Kiến nghị hoàn thiện Dự thảo Luật
Thuế tài sản
Thứ nhất, cần điều chỉnh lại quy định
về người nộp thuế cho phù hợp. Theo đó,
trong trường hợp bất động sản cho thuê thì
giá trị tài sản tính thuế là toàn bộ giá trị bất
động sản cho thuê, không phân biệt cho thuê
một người hay nhiều người, cho thuê một
phần hay toàn bộ bất động sản. Ngưỡng chịu
thuế không áp dụng cho từng người nộp thuế
mà áp dụng cho cả tài sản chịu thuế để tránh
trường hợp lách thuế bằng cách thỏa thuận
chia nhà ra kê khai cho từng người thuê.
Thứ hai, cần xem xét và điều chỉnh lại
nội dung trong các yếu tố tính thuế của thuế
tài sản. Cụ thể:
- Cần xác định là giá tính thuế cho
1m2 nhà xây dựng mới là giá xây dựng thực
tế, nếu không có cơ sở hoặc giá thực tế do
người nộp thuế xác định không hợp lý sẽ
sử dụng khung giá do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định. Quy định này đảm
bảo sự công bằng và chính xác hơn.
- Cần ghi nhận đối với bất động sản đã
qua sử dụng trong các trường hợp có những
yếu tố tác động làm giảm giá trị của bất động
sản thì cần có những cơ chế để xác định lại
giá trị tài sản khi tính thuế. Điều này mới
làm đảm bảo tính công bằng trong điều tiết
thuế tài sản. Cụ thể, cần bổ sung quy định
sau vào nội dung này là: “trong trường hợp
có những biến động lớn làm giảm giá trị của
bất động sản thì cơ quan nhà nước căn cứ
vào yêu cầu của người nộp thuế để xác định
lại tỷ lệ chất lượng còn lại của nhà”.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Dự thảo Luật Thuế tài sản ngày 23/04/20181 đã cho thấy, thuế tài
sản nêu trong Dự thảo Luật này chỉ là một trong các loại thuế được
Việt Nam sử dụng để điều tiết vào tài sản mà các chủ thể trong xã
hội có được bên cạnh Luật Thuế thu nhập cá nhân. Bên cạnh đó,
nội dung của Dự thảo Luật còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục
hoàn thiện.
Thuế tài sản là loại thuế không quá
mới mẻ trong hệ thống thuế các quốc gia
nói chung và Việt Nam nói riêng2. Tùy các
quốc gia khác nhau mà việc lựa chọn đánh
thuế tài sản cũng có thể có sự khác nhau.
Nhìn chung có hai hệ thống thuế tài sản sau:
1 Tài liệu được đăng trên truy cập ngày 19/05/2018.
2 Hiện nay trên thế giới có 174/193 nước có áp dụng sắc thuế thu đối với tài sản. Theo Viện Chiến lược và Chính sách
tài chính, Thực tiễn áp dụng thuế tài sản ở các nước, tài liệu đăng trên
trao-doi-binh-luan/thuc-tien-ap-dung-thue-tai-san-o-cac-nuoc-139653.html truy cập ngày 22/05/2018.
Phan Phương Nam*
* ThS. GV Khoa Luật thương mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Abstract
The draft Law on Property Tax (version of 23/04/2018) has shown
that the property tax stated in the draft law is just one of the taxes
imposed by Viet Nam to regulate the properties occupied by the
tax payers in the society along with the Law on Personal Income
Tax. In addition, the content of the draft law has several issues
need to be further improved.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: thuế tài sản, thuế liên quan
tài sản; thuế thu nhập cá nhân; người
nộp thuế
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 24/05/2018
Biên tập : 07/06/2018
Duyệt bài : 13/06/2018
Article Infomation:
Keywords: property tax, property
-related taxes; personal income tax;
tax payers
Article History:
Received : 24 May 2018
Edited : 07 Jun 2018
Approved : 13 Jun 2018
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG PHÁP LUẬT THUẾ TÀI SẢN
i) pháp luật thuế tài sản có năm hình thức:
Luật thuế của cải đánh trên giá trị tài sản
ròng của cá nhân, Luật thuế nhà, Luật thuế
đất, Luật thuế đăng ký tài sản, Luật thuế
thừa kế và quà tặng; ii) pháp luật thuế tài sản
bao gồm: Luật thuế nhà, Luật thuế sử dụng
CHÑNH SAÁCH
36 Số 15(367) T8/2018
đất, Luật thuế trước bạ, Luật thuế sử dụng ô
tô, Luật thuế vốn3.
