong các văn bản pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội và hoạt động này được gọi là hoạt VẤN ĐỀ VI PHẠM HIẾN PHÁP TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Lương Văn Tuấn1 Trần Văn Duy2 1 Tiến sỹ, Khoa Luật, Học viện Phụ nữ Việt Nam 2 Tiến sỹ, Viện Từ điển Bách khoa thư Việt Nam Tóm tắt: Việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta nhằm mục đích xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, hoạt động tư pháp vẫn còn nhiều bất cập như việc xác định Tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm chưa được xác định đầy đủ, chưa có cơ chế đảm bảo vai trò trung tâm của Tòa án; tranh tụng tại phiên tòa được coi là khâu đột phá của cải cách tư pháp nhưng chưa được quy định mang tính đột phá xây dựng quy trình, cơ chế cụ thể; nhận thức của cán bộ tư pháp về tranh tụng chưa đầy đủ, toàn diện; việc tranh tụng còn hình thức, hiệu quả chưa cao. Vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân và mối quan hệ giữa Hội thẩm nhân dân với Thẩm phán trong quá trình xét xử các vụ án chưa được quy định cụ thể; hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn mang tính hình thức, có xu hướng chuyên nghiệp hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân Chính những bất cập trên, khó tránh khỏi những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến những dấu hiệu vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Từ khóa: Hiến pháp, Tòa án, cải cách tư pháp, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Nhận bài: 02/10/2016; Hoàn thành biên tập:25/11/2016; Duyệt đăng: 20/12/2016 Violations of the Constitution in judicial practices in Vietnam: situation and suggestions Abstract: The implementation of the judicial reform strategy in our country aims at building the judicial system which is clean, strong, effective, justice, to respect and protect human rights. However, many shortcomings remain in judicial activities, either the lack of clear definitions on the central location of the court, the key role of judgement, or absence of mechanism to ensure the central role of the Court; that litigation at the trial is considered a breakthrough in the judicial reform have not yet been defined with procedure reforms, specific mechanisms; awareness of judicial officers on litigation is limited and incomprehensive. The role and responsibilities of the People’s jurors and the relationship between People’s jurors and the judge during the trials of cases has not been specified; operation of the People’s jurors is superficial, the People’s juror’s team tends to be professionalized ... Due to these inadequacies, it appears violations of the Constitution in the judicial activities in Vietnam. Therefore, the study of issues related to the signs of violating the Constitution in judicial activities in Vietnam have significantly contributed to the building of socialist legitimate state which is of the people, by the people and for the people. Keywords: Constitution, Courts, Judicial Reform, Judges, People’s Jurors. Received: Oct 02th, 2016; Editingcompleted: Nov 25th, 2016; Accepted for publication: Dec 20 th, 2016. Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 35 động thực hiện quyền tư pháp hay là hoạt động tư pháp. Hoạt động tư pháp luôn được gắn liền với quá trình thực hiện quyền tư pháp của cơ quan tư pháp. Theo quy định tại Hiến pháp năm 1946 và các văn bản pháp luật ban hành trong giai đoạn 1946-1959 sử dụng. Điều 63 Hiến pháp năm 1946 quy định: Cơ quan tư pháp của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Trong giai đoạn này, hoạt động tư pháp không chỉ là hoạt động xét xử, do các thẩm phán xét xử thực hiện, mà nó còn có các hoạt động điều tra; hoạt động công tố do các công tố viên thực hiện. Đến Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên kể từ sau Hiến pháp năm 1946 đã xác định rành mạch: Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Trong đó, Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Chức năng xét xử của Tòa án là một chức năng đã được thể hiện xuyên suốt trong các bản Hiến pháp trước đây. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên Tòa án được trao một sứ mệnh cao quý, riêng có của Tòa án đó là “thực hiện quyền tư pháp”. Đây là quy định rất mới của Hiến pháp năm 2013. Thực hiện quyền tư pháp ở đây là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” Do đó, việc xác định các dạng vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp phải dựa vào những quy định trên, “việc vi phạm Hiến pháp nếu có, trước hết phải kể đến cơ quan Quốc hội - lập pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Chính phủ - hành pháp; cơ quan Chính phủ - bộ và các cơ quan ngang bộ và cơ quan Tòa án - tư pháp.3” Một số dấu hiệu vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp thể hiện ở một số giác độ sau đây: Thứ nhất, nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án theo Hiến pháp quy định chưa thực sự được đảm bảo Hiến pháp năm 2013 đã quy định những nguyên tắc về tổ chức và hoạt động độc lập thực hiện quyền tư pháp của Tòa án. Theo đó, nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được đảm bảo. Trong thời gian qua, việc nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nói chung và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước và cả xã hội quan tâm. Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra yêu cầu: “Đổi mới việc tổ chức phiên Tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, vai trò trách nhiệm của người tiến hành tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp4”. Để đảm bảo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử, ngày 01/03/2007, Chánh án Tòa án Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 01, nêu rõ: “Người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm chính về quản lí đối với các mặt công tác, đặc biệt là chất lượng xét xử, không được lạm dụng việc tổ chức công tác xét xử, trao đổi ý kiến về chuyên môn nghiệp vụ để hình thành chế độ duyệt án, áp đặt quan điểm 3 GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Một số vấn đề về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ quan tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp, truy cập tại trang [truy cập lúc 1h30 ngày 20.3.2016] 4 Xem tại [truy cập lúc 1h20 ngày 20.3.2016] 5 Xem tại [truy cập lúc 12h20 ngày 20.3.2016] HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 36 cá nhân trái với nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án5”. Khoản 3 và 5, Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là những quy định mới, thể hiện sự kiên trì, quyết tâm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với tổ chức và hoạt động tư pháp, đặc biệt là tranh tụng trong xét xử. Như vậy, việc thực hiện đảm bảo nguyên tắc khi xét xử thẩm phán độc lập chỉ tuân thủ pháp luật và việc thực hiện tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa có ý nghĩa rất quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử nói riêng. Từ chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, không có đất cho “báo án, duyệt án” tồn tại. Việc “báo án” và thực hiện theo sự thống nhất về nội dung xử án (về tội danh, về mức án..) từ Chánh án, Kiểm sát viên, Điều tra viên và Ủy ban Tư pháp trước khi xét xử, mà dư luận lâu nay vẫn gọi là án “bỏ túi”, “họp án, gán tội”, là vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của Hội đồng xét xử đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Đây cũng là một trong những nguyên nhân oan sai trong tố tụng hình sự. Thực trạng này không được chấn chỉnh, sẽ hạn chế nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và cũng triệt tiêu vai trò, vị thế của Luật sư trong hoạt động tranh trụng tại phiên tòa xét xử công khai. Do đó, cơ quan tiến hành tố tụng đã “vi hiến” khi tổ chức “họp án” với 03 cơ quan Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra. Thứ hai, trong hoạt động xét xử, hành vi vi phạm Hiến pháp thường được thấy qua các biểu hiện vi phạm nguyên tắc tranh tụng khi tiến hành xét xử của Toà án. Tranh tụng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện quyền tư pháp. Tranh tụng không chỉ là một phương thức để tìm ra chân lý, mà theo Hiến pháp năm 2013, nó còn có nghĩa là công cụ bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong một nhà nước pháp quyền, là cách thức để nâng cao nhận thức, tạo ra một môi trường dân chủ, bình đẳng trong các quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền thực hiện các hành vi tố tụng một cách nghiêm túc, đúng pháp luật, qua đó làm giảm thiểu các vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi tiến hành một quy trình tố tụng tại Tòa án. Với vai trò đặc biệt như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân. Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Nguyên tắc này là cần thiết đối với hoạt động của Tòa án, đặc biệt là khi lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Tòa án được ghi nhận là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Do đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp của mình, hơn ai hết, Tòa án phải là người thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc về tranh tụng mà Hiến pháp đã quy định. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, chất lượng công tác tư pháp nhìn chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, chưa thể hiện hết quyền lực của Nhà nước mà vẫn còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Biểu hiện rõ nhất, quá trình xét xử của Tòa án ở Việt Nam chưa thực sự theo nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng theo nguyên tắc xét hỏi, luật sư chỉ đóng vai trò thứ yếu. Ở đây, không hẳn là việc chuyển hoàn toàn sang mô hình tố tụng tranh tụng là phù hợp với điều kiện ở nước ta, song việc duy trì quá lâu mô hình tố tụng buộc tội mà chậm cải tổ rõ ràng 5 Xem tại [truy cập lúc 12h20 ngày 20.3.2016] Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 37 đang tạo ra sự bất bình đẳng lớn giữa các bên tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử. Đó là chưa kể hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay vẫn thiên về xu hướng bắt nhầm còn hơn bỏ sót. Vì vậy, người có hành vi mặc dù chỉ ở mức độ phát hiện tội phạm đều có thể bị bắt giam để tiến hành điều tra để buộc tội, mà rất ít khi dựa trên các quyết định có hiệu lực của Tòa án. Nhiều vụ án không có đủ bằng chứng để kết tội phải hoãn phiên tòa để tiến hành điều tra bổ sung. Về các vụ việc dân sự, khi xét xử Tòa án chưa thực sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, nhiều trường hợp có sự can thiệp của Viện Kiểm sát, nhiều trường hợp Thẩm phán phải tự đi thu thập các chứng cứ6. Thứ ba, hành vi vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp được biểu hiện vi phạm cơ quan tư pháp có thẩm quyền ban hành một văn bản quy phạm pháp luật thuộc trách nhiệm, quyền hạn của mình, đã đặt ra những quy định trái với những quy định của Hiến pháp hoặc trái với tinh thần của Hiến pháp. Chẳng hạn như việc quy định hướng dẫn liên quan đến án treo là Nghị quyết đang có hiệu lực pháp luật là Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 hướng dẫn một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, trong đó tại tiểu mục 6.3 Mục 6 hướng dẫn Điều 60 án treo. Tuy nhiên, nội dung hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao tại Mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 có những quy định chưa triệt để tuân thủ Hiến pháp, bởi lẽ, trong nhiều điều luật của Bộ luật Hình sự chưa quy định cụ thể. Ví dụ: điểm b khoản 1 Điều 48 và một số điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự chỉ quy định “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, còn thế nào là “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” thì không giải thích. Để áp dụng thống nhất tình tiết này khi xét xử, tại Mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã hướng dẫn thế nào là “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”. Hiện nay, có một thực tế mà ai cũng biết, đó là: Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và 2013 thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới là cơ quan có quyền giải thích luật, nhưng do nhiều nguyên nhân nên Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa thực hiện được nhiệm vụ giải thích luật, do đó, mặc dù chỉ là Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, nhưng trong đó có chứa đựng nội dung có tính chất “giải thích”. Thậm chí, trong hoạt động cơ quan tư pháp, Tòa án đã ban hành Công văn số 141/TCNDTC- KHXX ngày 21/9/2011 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Công văn số 141/TANDTC-KHXX, có chứa quy phạm pháp luật nhưng chưa được đăng tải trên báo cũng như lấy ý kiến các tổ chức có liên quan có thẩm quyền theo đúng trình tự, thủ tục theo các điều khoản