Các nhà hoạch định chính sách cần thấy rằng
việc đẩy mạnh khả năng tiếp cận với các dịch vụ
khám chữa bệnh phải song hành với nâng cao
chất lựong. Việc cắt giảm bao cấp của nhà nớc
phải đi đôi với việc xây dựng một phơng thức
chi trả cho các trạm y tế xã để lấy kinh phí nâng
cao chất lợng dich vu. Cần phải mở rộng Bảo
hiểm y tế để đảm bảo kinh phí cho việc đảm bảo
chất lợng dịch vụ. Hơn nữa, nên lựa chọn thu
viện phí ở một mức có thể chấp nhận đợc nhằm
đảm bảo chất lợng dịch vụ. Mô hình Nhợng
quyền xã hội trong y tế đã đợc thử nghiệm tại
một số TYTX ở Đà Nẵng và Khánh Hòa và đã
thành công trong việc làm tăng sử dụng dịch vụ
nhờ các chơng trình tiếp thị xã hội, cải thiện
chất lợng phục vụ, xây dựng khung phí dịch vụ,
và thực hiện chếđộ khen thởng cho cán bộ (Ngô
và cộng sự, 2010; Ngô và cộng sự, 2009a). Trong
bất cứ trờng hợp nào, đầu t vào cơ sở hạ tầng,
thiết bị y tế, phát triển nguồn nhân lực trong giai
đoạn ban đầu sẽ luôn là điều cần làm trớc khi
trạm y tế có thể sử dụng kinh phí từ nguồn thu
viện phí để nâng cao chất lợng dịch vụ.
Hệ thống y tế hiện nay khá đa dạng, trong đó
tình trạng tự điều trị, tự mua thuốc ở hiệu thuốc
vẫn phổ biến và vẫn không đợc kiểm soát. Sự
gia tăng số lợng các cơ sở y tế t nhân cho thấy
yêu cầu trớc mắt phải có những quy định đối
với khu vực t nhân nhằm quản lý chất lợng
khám chữa bệnh ở khu vực này. Trong một hệ
thống y tế đáp ứng, nó không chỉ giải quyết chi
phí thảm họa mà còn tránh đợc nhng chi phí
không cần thiết do việc sử dụng thuốc và các xét
nghiệm đắt tiền tại các phòng khám t không
đợc kiểm soát chặt chẽ (Tuấn và cộng sự,
2005).
Các nhà hoạch định chính sách cần duy trì
những thành tựu đã đạt đợc và đổi mới t duy
để cải tổ hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu
theo hớng xã hội hóa dịch vụ y tế để đáp ứng
mong đợi ngày càng tăng của ngời dân, kể cả
những ngời nghèo. Đây cũng chính là một
thách thức lớn đối với mục tiêu toàn dân đợc
chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam trong giai đoạn
tới.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về công tác xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, kiểm tra chất lượng và xây dựng định mức trang thiết bị y tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công tác xây dựng và á p dụng tiêu chuẩn
Trang thiết bị y tế là loại hàng hóa đặc biệt,
ứng dụng các thành tựu mới nhất của các ngành
khoa học công nghệ cao và yêu cầu khắt khe về
tính ổn định và an toàn nên công tác xây dựng và
áp dụng tiêu chuẩn đã rất được quan tâm, chú
trọng. Trong nhiều năm qua, Bộ Y tế đã phối hợp
chặt chẽ với Trung tâm Tiêu chuẩn chất lượng (Bộ
Khoa học và Công nghệ) xây dựng và ban hành
các tiêu chuẩn ngành (TCN) và tiêu chuẩn Việt
Về CÔNG TáC XÂY DựNG, áP DụNG TIÊU CHUẩN, KIểM TRA
CHấT LƯợNG Và XÂY DựNG ĐịNH MứC TRANG THIếT Bị Y Tế
1
ThS. Nguyễn Minh Tuấn
- Tầng I: Luật
- Tầng II: Các văn bản pháp quy kỹ thuật bao
gồm các văn bản pháp lệnh, nghị định, quyết
định của Chính phủ và Bộ chuyên ngành-quy
định nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn... của các
tổ chức hoạt động trong lĩnh vực Trang thiết bị y
tế.
- Tầng III: Các Tiêu chuẩn Quốc gia
- Tầng IV: Các Quy chuẩn quốc gia
- Tầng V: Các Tiêu chuẩn cơ sở
Cho đến nay, Bộ Y tế đã xây dựng, công bố và
ban hành các Tiêu chuẩn lĩnh vực trang thiết bị y
tế nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động sản
xuất, kinh doanh, đầu tư khai thác sử dụng và
quản lý trong giai đoạn hiện nay. Đã xuất bản bộ
tuyển tập tiêu chuẩn TCVN-TCN về trang thiết
bị y tế phục vụ cho các đơn vị, cơ sở y tế.
Nam (TCVN) trong lĩnh vực trang thiết bị y tế.
Những loại trang thiết bị có cấp số đăng ký,
có tiêu chuẩn đã được sản xuất, cung ứng và sử
dụng trong ngành y tế, các cơ sở sản xuất trang
thiết bị y tế đều có tiêu chuẩn cơ sở cho từng loại
sản phẩm, kể cả sản phẩm thiết bị bệnh viện.
Hệ thống tài liệu kỹ thuật phục vụ trong công
tác quản lý chất lượng, tiêu chuẩn được xây
dựng trên các cơ sở cấu trúc pháp lý và theo các
quy định mới:
Quy chuẩn quốc gia
I
II
III
IV
V
Luật
Các văn bản pháp quy kỹ thuật
Tiêu chuẩn quốc gia
Tiêu chuẩn cơ sở
Các tiêu chuẩn (TCN-TCVN) đã được phổ
biến á p dụng kịp thời cho tất cả các đối tượng có
liên quan: nhà sản xuất, kinh doanh; cơ sở y tế sử
dụng và các đơn vị quản lý trong mạng lưới y tế
toàn quốc thông qua các Hội nghị phổ biến tiêu
chuẩn, Hội nghị bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng hàng năm. Việc thông tin, phổ biến áp
dụng kịp thời này đã tạo được mối thống nhất
giữa các cơ quan quản lý, các nhà sản xuất và
người sử dụng trong phạm vi toàn quốc. Trên cơ
sở đó, các nhà sản xuất đã bám sát các tiêu
chuẩn để sản xuất ra các sản phẩm đạt tiêu
chuẩn kỹ thuật, có chất lượng đưa vào lưu thông;
các cơ sở y tế, bệnh viện có căn cứ để mua được
các trang thiết bị đúng yêu cầu kỹ thuật, có tính
1
Vụ trưởng Vụ Trang thiết bị và Công trình Y tế
40
Diễn đàn chính sách y tế
năng tác dụng phù hợp với điều kiện sử dụng và
giá cả hợp lý; hoạt động sản xuất, kinh doanh và
đầu tư mua sắm, sử dụng trang thiết bị y tế đi vào
nề nếp, đúng quy định.
Công tác kiểm định hiệu chuẩn và kiểm tra
chất lượng trang thiết bị y tế
Công tác kiểm định, hiệu chuẩn máy thiết bị
y tế cũng đã được triển khai tại nhiều cơ sở y tế,
thực hiện với sự uỷ quyền của cơ quan có thẩm
quyền thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Thực
hiện việc kiểm tra chất lượng trang thiết bị y tế
lưu thông trên thị trường trong nước và hàng hoá
nhập khẩu được thực hiện theo Quyết định số
50/2006/QĐ-TTg ngày 07/03/2006 của Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã xây dựng các tiêu
chí kỹ thuật theo yêu cầu và tổ chức thực hiện.
Đã kiểm định được nhiều chủng loại thiết bị:
máy X-quang các loại; hệ thống chụp cắt lớp vi
tính CT-scanner; máy điện tim và nhiều thiết bị
y tế khác như máy thở, máy gây mê, máy làm
giàu oxy, máy siêu âm...
Trong nhiều năm qua, Bộ Y tế đã chỉ đạo,
giao nhiệm vụ cho Viện Trang thiết bị và Công
trình y tế (TTB&CTYT) làm đầu mối trong công
tác kiểm tra, kiểm định, hiệu chuẩn thiết bị y tế
cũng đã được triển khai tại nhiều cơ sở y tế do
Viện TTB&CTYT thực hiện dưới sự uỷ quyền
của cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Khoa học
và Công nghệ. Tuy nhiên, công tác kiểm định và
hiệu chuẩn TTBYT vẫn còn nhiều khó khăn do
chưa được đầu tư đúng mức về cả đội ngũ con
người và thiết bị. Phòng kiểm chuẩn thuộc Viện
TTB&CTYT không thể đáp ứng yêu cầu của cả
nước, nhất là trong điều kiện số lượng và chủng
loại TTBYT được đầu tư ngày một tăng, nguồn
nhập khẩu TTBYT đến từ nhiều nước.
Theo Chỉ thị số 01/2003/CT-BYT ngày
13/06/2003 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc tăng
cường công tác quản lý TTBYT, đơn vị được
phép dành từ 5 đến 7% kinh phí thưòng xuyên
được cấp hàng năm cho hoạt động mua sắm tài
sản cố định để thực hiện công tác kiểm chuẩn,
bảo hành, bảo dưỡng và sửa chữa trang thiết bị y
tế tại các đơn vị. Song hoạt động này tại nhiều cơ
sở y tế gần như chưa được quan tâm, thủ trưởng
các đơn vị chưa chỉ đạo trong việc sử dụng đúng
mục đích và chọn các cơ sở dịch vụ kỹ thuật
thiết bị y tế đủ năng lực và có chức năng hành
nghề để thực hiện các hoạt động bảo dưỡng, sửa
chữa thiết bị, đảm bảo thiết bị đã được trang bị
hoạt động tốt, an toàn cho bệnh nhân và người
sử dụng thiết bị, đảm bảo kết quả chính xác
trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
Để củng cố và phát triển Viện Trang thiết bị
và Công trình y tế, Bộ Y tế đã chỉ đạo Viện xây
dựng đề án chuyển đổi sang hoạt động theo mô
hình Nghị định 115 của Chính phủ, phát triển
đội ngũ cán bộ, năng lực để tự chủ đảm đương
nhiệm vụ chính trị: phối hợp xây dựng các quy
trình, quy chuẩn kỹ thuật; kiểm định, kiểm
chuẩn TTBYT; chuyển giao ứng dụng công
nghệ TTBYT... và khẩn trương xây dựng đề án
phối hợp với Tổng Cục Tiêu chuẩn Đo lường
chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ) hình
thành, phát triển thêm một số cơ sở đủ khả năng,
cơ sở vật chất, thiết bị, con người và được uỷ
quyền thực hiện công tác kiểm định, kiểm
chuẩn TTBYT, trước mắt tại TP. Hồ Chí Minh và
Đà Nẵng để phục vụ cho khu vực phía Nam và
các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên.
Xây dựng định mức, danh mục trang thiết
bị y tế
Triển khai Quyết định 47/2008/QĐ-TTg
ngày 02/04/2008 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Y tế đã ban hành Quyết định số 3333/QĐ-BYT
ngày 08/09/2008 và Quyết định số 437/QĐ-
BYT ngày 20/02/2002 ban hành danh mục trang
thiết bị y tế thiết yếu phục vụ triển khai đề á n đầu
tư xây dựng cải tạo nâng cấp bệnh viện đa khoa
huyện, bệnh viện đa khoa khu vực liên huyện,
phòng khám đa khoa khu vực sử dụng trái phiếu
Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai
đoạn 2008-2010 với các quy mô giường bệnh
khác nhau để hướng dẫn các đơn vị làm căn cứ
xây dựng định mức đầu tư, phát huy hiệu quả sử
dụng thiết bị tại cơ sở.
Hiện nay Bộ Y tế đang phối hợp với các đơn
vị liên quan rà soát, sửa đổi quy định về danh
mục trang thiết bị y tế các tuyến và chuẩn bị ban
hành để hướng dẫn các đơn vị áp dụng cho phù
hợp với giai đoạn hiện nay.
41
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
o với các nước đang phát triển khác có cùng
Smức thu nhập đầu người, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực điều
trị cũng như y tế dự phòng. Tỷ lệ tử vong mẹ đã
giảm rõ rệt từ 200/100.000 trẻ đẻ sống năm
1990 xuống còn 115/100.000 trẻ đẻ sống vào
năm 2006. Hơn 90% phụ nữ sinh con được hỗ
trợ bởi các cán bộ y tế, 91% trẻ Việt Nam dưới 5
tuổi đã được tiêm chủng (Bộ Y tế, 2007). Những
thành tựu đó đã cho thấy chúng ta đã thực hiện
thành công các chính sách, các chương trình y tế
của Chính phủ cũng như hệ thống chăm sóc sức
khỏe ban đầu đã hoạt động hiệu quả chức năng,
giúp cho phần lớn người dân tiếp cận được các
dịch vụ y tế. (Nguyễn Minh và cộng sự, 1998).
Sự thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội
theo định hướng kinh tế thị trường từ cuối những
năm 1980 đã đặt ra nhiều thách thức cho ngành
y tế. Mặc dù mục tiêu hàng đầu là để mọi người
dân có thể tiếp cận với các dịch vụ y tế có chất
lượng, nhưng việc chuyển đổi nền kinh tế cũng
như việc cho phép y tế tư nhân hoạt động đã góp
phần tạo ra chi phí “thảm họa” về y tế cho các hộ
gia đình và gây nên tình trạng mất công bằng
trong tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh (Khê
và cộng sự., 2003; Dao và cộng sự., 2008;
Nguyen và cộng sự., 2010). Điều này dẫn đến sự
chênh lệch lớn về chỉ số sức khỏe và độ bao phủ
giữa các vùng miền, các nhóm thu nhập và
nhóm dân tộc khác nhau (Bộ Y tế 2004, Bộ Y tế
2007).
Hệ thống y tế Việt Nam có 4 tuyến: tuyến là
Bộ Y tế và các bệnh viện trung ương, tuyến tỉnh
là Sở Y tế và Bệnh viện tỉnh, tuyến huyện là
Hệ THốNG CHĂM SóC SứC KHỏE BAN ĐầU
ở VIệT NAM - CảI CáCH Để ĐạT MụC TIÊU
TOàN DÂN ĐƯợC KHáM CHữA BệNH
TS. Ngô Đức Anh
Trung tâm y tế huyện và Bệnh viện huyện, tuyến
xã là Trạm y tế xã. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe
ban đầu được hình thành sau năm 1954 ở miền
Bắc và 1975 ở miền Nam nhằm “đưa dịch vụ y tế
đến từng thôn bản” để cung cấp dịch vụ miễn
phí cho mọi người dân. Trạm y tế xã được thành
lập ở tất cả các xã và là đơn vị y tế cơ sở của hệ
thống chăm sóc sức khỏe ban đầu. Cả nước có
khoảng 11.000 trạm y tế xã có nhiệm vụ phòng
bệnh và khám chữa bệnh cho người dân địa
phương.
Từ năm 1986, đường lối đổi mới nền kinh tế
theo hướng “mở cửa” của Việt Nam đã có tác
động đến hệ thống y tế. Chính phủ đã bỏ các quy
định cấm hành nghề y tế tư nhân vốn đã tồn tai
trong một thời gian dài để hình thành hệ thống y
tế công - tư kết hợp. Kết quả là số lượng các cơ
sở y tế tư nhân đã tăng lên nhanh chóng, ngày
càng cạnh tranh với hệ thống y tế công (Tuấn và
cộng sự, 2005). Hơn nữa, chính phủ Việt Nam
cũng bắt đầu thực hiện chính sách thu viện phí
thay vì miễn phí như thời gian trước. Người
bệnh có thể đến thẳng các bệnh viện công ở
tuyến trên mà không cần phải có giấy chuyển
viện của tuyến dưới. Vì thế nếu người bệnh có
khả năng chi trả thì họ có thể có nhiều sự lựa
chọn.
Trong khi chính sách viện phí thường được
áp dụng ở các bệnh viện huyện, tỉnh và bệnh
viện trung ương thì các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe ban đầu ở trạm y tế xã lại được nhà nước
bao cấp toàn bộ hoặc một phần. Do nguồn lực có
hạn mà khả năng đầu tư cơ sở vật chất và nguồn
nhân lực của các trạm y tế xã bị hạn chế. Cơ chế
42
Diễn đàn chính sách y tế
bao cấp áp dụng tại tuyến xã đã dẫn đến tình
trạng trạm y tế xã (TYTX) chỉ chú ý đến việc đặt
chỉ tiêu về số lượng người sử dụng dịch vụ mà ít
chú ý đến việc tuân thủ các quy định chuyên
môn và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Kết quả là,
dịch vụ của TYTX được cho là có chất lượng
thấp do trình độ cán bộ có hạn, trang thiết bị lạc
hậu, và thuốc men không đầy đủ (Bộ Y tế, Tổ
chức Y tế Thế giới, 2007). Điều này dẫn đến tình
trạng nhiều bệnh nhân, kể cả những người chỉ
mắc các bệnh thông thường cũng phải tìm đến
các cơ sở y tế tư nhân hoặc tới các cơ sở y tế
tuyến trên thay vì đến trạm y tế xã. Hai cuộc
điều tra mức sống toàn quốc năm 2004 và 2006
cho thấy tỉ lệ bệnh nhân ngoại trú thấp nhất ở
trạm y tế xã (22.1% năm 2004, 23.4% năm
2006) so với bệnh viện nhà nước (25.2% năm
2004, 29.9% năm 2006) hoặc các phòng khám
tư nhân (42.8% trong 2004, 34.6% trong 2006)
(Tổng cục Thống kê, 2007). Tình trạng tự mua
thuốc điều trị cũng rất phổ biến (Khê và cộng sự,
2002). Tất cả những yếu tố trên dẫn đến dịch vụ
CSSKBD tại TYTX ít được sử dụng.
Chính sách tự do hóa nền kinh tế và cho phép
y tế tư nhân hoạt động đã gặp phải một số vấn đề
do mong đợi của người dân vào một nền y tế có
chất lượng tốt hơn và yêu cầu hỗ trợ cho người
nghèo và cận nghèo. Mô hình chăm sóc sức khỏe
ban đầu mà không chú ý đến việc nâng cao chất
lượng dù miễn phí cũng không còn là sự lựa chọn
của nhiều người dân nữa. Nhu cầu về chăm sóc
sức khỏe có chất lượng (không phải chờ đợi, thầy
thuốc giỏi, có nhiều lựa chọn về công nghệ và
điều trị) ngày càng tăng lên. Người dân ít sử dụng
dịch vụ tại TYTX ở gần bệnh viện là do họ có thể
tự đi khám chữa bệnh ở bệnh viện mà không cần
giấy chuyển viện của TYTX. Sự sẵn có các dịch
vụ y tế cơ bản ở mọi tuyến có thể làm người bệnh
có nhiều sự lựa chọn hơn. Tuy nhiên, yêu cầu về
chất lượng đang dẫn đến việc lạm dụng kỹ thuật
cao với chi phí đắt đỏ hơn mức cần thiết tại các cơ
sở y tế. Chi phí này vượt quá khả năng chi trả của
nhiều người, nhất là người nghèo, làm giảm sự
tiếp cận của họ với dịch vụ y tế.
Nguồn lực khan hiếm đã gây ra mâu thuấn
giữa yêu cầu tăng độ bao phủ và cải thiện chất
lượng. Với việc tiếp cận với các dịch vụ y tế thấy
thế làm giảm nhu cầu dịch vụ tại TYTX, lựa chọn
dịch vụ phù hợp cho TYTX là cần thiết. Sự bao
phủ cần phải được đánh giá lại theo nhu cầu của
từng địa phương cụ thể. Những trạm y tế xã nào
hoạt động kém (chẳng hạn không đảm bảo an
toàn và vệ sinh cho người bệnh) cần phải được
nâng cấp ngay, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa
nơi mà người dân vẫn phụ thuộc vào trạm y tế xã
(Nguyên và cộng sự, 2009). Việc để cho cơ sở y
tế tuyến trên cạnh tranh với các cơ sở CSSKBĐ rõ
ràng là không hiệu quả, và các trạm y tế gần bệnh
viện cần phải được bảo vệ bởi chế độ khám chữa
bệnh theo tuyến hoặc là sát nhập vào bệnh viện
gần đó.
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy việc
chi trả viện phí cho trạm y tế xã sẽ ảnh hưởng
tiêu cực tới việc sử dụng những trạm y tế này và
gây ra gánh nặng tài chính cho người nghèo
những người vẫn đến khám chữa bệnh ở đây
(Khê và cộng sự., 2002; Dao và Waters, 2008).
Dù sao, coi việc cung cấp các dịch vụ miễn phí
như là công cụ để đẩy mạnh quá trình chăm sóc
sức khỏe toàn dân mà không đi đôi với nâng cao
chất lượng đã gây ra những tác động tiêu cực.
Bệnh nhân không coi trọng dịch vụ chất lượng
thấp “miễn phí” mà ngày càng quan tâm tới chất
lượng dịch vụ. (Ngô và cộng sự, 2009a; Ngô và
cộng sự, 2009b). Thời gian chờ đợi kéo dài, kê
đơn thuốc không phù hợp và điều trị không hiệu
quả không những làm người bệnh không hài
lòng, làm giảm lòng tin của người bệnh vào trạm
y tế xã mà còn gây ra những tác hại về mặt tâm lý
cho người bệnh nếu họ không được điều trị hoặc
điều trị không đầy đủ. Trên thực tế, nhiều bệnh
nhân đi khám ở bác sĩ tư khi mắc các bệnh mà
TYTX có thể xử lý được cho thấy thu một phần
phí dịch vụ nằm trong khả năng chi trả để nâng
cao chất lượng dịch vụ có thể đáp ứng tốt hơn
nhu cầu người dân, những người không có khả
năng chi trả cho dịch vụ ở bệnh viện hoặc phòng
khám tư.
43
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Các nhà hoạch định chính sách cần thấy rằng
việc đẩy mạnh khả năng tiếp cận với các dịch vụ
khám chữa bệnh phải song hành với nâng cao
chất lựong. Việc cắt giảm bao cấp của nhà nước
phải đi đôi với việc xây dựng một phương thức
chi trả cho các trạm y tế xã để lấy kinh phí nâng
cao chất lượng dich vu. Cần phải mở rộng Bảo
hiểm y tế để đảm bảo kinh phí cho việc đảm bảo
chất lượng dịch vụ. Hơn nữa, nên lựa chọn thu
viện phí ở một mức có thể chấp nhận được nhằm
đảm bảo chất lượng dịch vụ. Mô hình Nhượng
quyền xã hội trong y tế đã được thử nghiệm tại
một số TYTX ở Đà Nẵng và Khánh Hòa và đã
thành công trong việc làm tăng sử dụng dịch vụ
nhờ các chương trình tiếp thị xã hội, cải thiện
chất lượng phục vụ, xây dựng khung phí dịch vụ,
và thực hiện chế độ khen thưởng cho cán bộ (Ngô
và cộng sự, 2010; Ngô và cộng sự, 2009a). Trong
bất cứ trường hợp nào, đầu tư vào cơ sở hạ tầng,
thiết bị y tế, phát triển nguồn nhân lực trong giai
đoạn ban đầu sẽ luôn là điều cần làm trước khi
trạm y tế có thể sử dụng kinh phí từ nguồn thu
viện phí để nâng cao chất lượng dịch vụ.
Hệ thống y tế hiện nay khá đa dạng, trong đó
tình trạng tự điều trị, tự mua thuốc ở hiệu thuốc
vẫn phổ biến và vẫn không được kiểm soát. Sự
gia tăng số lượng các cơ sở y tế tư nhân cho thấy
yêu cầu trước mắt phải có những quy định đối
với khu vực tư nhân nhằm quản lý chất lượng
khám chữa bệnh ở khu vực này. Trong một hệ
thống y tế đáp ứng, nó không chỉ giải quyết chi
phí thảm họa mà còn tránh được nhưng chi phí
không cần thiết do việc sử dụng thuốc và các xét
nghiệm đắt tiền tại các phòng khám tư không
được kiểm soát chặt chẽ (Tuấn và cộng sự,
2005).
Các nhà hoạch định chính sách cần duy trì
những thành tựu đã đạt được và đổi mới tư duy
để cải tổ hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu
theo hướng xã hội hóa dịch vụ y tế để đáp ứng
mong đợi ngày càng tăng của người dân, kể cả
những người nghèo. Đây cũng chính là một
thách thức lớn đối với mục tiêu toàn dân được
chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam trong giai đoạn
tới.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Bertrand JT, Hardee K, Magnani RJ, et al. 1995. Access, quality of care, medical barriers in
family planning program. International Family Planning Perspectives 21: 64-74.
2. Dao HT, Waters H, Le QV. 2008. User fees and health service utilization in Vietnam: How to
Protect the Poor? Public Health 122: 1068-78.
3. Duong DV,Lee AH, Binns CW. 2005. Measuring preferences for delivery services in rural
Vietnam. Birth 32: 194-202.
4. Fritzen S. 2007. Legacies of primary healthcare in an age of health sector reform: Vietnam's
commune clinics in transition. Social Science & Medicine 64: 1611-23.
5. General Statistics Office. (2007). Results of the Vietnam household living standards survey
2006. Statistics Publishing House: Hanoi
6. Khe D, Xuan L, Eriksson B, et al. 2002. Primary health concept revisited: Where do people
seek healthcare in a rural area of Vietnam. Health Policy 61: 95-109.
7. Ministry of Health. 2002. National Standards and Guidelines for Reproductive Healthcare
Services. Hanoi; Ministry of Health.
44
Diễn đàn chính sách y tế
8. Ministry of Health. 2002. The National Strategy for Reproductive Health for the 2001-2010
Period. Hanoi; Ministry of Health.
9. Ministry of Health. 2004. Vietnam 2003 National Health Survey. Hanoi; Ministry of Health.
10. Ministry of Health. 2007. Health Statistics Yearbook, 2006. Hanoi; Ministry of Health.
11. Ministry of Health,WHO. 2007. Policy Options for the Renovation and Improvement of the
Health System towards Equity, Efficiency and Development. Hanoi.
12. Montagu D. 2002. Franchising of Health Services in Low-Income Countries. Health Policy
and Planning 17: 121-30.
13. Ngo A, Alden D, Pham V, et al. 2010. The Impact of Social Franchise on the Use of
Reproductive Health and Family Planning Services at Commune Health Stations in Vietnam.
BMC Health Services Research. In press
14. Ngo A, Phan H, Pham V, et al. 2009a. Impacts of a Government Social Franchise Model on
Perceptions of Service Quality and Client Satisfaction at Commune Health Stations in
Vietnam. Journal of Development Effectiveness 1: 413-429.
15. Ngo AD, Alden D, Dinh N, et al. 2009b. Developing and Launching a Government Social
Franchise Model of Reproductive Healthcare Service Delivery in Vietnam. Social Marketing
Quarterly 15: 71-89.
16. Nguyen Minh T, Johnson BR, Landry E, et al. 1998. Client perspectives on quality of
reproductive health services in Viet Nam. Asia-Pacific Population Journal 13: 33-54.
17. Nguyen P, Hanh D, Lavergne MR, et al. 2009. The Effect of a Poverty Reduction Policy and
Service Quality Standards on Commune-Level Primary Healthcare Utilization in Thai
Nguyen Province, Vietnam. Health Policy and Planning. Advanced access.
18. Rama Rao S,Mohanam R. 2003. The Quality of Family Planning Programs: Concepts,
Measurements, Interventions and Effects. Studies in Family Planning 34: 227-48.
19. Tuan T, Dung VT, Neu I et al. 2005. Comparative Quality of Private and Public Health Services
in Rural Vietnam. Health Policy and Planning 20: 319-27.
45
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ve_cong_tac_xay_dung_ap_dung_tieu_chuan_kiem_tra_chat_luong.pdf