Về cơ bản, thuế tài sản có những ưu
điểm sau: i) thuế tài sản ít gây tác động xấu
đến nền kinh tế (trong khi đó thuế điều tiết
vào thu nhập tác động đến động lực của
người tạo ra thu nhập, thuế điều tiết vào
hàng hóa tác động đến hành vi tiêu dùng);
ii) thuế tài sản mang công bằng trong điều
tiết thuế; iii) thuế tài sản tạo nên nguồn thu
ổn định cho nhà nước và ít bị ảnh bởi yếu tố
mang tính chu kỳ của nền kinh tế như các
loại thuế đánh vào thu nhập và hàng hóa và
iv) đôi khi thuế tài sản (đối với bất động sản)
được xem như là một công cụ quản lý thị
trường bất động sản hiệu quả khi có những
sự tác động mạnh vào tài sản là bất động
sản. Với những ưu điểm trên, nên đây là thời
điểm mà theo Bộ Tài chính là hợp lý để xem
xét và điều thiết thuế tài sản ở Việt Nam.
Dự thảo Luật Thuế tài sản ngày
23/04/20184 đã cho thấy, đây không phải là
toàn bộ quy định pháp luật về thuế tài sản
mà Dự thảo Luật này - nếu được Quốc hội
thông qua - chỉ là một trong các luật thuế
3 Hoàng Thị Giang (2007), Pháp luật thuế tài sản ở Việt Nam hiện nay – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến
sỹ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật.
4 Tài liệu được đăng trên truy cập ngày 19/05/2018.
5 Nhóm học giả này cho rằng quan hệ giữa người nộp thuế, trả thuế và chính phủ, nhà nước là quan hệ trao đổi. Theo đó,
nhà nước cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người trả thuế và người trả thuế phải trả tiền cho nhà nước. Theo cách lý giải
này thì đối tượng trả thuế chỉ trả thuế dựa trên lợi ích, phúc lợi mà họ nhận được từ nhà nước. Tuy nhiên, quan điểm này
đã mặc nhiên thừa nhận có sự đối giá và hoàn trả trực tiếp cho người trả thuế trong quan hệ thuế. Điều này đi ngược lại
với bản chất của thuế đã được đa số các học giả công nhận. Xem Giáo trình Thuế (2001), Trường Đại học Kinh tế TP
Hồ Chí Minh và Viện Nghiên cứu tài chính, Chủ biên: GS,TS Nguyễn Thanh Tuyền, TS. Nguyễn Ngọc Thanh, Nxb.
Thống kê, Hồ Chí Minh 2001.
6 Những người theo quan điểm này cho rằng những hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội, quyền và lợi ích cho các cá
nhân, tổ chức trong xã hội là xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Các quyền và lợi ích này không gắn
liền và không là hệ quả trực tiếp từ số thuế mà đối tượng nộp thuế đã nộp cho nhà nước. Việc phân phối gánh nặng của
thuế sẽ được nhà nước quyết định theo nguyên tắc công bằng – nghĩa là việc nộp thuế của đối tượng nộp thuế cần phải
được tiến hành và xác định phù hợp với khả năng chi trả của họ. Tùy thuộc vào khả năng của đối tượng nộp thuế, nhà
nước sẽ xác định mức điều tiết phù hợp nhằm bảo đảm rằng các đối tượng nộp thuế phải hy sinh một phần thu nhập của
mình để nộp thuế cho nhà nước. Xem Professor David W. Williams (1996), Principle of tax law, Swett & Maxwell và
Nguyễn Hồng Thắng, Vận dụng nguyên tắc đánh thuế trong thực tiễn, Tạp chí Phát triển kinh tế số 220 - tháng 2/2009
(nay đổi tên thành Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á tên gọi tiếng Anh: Journal of Asian Business and
Economic Studies (JABES).
7 Rawls, J.(1971). A theory of Justice, Harvard University Press, Cambridge, Massachusetts; Clarendent Press, Oxford.
được Việt Nam sử dụng để điều tiết vào tài
sản mà các chủ thể trong xã hội có được bên
cạnh Luật Thuế thu nhập cá nhân.
1. Nội dung và yêu cầu của nguyên tắc
công bằng trong thuế tài sản
Khi nói về nguyên tắc công bằng nói
chung, có nhiều quan điểm như: quan điểm
của nhóm tiếp cận sự công bằng về mặt lợi
ích5; nhóm tiếp cận sự công bằng trong thuế
dựa trên khả năng chi trả của đối tượng trả
thuế6 và lý thuyết về công bằng của John
Rawls7. Mỗi quan điểm đều có các ưu và
nhược điểm của nó. Trong phạm vi bài viết
này, nguyên tắc công bằng được hiểu là
các định hướng về việc xác định những nội
dung, yêu cầu trong các quy định của pháp
luật thuế nhằm đảm bảo việc thu thuế là hợp
lý dựa trên khả năng chi trả của đối tượng
nộp thuế có xem xét, cân nhắc đến các yếu
tố hoàn cảnh, điều kiện sống nhằm đảm bảo
những người có điều kiện khác nhau sẽ có
nghĩa vụ nộp thuế khác nhau, người có điều
kiện thuận lợi hơn sẽ phải nộp thuế nhiều
hơn và những người điều kiện, hoàn cảnh
như nhau sẽ phải nộp thuế như nhau.
CHÑNH SAÁCH
37Số 15(367) T8/2018
Với cách hiểu như trên, nguyên tắc
công bằng áp dụng trong pháp luật thuế tài
sản cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Công bằng theo khả năng của
người chịu thuế. Điều này có nghĩa là pháp
luật thuế tài sản cần xem xét, cân nhắc và
tính toán đến điều kiện, khả năng đóng góp
thuế của người chịu thuế. Bởi lẽ, vẫn biết là
thuế tài sản sẽ điều tiết vào những chủ thể
có tài sản nhưng cũng cần lưu ý là những
chủ thể đó có đủ khả năng chịu đựng thuế
hay không? Nếu pháp luật thuế điều chỉnh
vượt quá khả năng chịu đựng thuế của người
chịu thuế thì việc điều tiết sẽ không đảm bảo
sự hợp lý. Do vậy, khi điều tiết thu cần tính
đến mức ngưỡng nhất định. Nếu tài sản của
người chịu thuế có giá trị dưới mức ngưỡng
đó thì Nhà nước không điều tiết.
- Công bằng theo chiều ngang. Theo
đó, các chủ thể có các điều kiện hoàn cảnh
như nhau thì sẽ thực hiện các nghĩa vụ thuế
tài sản như nhau.
- Công bằng theo chiều dọc. Theo
đó, các chủ thể có các điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau thì thực hiệc các nghĩa vụ thuế
khác nhau. Người có điều kiện hơn sẽ thực
hiện nghĩa vụ thuế cao hơn người có điều
kiện kém thuận lợi hơn.
2. Các quy định của Dự thảo Luật Thuế
tài sản dưới góc độ đảm bảo sự công bằng
2.1 Những thành công của Dự thảo Luật
Thuế tài sản
Một là, Dự thảo Luật Thuế tài sản đã
có những quy định hợp lý khi đặt ra ngưỡng
điều tiết thuế đối với nhà. Theo đó, nếu giá
trị nhà dưới mức ngưỡng xác định thì người
sở hữu nhà không có nghĩa vụ phải nộp thuế
tài sản cho Nhà nước. Đây chính là sự công
bằng theo khả năng của người nộp thuế.
Hai là, Dự thảo Luật Thuế tài sản có
xem xét và tính đến các trường hợp miễn,
giảm thuế như: số thuế nộp thấp (dưới
50.000 VNĐ), đất xây nhà tình thương, đại
đoàn kết... Điều này đã thấy rõ bản chất
của thuế tài sản chỉ mong muốn điều tiết
vào những người có thu nhập tương đối và
không điều tiết vào những chủ thể mà điều
kiện sống của họ còn nhiều khó khăn.
Ba là, Dự thảo Luật Thuế tài sản đã
điều tiết vào một số tài sản chưa được sự
công nhận của Nhà nước (đất lấn, chiếm).
Trong trường hợp này, theo quy định của
luật, những chủ thể có thu nhập từ việc khai
thác đất nên có nghĩa vụ phải nộp thuế tài
sản cho Nhà nước. Điều này cũng nhằm đảm
bảo sự công bằng giữa những người sử dụng
đất có lợi ích như nhau thì cũng phải cùng có
nghĩa vụ nộp thuế.
2.2 Những điểm hạn chế của Dự thảo Luật
Thuế tài sản
Thứ nhất, quy định về người nộp thuế
trong Dự thảo Luật Thuế tài sản chưa hợp
lý. Trong điểm b khoản 3 Điều 4 Dự thảo
Luật Thuế tài sản xác định, nếu có thỏa
thuận thì người thuê nhà có thể là người nộp
thuế. Điều này xuất phát từ việc kế thừa quy
định trong pháp luật thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp. Tuy nhiên, điều này có điểm
còn bất cập. Đó là người nộp thuế sẽ lợi
dụng quy định về ngưỡng chịu thuế trong tài
sản để tránh thuế. Theo đó, nếu giá trị căn
nhà vượt trên ngưỡng chịu thuế, chủ sở hữu
tài sản có thể cho nhiều người thuê và phần
giá trị thuê của từng người thuê sẽ không
vượt quá ngưỡng chịu thuế. Cách thức này
rất dễ áp dụng đối với những bất động sản có
thể chia tách như nhà có nhiều phòng, nhiều
tầng. Điều này sẽ gây nên sự bất công bằng
trong việc điều tiết thuế tài sản.
Thứ hai, nội dung của các căn cứ tính
thuế trong Dự thảo Luật Thuế tài sản còn
nhiều điểm chưa hợp lý.
Căn cứ tính thuế theo Điều 6 Dự thảo
là giá tính thuế và thuế suất. Quy định có
những bất cập sau:
CHÑNH SAÁCH
38 Số 15(367) T8/2018
Một là, giá tính thuế đối với nhà mới
xây dựng chưa hợp lý. Theo điểm b khoản
2 Điều 7 Dự thảo thì giá 1m2 nhà tính thuế
được xác định theo giá 1m2 nhà xây dựng
mới theo từng cấp nhà, hạng nhà do Ủy ban
nhân dân (UBND) cấp tỉnh quyết định theo
quy định của pháp luật về xây dựng tại thời
điểm tính thuế. Quy định này nhằm đơn giản
và dễ tính thuế nhưng chưa đảm bảo sự công
bằng. Bởi lẽ, các công trình khi xây dựng
không chỉ căn cứ vào cấp nhà, hạng nhà mà
còn phụ thuộc vào kết cấu đất và vật liệu xây
dựng được sử dụng. Việc chỉ áp dụng mức
giá nhà xây dựng theo quy định của cơ quan
nhà nước là mang tính áp đặt ý chí và chưa
phù hợp với thực tế.
Hai là, giá tính thuế đối với nhà đã
qua sử dụng cũng chưa hợp lý. Theo điểm
b khoản 2 Điều 7 Dự thảo thì giá tính thuế
đối với nhà đã qua sử dụng là được xác định
căn cứ theo giá 1m2 nhà xây dựng mới theo
từng cấp nhà, hạng nhà do UBND cấp tỉnh
quyết định theo pháp luật về xây dựng tại
thời điểm tính thuế và tỷ lệ (%) chất lượng
còn lại của nhà do UBND cấp tỉnh quy định
theo pháp luật tại thời điểm tính thuế. Ở đây,
cần làm rõ phần tỷ lệ (%) chất lượng còn lại
sẽ được xác định như thế nào? Việc xác định
trên chỉ đúng nếu bất động sản xuống cấp
đều đặn theo thời gian mà không có những
yếu tố khác tác động hoặc làm tăng nhanh
quá trình giảm giá trị bất động sản. Tuy
nhiên, khi có những yếu tố tác động mạnh
làm cho quá trình giảm giá trị bất động sản
này diễn ra nhanh hơn mức thông thường thì
sẽ được xác định như thế nào?
Ba là, xác định ngưỡng chịu thuế
8 Có thể xem thêm các cách lý giải về mức ngưỡng chịu thuế: Hoàng Thanh, Tại sao Bộ Tài chính lấy ngưỡng chịu thuế
nhà là 700 triệu đồng?, theo https://news.zing.vn/tai-sao-bo-tai-chinh-lay-nguong-chiu-thue-nha-la-700-trieu-dong-
post835111.html, truy cập ngày 10/05/2018; Minh Anh, Tại sao Bộ Tài chính lấy ngưỡng chịu thuế nhà từ 700 triệu
đồng? theo
chiu-thue-nha-tu-700-trieu-dong-56157.aspx, truy cập ngày 10/05/2018.
trong thuế tài sản là bất động sản chưa hợp
lý. Ở đây, chúng tôi không tập trung tranh
luận về mức ngưỡng 700 triệu hoặc 01 tỷ
trên bất động sản sẽ chịu thuế8, mà chỉ xác
định là liệu việc đưa ra mức ngưỡng có đảm
bảo sự công bằng chưa khi điều tiết thuế
tài sản? Bởi lẽ trên thực tế, có những chủ
thể đang sở hữu lượng tài chính đủ lớn để
xây dựng hoặc mua bất động sản vượt qua
ngưỡng chịu thuế. Tuy nhiên, không phải
chủ thể nào cũng có đủ tài chính và có rất
nhiều chủ thể để sở hữu bất động sản đã tiến
hành vay tài chính từ các chủ thể khác (tổ
chức tín dụng, bạn bè, gia đình) do xuất phát
từ tâm lý muốn “an cư, lạc nghiệp”. Đối với
những chủ thể này, nếu giá trị bất động sản
của họ vượt ngưỡng và phải chịu thuế thì
cũng là sự bất công bằng đối với họ. Theo
chúng tôi, việc đánh thuế phải dựa trên khả
năng tài chính của người nộp thuế. Trong
khi đó, những người này cùng lúc phải thực
hiện các nghĩa vụ tài chính từ khoản nợ vay
để mua bất động sản đồng thời phải nộp thuế
tài sản thì liệu có vượt trên sức chịu đựng
của họ không? Liệu có đáp ứng các yêu cầu
của nguyên tắc công bằng không?
Bốn là, thuế suất chưa đảm bảo sự hợp
lý. Một trong các mục đích đặt ra của thuế
tài sản là bảo đảm sự công bằng hơn trong
xã hội. Theo yêu cầu của sự công bằng theo
chiều dọc thì người có điều kiện thuận lợi
hơn sẽ bị điều thuế nhiều hơn. Đặc biệt đối
với thuế tài sản là điều tiết vào tài sản nên
rõ ràng cần phải phát huy hơn nữa sự công
bằng này. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn
chưa thể hiện rõ trong Dự thảo Luật Thuế tài
sản. Theo đó, Dự thảo chỉ đưa ra một mức
CHÑNH SAÁCH
39Số 15(367) T8/2018
thuế suất chung mà không phân biệt giá trị
tài sản. Đây là bước thụt lùi trong hoạt động
lập quy, không kế thừa được sự hợp lý trong
quy định của Luật Thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp hiện hành.
Thứ ba, quy định miễn thuế trong
thuế tài sản
Một là, cần xem xét bổ sung trường
hợp nhà xây dựng nhưng chưa được công
nhận quyền sở hữu vào trong trường hợp
miễn thuế để đảm bảo sự công bằng. Khoản
2 Điều 4 Dự thảo xác định “trường hợp chưa
có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà và các tài sản khác gắn
liền với đất thì xác định theo mục đích sử
dụng đối với đất” nên dù cho tài sản là bất
động sản chưa được công nhận thì người
có bất động sản đó vẫn là người nộp thuế.
Quy định này khởi nguồn từ quy định trong
pháp luật thuế nhà đất trước đây và hiện tồn
tại trong Luật Thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp là đánh vào lợi ích có được từ hành
vi khai thác đất cho dù đất sử dụng chưa
được công nhận quyền sử dụng thì người
khai thác đất cũng có nghĩa vụ tài chính với
Nhà nước. Quan điểm này chỉ đúng khi áp
dụng cho thuế về đất, vì có những trường
hợp các chủ thể sử dụng đất khai hoang, lấn
9 D.Ngọc Hà, Đất vướng quy hoạch: Mỗi nơi giải quyết một kiểu, theo https://nhadat.tuoitre.vn/dat-vuong-quy-ho-
ach-moi-noi-giai-quyet-mot-kieu-600643.htm truy cập ngày 16/05/2018; Tiến Long – Ái Nhân, Đất ở mà chỉ được
xây dựng tạm, dỡ không được đền bù, theo https://tuoitre.vn/dat-o-ma-chi-duoc-xay-dung-tam-do-khong-duoc-den-
bu-20171211082713028.htm truy cập ngày 17/05/2018.
10 Theo khoản 3 Điều 49 của Luật Đất đai: “Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã
được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau 03 năm chưa có quyết
định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế
hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh, hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích
đối với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất.
Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều
chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy
định tại khoản 2 Điều này”. Tuy nhiên, trên thực tế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phải lúc nào cũng làm
đúng quy định này. Nếu đúng tinh thần trên, sau 3 năm mà quy hoạch không còn thì những ngôi nhà, bất động sản xây
dựng tạm có thể được Nhà nước công nhận và cho hoàn công.
11 Tô Hà - Thy Thơ, Thuế tài sản phải công bằng.
theo https://nld.com.vn/kinh-te/thue-tai-san-phai-cong-bang-20180418210648142.htm truy cập ngày 15/05/2018.
chiếm kênh, rạch, sử dụng đất có lợi ích nên
Nhà nước yêu cầu họ có nghĩa vụ tài chính
với Nhà nước là hợp lý. Tuy nhiên, nếu áp
dụng quy định này trong việc điều tiết thuế
đối với nhà ở là chưa hợp lý. Ví dụ, đối với
nhà được xây dựng hợp pháp nhưng không
được Nhà nước công nhận và cho hoàn
công. Hiện nay, đối với các loại đất được
quy hoạch xác định là đất hỗn hợp, đất khu
dân cư chỉnh trang... thì người dân chỉ được
cấp phép xây dựng tạm và không được đền
bù, không được hoàn công9. Vậy có công
bằng không khi nhà ở do người dân xây
nhưng chưa được công nhận, so với những
bất động sản trên đất khác được Nhà nước
công nhận khi cùng bị điều tiết thuế tài sản.
Rõ ràng những công trình này sẽ bị tháo dỡ
và không có bất kỳ sự đền bù nào khi nhà
nước thu hồi đất, trong khi các bất động sản
được thừa nhận thì sẽ được đền bù. Lỗi trên
không phải là do người dân tự xây dựng mà
xuất phát từ nhu cầu chỗ ở của người dân và
từ sự yếu kém, chậm trễ trong công tác quy
hoạch của Nhà nước10. Vì vậy, nên chăng
pháp luật cần xem đây là trường hợp được
miễn thuế. Rõ ràng về nguyên lý, đây là tài
sản có giá trị lớn cần được sự điều chỉnh
của Nhà nước không chỉ để thu thuế mà còn
nhằm đáp ứng mục tiêu quản lý tài sản11 nên
CHÑNH SAÁCH
40 Số 15(367) T8/2018
không thể đưa vào trường hợp không chịu
thuế. Tuy nhiên, với những nguy cơ bị thu
hồi đất và không đền bù với tài sản này thì
cần xem xét cho vào trường hợp miễn thuế.
Khi nào Nhà nước cho phép tài sản này hoàn
công và đảm bảo khả năng đền bù cho tài
sản khi Nhà nước thu hồi thì tài sản này vẫn
chịu thuế và người sở hữu vẫn nộp thuế như
các trường hợp khác.
Hai là, cần đưa di sản để thờ cúng12
vào đối tượng được miễn thuế. Di sản để thờ
cúng là những loại tài sản đặc biệt liên quan
đến đời sống tinh thần, tín ngưỡng của người
Việt Nam. Tài sản này rõ ràng không được
sử dụng để kinh doanh. Vì vậy, về bản chất,
tài sản này không phát sinh lợi nhuận nên
Nhà nước không nên điều tiết thuế tài sản
vào tài sản này. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu
cầu quản lý và đảm bảo tính công bằng, pháp
luật cần đưa tài sản này vào diện miễn thuế,
nhằm thể hiện rõ pháp luật có điều chỉnh vào
tài sản này để quản lý nhưng không thu thuế
vì đáp ứng nhu cầu về tín ngưỡng và phù
hợp với quan niệm của người Việt Nam.
3. Kiến nghị hoàn thiện Dự thảo Luật
Thuế tài sản
Thứ nhất, cần điều chỉnh lại quy định
về người nộp thuế cho phù hợp. Theo đó,
trong trường hợp bất động sản cho thuê thì
giá trị tài sản tính thuế là toàn bộ giá trị bất
động sản cho thuê, không phân biệt cho thuê
một người hay nhiều người, cho thuê một
phần hay toàn bộ bất động sản. Ngưỡng chịu
thuế không áp dụng cho từng người nộp thuế
mà áp dụng cho cả tài sản chịu thuế để tránh
trường hợp lách thuế bằng cách thỏa thuận
chia nhà ra kê khai cho từng người thuê.
Thứ hai, cần xem xét và điều chỉnh lại
nội dung trong các yếu tố tính thuế của thuế
12 Xem Điều 645 Luật số 91/2015/QH13 Bộ luật Dân sự.
tài sản. Cụ thể:
- Cần xác định là giá tính thuế cho
1m2 nhà xây dựng mới là giá xây dựng thực
tế, nếu không có cơ sở hoặc giá thực tế do
người nộp thuế xác định không hợp lý sẽ
sử dụng khung giá do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định. Quy định này đảm
bảo sự công bằng và chính xác hơn.
- Cần ghi nhận đối với bất động sản đã
qua sử dụng trong các trường hợp có những
yếu tố tác động làm giảm giá trị của bất động
sản thì cần có những cơ chế để xác định lại
giá trị tài sản khi tính thuế. Điều này mới
làm đảm bảo tính công bằng trong điều tiết
thuế tài sản. Cụ thể, cần bổ sung quy định
sau vào nội dung này là: “trong trường hợp
có những biến động lớn làm giảm giá trị của
bất động sản thì cơ quan nhà nước căn cứ
vào yêu cầu của người nộp thuế để xác định
lại tỷ lệ chất lượng còn lại của nhà”.
- Đối với trường hợp vay tiền để mua
bất động sản thì giá tính thuế nên là phần
vượt ngưỡng chịu thuế sau khi trừ khoản nợ
mà những chủ thể này còn phải thực hiện
(tính trên dư nợ giảm dần) nếu người nộp
thuế có những bằng chứng chứng minh.
- Cần xem xét và tính toán để thay đổi
thuế suất theo hướng thuế suất lũy tiến nhằm
đảm bảo những người có giá trị tài sản cao
phải bị điều tiết nhiều hơn, mạnh hơn so với
những chủ thể có tài sản ít giá trị hơn để thực
hiện đúng yêu cầu của nguyên tắc công bằng.
Thứ ba, cần bổ sung các quy định miễn
thuế trong thuế tài sản. Theo đó, pháp luật
cần bổ sung đưa di sản để thờ cúng và nhà
xây dựng nhưng chưa được công nhận quyền
sở hữu vào các trường hợp miễn thuế■
CHÑNH SAÁCH
41Số 15(367) T8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_dung_nguyen_tac_cong_bang_trong_phap_luat_thue_tai_san.pdf