nêu trên của Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 ( Hiện đã được thay thế bằng Luật Ban hành VBQPPL năm 2015), cũng vì Điều 126 Hiến pháp 1992 quy định: Tòa án có nhiệm vụ “bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” nên việc ban hành văn bản từ chối thụ lý yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu đối các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản và cũng là tài sản của người dân, chính là Tòa án đã không làm tròn nghĩa vụ “bảo vệ tài sản công dân” theo Hiến pháp quy định. Thứ tư, hành vi vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp thường được thấy qua các biểu hiện vi phạm cơ quan tư pháp có nghĩa vụ đã không ban hành những văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa việc thực hiện các quy định của Hiến pháp hoặc không ban hành những văn bản quy phạm pháp luật mà theo quy định là phải ban hành 6 Xem them: tien-ky-2/ HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 38 Theo thống kê chưa đầy đủ của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI (năm 2002) đến nay, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án NDTC, Viện KSNDTC cần ban hành 3.980 văn bản để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh, nghị quyết. Nhưng trên thực tế, chỉ có 3.260 văn bản được ban hành, đạt 82%. Số còn lại bị “nợ đọng” kéo dài, trong đó, có văn bản chậm ban hành tới gần 10 năm như các nghị định hướng dẫn thực hiện Bộ luật Dân sự. Được thông qua từ ngày 28-10-1995, có hiệu lực từ 1-7-1996, nhưng sau gần 10 năm, cơ quan chức năng mới ban hành được 54 văn bản, còn 20 nội dung của bộ luật vẫn chưa được quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành. Tháng 6-2005, khi chưa được hướng dẫn hết, Bộ luật Dân sự lại được Quốc hội sửa đổi một cách cơ bản để phù hợp với tình hình mới. Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực từ ngày 15-10-1993, nhưng sau gần 10 năm, Tòa án NDTC, Viện KSNDTC, Tổng cục Địa chính mới phối hợp ban hành Thông tư liên tịch số 01 ngày 3-1-2002 hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Với Luật Đất đai năm 2003 (Hiện đã được thay thế bằng Luật Đất đai năm 2013), việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành làm cho luật chậm đi vào cuộc sống. Điều này khiến các cơ quan tổ chức áp dụng không thống nhất, gây ảnh hưởng đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. 2. Nguyên nhân của tình trạng vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp Thứ nhất, hoạt động tư pháp của Việt Nam không hoàn toàn giống như của các nhà nước tư bản. Hiến pháp năm 2013 mới khẳng định rõ ràng về điều này, không có sự phân quyền rạch ròi giữa hành pháp và tư pháp. Quyền hành pháp của chúng ta không bao gồm quyền công tố buộc tội của Viện Kiểm sát. Chính phủ - hành pháp trước hết phải được hiểu ở tầm hẹp nhất là phải giữ gìn trị an cho người dân, phòng và chống tội phạm. Muốn thực hiện tốt quyền này mà không có quyền công tố buộc tội thì không thể nào đảm đương được. Chính phủ quản lý rất tốt mọi mặt, trong đó có cả phát triển kinh tế, mà tội phạm đầy rẫy thì cũng không thể nào đứng vững được. Thứ hai, Nguyên tắc độc lập của Tòa án chưa được tuân thủ một cách triệt để ở nước ta, bởi lẽ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam vẫn phải theo theo nguyên tắc tập quyền. Nguyên tắc tập quyền không thể là cơ sở cho sự độc lập của Tòa án bởi nó dẫn đến việc quyết định của Tòa án khó tránh khỏi phụ thuộc vào sự chỉ dẫn, sự can thiệp của các cơ quan nhà nước khác. Trên thực tế, quá trình tố tụng ở Việt Nam có nhiều khiếm khuyết, dẫn tới những vụ án oan sai như hiện nay. Hiện còn có trường hợp xét án thông qua việc báo cáo án, báo cáo nghiệp vụ với Chánh án, Chánh án tòa cấp trên duyệt án, xét án. Nguyên tắc độc lập xét xử đã có từ lâu trong Hiến pháp nhưng trên thực tế, vẫn có tình trạng can thiệp dù ít hay nhiều. Cơ cấu Tòa án địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính, vẫn chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp nên thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy và Hội đồng nhân dân quản lý theo hướng tích cực, đúng quy định của pháp luật trong công tác tư pháp thì Tòa án nơi đó có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ cán bộ tuân thủ pháp luật và thực hiện nhiệm vụ xét xử được giao. Ngược lại, nơi nào cấp ủy, Hội đồng nhân dân quan tâm không đúng mức đến công tác Tòa án hoặc để xảy ra tình trạng buông lỏng chỉ đạo, giám sát hay can thiệp quá sâu vào việc xét xử của Tòa án thì công tác Tòa án nơi đó gặp nhiều khó khăn, phức tạp, thậm chí ảnh hưởng đến tính chất độc lập trong hoạt động xét xử. Thứ ba, hoạt động tư pháp ở Việt Nam chưa thực sự chủ động kinh phí hoạt động vẫn phụ thuộc chặt chẽ vào các cơ quan nhà nước khác, đồng thời phụ thuộc vào các Tòa án cấp trên. Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 39 Phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách đối với Tòa án được cấp như định mức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp, chưa thực sự phù hợp với tính chất đặc thù, đặc biệt của công tác xét xử, của cơ quan đặc biệt thực hiện quyền tư pháp quốc gia, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả công tác của các Tòa án. Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, quyền lực đặc biệt bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng các hoạt động của Tòa án. Do đó, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và nguyên tắc hoạt động, chế độ đãi ngộ, cơ sở vật chất của Tòa án cần được nhận thức và xác định đúng tầm, đảm bảo đầy đủ các yếu tố để Tòa án hoàn thành tốt nhiệm vụ mà nhà nước và nhân dân giao phó. 3. Một số giải pháp khắc phục những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động tư pháp Thứ nhất, quán triệt nguyên tắc “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Nội dung này được thể hiện tại Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua cho thấy mô hình tố tụng tại phiên tòa của Việt Nam theo hướng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng, các chứng cứ, tình tiết của vụ án đã được những người tham gia tố tụng trình bày khách quan tại phiên tòa và trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử ra các phán quyết nhằm đảm bảo các phán quyết đó chính xác, đúng pháp luật. Vì vậy, chất lượng xét xử của Tòa án các cấp trong thời gian vừa qua cũng đã được nâng lên, giảm các vụ, việc oan, sai. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo. Cơ quan tư pháp phải quy định chi tiết, cụ thể về tranh tụng tại phiên tòa của tất cả các lĩnh vực xét xử. Thứ hai, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Phải thực hiện và xử lý nghiêm những Thẩm phán, Hội thẩm không độc lập xét xử trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử chứ không chỉ giới hạn bởi “khi xét xử”. Đồng thời, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm trong công tác xét xử và cũng là đảm bảo cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Thứ ba, giải thích Hiến pháp và luật phải là một trong những biểu hiện thẩm quyền của quyền tư pháp. Theo quy định của Hiến pháp, UBTVQH có thẩm quyền giải thích Hiến pháp và pháp luật. Nhưng cho đến nay, UBTVQH không thực hiện được chức năng này, bởi lẽ, về nguyên tắc đó là cơ quan lập pháp chứ không phải là cơ quan áp dụng luật. Nguyên tắc “Người làm được việc lớn thì tất nhiên bao giờ cũng làm được việc nhỏ” của hệ thống luật La Mã cổ đại trong điều kiện hiện nay có lẽ không phù hợp và nếu còn đi chăng nữa thì đấy là hoạt động lập pháp chứ không phải là giải thích luật. Lập pháp là chức năng của Quốc hội và thông qua pháp lệnh cũng thuộc chức năng của UBTVQH. Muốn giải thích được các điều luật một cách chính xác thì phải trăn trở với nó, vì vậy buộc phải đặt việc giải thích trong một vụ việc cụ thể, gắn với các sự kiện pháp lý cụ thể. Chỉ có Tòa án với nguyên tắc nghĩa vụ phải xét xử của Thẩm phán mới có điều kiện cũng như nghĩa vụ giải thích các điều luật. Điều này có nghĩa là giải thích điều luật phải gắn với một trường hợp cụ thể mà không thể là giải thích chung chung, rơi vào tình trạng của việc giải thích trừu tượng. Việc trao quyền này cho UBTVQH tức là không phân biệt rõ và thậm chí còn là nhầm lẫn giữa lập pháp và tư pháp7. Thứ tư, hệ thống tư pháp phải có quyền chủ động trong việc ban hành và lấp khoảng trống của pháp luật (Xem tiếp trang 60) 7 Xem them: tien-ky-2/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvan_de_vi_pham_hien_phap_trong_hoat_dong_tu_phap_o_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan