Liên quan đến xung đột thẩm quyền và
công nhận, cho thi hành các quyết định dân
sự nước ngoài: Nội dung này được quy định
chủ yếu trong Bộ luật TTDS 2004 (Phần thứ
9 và Phần thứ 6) cũng như Công ước New
York năm 1958 về công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài. Việc pháp điển hóa
các quy định này vào trong một đạo luật
(hoặc bộ luật) không đặt ra nhiều khó khăn.
Việc khiếm khuyết một số quy định
chuyên biệt đòi hỏi phải pháp điển hóa về nội
dung: Hiện nay, xung đột pháp luật trong
nhiều lĩnh vực chuyên biệt (HNGĐ, đầu tư,
sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, phá sản, hành vi pháp lý đơn
phương, ủy thác ) vẫn chưa được quy định
hoặc có quy định nhưng chưa phù hợp. Các
quy định về thẩm quyền tài phán quốc tế của
Tòa án Việt Nam hiện nay cũng đang được
nghiên cứu sửa đổi. Việc xây dựng các quy
định mới và sửa đổi một số quy định hiện
hành và pháp điển chúng vào trong một Bộ
luật là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việt Nam cần xây dựng luật tư pháp quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIÏåT NAM CÊÌN XÊY DÛÅNG LUÊÅT TÛ PHAÁP QUÖËC TÏË
NGÔ QUỐC CHIẾN*
1. Sự cần thiết ban hành một đạo luật về
tư pháp quốc tế
Việc ban hành một đạo luật về TPQT tuy
gặp một số khó khăn1, nhưng cho phép giải
quyết được nhiều vấn đề hiện nay.
1.1. Hiện trạng tư pháp quốc tế của Việt
Nam và một số nước
Ngoài các nguyên tắc chung trong Hiến
pháp Việt Nam năm 2013, các quy định của
pháp luật trong nước hiện hành mang tính
nền tảng điều chỉnh các quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài được thể hiện tại Phần thứ
7 của Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005, Phần thứ
6 và Phần thứ 9 Bộ luật Tố tụng Dân sự
(TTDS) 2004 (sửa đổi năm 2011). Bên cạnh
đó, còn tồn tại nhiều văn bản luật cũng điều
chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài,
như Luật Hôn nhân và Gia đình (HNGĐ)
2014, Luật Đầu tư 2014, Luật Doanh nghiệp
2014, Bộ luật Lao động 2012, Luật Nuôi con
nuôi 2010, Bộ luật Hàng hải 2005, Luật
Hàng không dân dụng Việt Nam 2006, Luật
Thương mại 2005, Luật Người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
2006 Cấu thành các quy định của TPQT
Việt Nam còn có các văn bản dưới luật, như
Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo
hình thức đối tác công tư; Nghị định số
138/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
34 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
* TS. Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương.
1 Xem chẳng hạn: Bành Quốc Tuấn, Không ban hành đạo luật TPQT: Xu thế tất yếu của TPQT Việt Nam trong giai đoạn sắp
tới, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 5 (285), tháng 3/2015, tr. 23-30.
Hiện nay, các quy phạm cấu thành tư pháp quốc tế (TPQT) của Việt
Nam còn nằm rải rác, có sự chồng chéo và chứa đựng một số mâu
thuẫn. Không những thế, các văn bản có quy định về vấn đề này thường
xuyên thay đổi, làm cho việc tiếp cận tổng thể các văn bản đã khó, việc
hiểu và áp dụng các quy định trong các văn bản này còn khó hơn.
Chúng tôi cho rằng, chúng ta có thể giải quyết các vấn đề trên thông
qua việc xây dựng một đạo luật về TPQT để vừa loại bỏ các chồng chéo,
mâu thuẫn, vừa sửa đổi, bổ sung các quy định cho phù hợp hơn. Bài
viết phân tích sự cần thiết xây dựng một đạo luật về TPQT và đề xuất
phạm vi điều chỉnh của đạo luật này.
các quy định của BLDS về quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài; Nghị định số
29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 quy định về
khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh
tế (sửa đổi, bổ sung năm 2013) Hiện nay,
có ít nhất 63 văn bản pháp luật của Việt Nam
chứa đựng các quy phạm điều chỉnh quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài.
Đây cũng là thực trạng không chỉ của
riêng Việt Nam mà còn của rất nhiều nước
trên thế giới2. Nhiều quốc gia đã cố gắng giải
quyết vấn đề này thông qua hai cách:
Thứ nhất, tham gia các điều ước quốc tế
Ở quy mô quốc tế, số lượng các điều ước
quốc tế (ĐƯQT) về TPQT chưa nhiều. Hội
nghị La Hay về TPQT kể từ khi được tổ chức
lần đầu tiên năm 1893 cho tới nay mới thông
qua được 40 công ước và nghị định thư3. Tuy
nhiên, không phải tất cả các công ước này
đều thành công, một số thậm chí còn chết
yểu (do không được các quốc gia phê chuẩn)
và hơn một phần tư chưa có hiệu lực. Trong
số các công ước đã có hiệu lực, thì một vài
trong số chúng lại chỉ có hiệu quả rất hạn
chế. Một nghiên cứu do các giáo sư Bỉ4 thực
hiện đã cho thấy, liên quan đến các công ước
quốc tế về xung đột luật được xây dựng trong
khuôn khổ của Hội nghị La Hay, trung bình
mỗi công ước chỉ có 8 quốc gia tham gia.
Còn liên quan đến ĐƯQT về xung đột thẩm
quyền xét xử và công nhận, cho thi hành
quyết định dân sự nước ngoài, tỷ lệ các quốc
gia phê chuẩn cao hơn, nhưng cũng chỉ đạt
trung bình khoảng 40. Những công ước quốc
tế được nhiều quốc gia tham gia nhất là
những công ước có phạm vi rất hẹp, chủ yếu
liên quan đến vấn đề hôn nhân, gia đình và
TTDS5.
Ở cấp độ khu vực, Liên minh châu Âu
đã thông qua một số ĐƯQT thống nhất luật
thực chất để điều chỉnh trong EU một số
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, nhưng
phần lớn trong số các ĐƯQT này điều chỉnh
vấn đề xung đột thẩm quyền xét xử. Về xung
đột pháp luật, EU có ba văn bản đáng chú ý
là Nghị định số 593/2008 về luật áp dụng cho
các nghĩa vụ hợp đồng (thường được gọi tắt
là Nghị định Rome I); Nghị định số
864/2007 ngày 31/7/2007 về luật áp dụng
cho các nghĩa vụ ngoài hợp đồng (thường
được gọi tắt là Nghị định Rome II) và Nghị
định số 1259/2010 ngày 20/12/2010 về luật
áp dụng cho ly hôn và ly thân (thường được
gọi tắt là Nghị định Rome III).
Trong xu thế hội nhập quốc tế, Việt Nam
cũng đã tích cực tham gia xây dựng, ký kết
các ĐƯQT để điều chỉnh các quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các ĐƯQT
mà Việt Nam là thành viên chủ yếu là các
ĐƯQT song phương, thể hiện dưới dạng
hiệp định tương trợ tư pháp (15 hiệp định,
thỏa thuận), hiệp định về nuôi con nuôi (đã
ký kết hơn 10 hiệp định), hiệp định về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư (hơn 60 Hiệp
định) và các hiệp định thương mại6. Trong số
các ĐƯQT đa phương, chúng ta mới chỉ
tham gia Công ước La Hay số 33 về Bảo vệ
trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi quốc tế, Công ước quốc tế New York
năm 1958 về Công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài. Như vậy, số
ĐƯQT mà chúng ta tham gia chưa nhiều.
35NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
2 Sylvette Guillemard và Alain Prujiner, La codification internationale du droit international privé: un échec? (Pháp điển hóa
TPQT trên quy mô quốc tế: một thất bại?), Les Cahiers de droit, vol. 46, n° 1-2, 2005, tr. 175-192.
3 Truy cập ngày 26/7/2015.
4 Báo cáo đề xuất Luật ban hành Bộ luật TPQT, tác giả: giáo sư M JNyssens và M. Willems, Cơ quan chủ trì Ủy ban Pháp
luật Thượng viện Bỉ, công bố tháng 7 năm 2003.
5 C. Kessedjian, La codification en droit international privé, (pháp điển hóa TPQT), Hội thảo Aix-en-Provence, Nxb Pedone,
1998, tr. 101-107.
6 Báo cáo của Vụ Pháp luật Quốc tế, Bộ Tư pháp, giải trình việc sửa đổi phần 7 BLDS 2005.
Bản thân các ĐƯQT mà chúng ta tham gia
cũng chỉ có phạm vi rất hẹp, chưa cho phép
giải quyết triệt để tất cả các vấn đề của
TPQT. Rõ ràng là, giải quyết các vấn đề của
TPQT không thể chỉ dựa vào việc tham gia
các ĐƯQT vốn rất mất thời gian và chứa
đựng nhiều nhược điểm (rất khó đạt được
đồng thuận do khác biệt về thể chế chính trị,
kinh tế - xã hội, vấn đề chủ quyền quốc
gia...).
Thứ hai, xây dựng các đạo luật hoặc bộ
luật về TPQT
Do cách giải quyết thứ nhất không mang
lại nhiều hiệu quả, nên giải pháp phổ biến
hiện nay vẫn là xây dựng các quy phạm quốc
gia điều chỉnh TPQT. Nhiều quốc gia đã
pháp điển hóa các quy phạm rải rác vào trong
một luật hoặc bộ luật về TPQT: Ở châu Á
có Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn
Quốc, Thái Lan; ở châu Đại Dương có Úc; ở
châu Âu có Bỉ, Italy, Thụy Sỹ, Hà Lan, Đức,
Áo, Liechtenstein, Ucraina, Ba Lan, Séc,
Bulgarie, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel; ở châu Mỹ
có Venezuela. Ở châu Phi có Tunisie.
Đúng là số lượng các quốc gia có một
đạo luật hoặc Bộ luật về TPQT còn chưa
nhiều (21 trong tổng số gần 200 quốc gia trên
thế giới), nhưng xu hướng này đang gia tăng
và xuất hiện ở khắp các châu lục. Nhiều quốc
gia đã và đang xây dựng các dự án luật về
TPQT. Ở Pháp đã từng có ba dự án luật về
TPQT, đó là: Dự án Luật TPQT của Niboyet
năm 1953 gồm 113 điều với phạm vi điều
chỉnh rộng; Dự án Luật TPQT của Batifol
năm 1959 cũng có phạm vi điều chỉnh rộng,
nhưng chỉ nêu các nguyên tắc chung nhất
(gồm 21 điều); Dự án Luật TPQT của Foyer
năm 1967 có phạm vi điều chỉnh hẹp (37
điều). Tất cả các dự án này tuy đều thất bại,
nhưng cũng cho thấy một mong muốn có
thực về việc xây dựng một đạo luật về TPQT.
Lý giải cho sự thất bại này là TPQT Pháp chủ
yếu dựa trên án lệ. Các văn bản quy phạm
pháp luật cấu thành TPQT Pháp không nhiều
(điều 3, 14, 15 BLDS, các điều 42 và tiếp theo
của Bộ luật TTDS, một số văn bản luật
chuyên ngành và ĐƯQT). Các văn bản này
được xây dựng đã lâu nên không còn phù hợp
để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài vốn đang ngày càng đa dạng và
phức tạp do quá trình toàn cầu hóa không chỉ
nền kinh tế mà cả văn hóa, xã hội Pháp. Chính
vì thế, để bổ khuyết cho sự thiếu hụt của văn
bản, Tòa tối cao Pháp (Cour de Cassation) đã
đưa ra nhiều bản án có tính chất hướng dẫn
các tòa cấp dưới áp dụng các quy phạm pháp
luật chung vốn dành để điều chỉnh các quan
hệ quốc nội của Pháp để điều chỉnh quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài. Như vậy, không
giống như TPQT Việt Nam vốn cấu thành từ
nhiều văn bản quy phạm pháp luật, TPQT
của Pháp được cấu thành chủ yếu từ các án
lệ, mà các án lệ lại không ổn định trong thời
gian. Chính điều này đã làm cho các nỗ lực
pháp điển hóa án lệ thành một bộ luật TPQT
đã tạm thời không thành công tại Pháp7.
Ở châu Âu, một nghiên cứu do Ủy ban
về các vấn đề pháp luật của EU công bố ngày
11/10/20128 cho biết, hàng năm các công dân
và doanh nghiệp EU bị thiệt hại gần 140 triệu
euro do sự thiếu vắng, phức tạp, rải rác và
chồng chéo của các quy phạm TPQT của EU.
Nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng, việc
xây dựng một Bộ luật về TPQT trong khuôn
khổ EU là có lợi về kinh tế và sẽ góp phần
thúc đẩy mạnh mẽ hơn giao lưu dân sự quốc
tế. Ủy ban này đã đưa ra khuyến nghị EU xây
dựng một Bộ luật về TPQT.
36 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7 Xem thêm: Paul Lagarde, Sur la non-codification du droit international privé français (Tại sao Pháp không pháp điển hóa
tư pháp quốc tế), LexisNexis, 1998.
8 Báo cáo “Rapport sur le coût de la non-Europe : Un code européen du droit international privé”, mã số: CoNE 3/2013, tác
giả: Blanca Ballester; Cơ quan chủ trì: Ủy ban pháp luật, Nghị viện châu Âu, công bố tháng 3/2013.
1.2. Việt Nam nên có luật riêng về tư
pháp quốc tế
Việc xây dựng một đạo luật về TPQT sẽ
đặt ra một số khó khăn cả về kỹ thuật và nội
dung, nhưng rất cần thiết vì chúng tạo ra
nhiều ưu điểm:
Thứ nhất, TPQT của Việt Nam sẽ dễ tiếp
cận và dễ hiểu hơn, từ đó góp phần giảm chi
phí giao dịch cho các chủ thể. Một trong
những lý do khiến cho các quy định của
TPQT Việt Nam ít được các chủ thể biết đến
và áp dụng là bởi vì chúng nằm rải rác, khó
tiếp cận, khó hiểu, đôi khi chồng chéo và
mâu thuẫn. Việc có một bộ luật tập hợp tất
cả các quy định của TPQT sẽ giúp các chủ
thể dễ tiếp cận hơn, dễ hiểu và dễ có cái nhìn
tổng quát về TPQT. Chính sự thuận lợi này
sẽ giúp các chủ thể giảm được thời gian và
chi phí giao dịch.
Thứ hai, pháp điển hóa TPQT giúp loại
bỏ mâu thuẫn và chồng chéo, tăng độ an toàn
pháp lý, thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế.
Chính việc pháp điển hóa các quy định nằm
rải rác hiện nay vào trong một văn bản luật sẽ
làm cho các quy định này trở nên rõ ràng hơn
và không bị chồng chéo. Pháp điển hóa cũng
là dịp để nhận diện và loại bỏ các mâu thuẫn
đang tồn tại giữa các văn bản hiện hành.
Khi các quy định của TPQT Việt Nam
dễ tiếp cận hơn, rõ ràng và ổn định hơn thì
các đối tác sẽ có niềm tin hơn để thiết lập các
quan hệ dân sự với người Việt Nam và lựa
chọn áp dụng pháp luật Việt Nam. Ngược lại,
người Việt Nam cũng sẽ tự tin hơn khi thiết
lập các quan hệ dân sự với người nước ngoài.
Thứ ba, tăng khả năng thích ứng của
luật. Khi có một đạo luật riêng về TPQT thì
sự sửa đổi, bổ sung các quy phạm của TPQT
cũng được thực hiện dễ dàng hơn. Trong thời
gian qua, việc sửa đổi, bổ sung các quy phạm
của TPQT trong từng văn bản quy phạm
pháp luật được tiến hành một cách riêng rẽ.
Muốn sửa đổi, bổ sung các quy phạm xung
đột trong Luật HNGĐ phải tiến hành sửa đổi
Luật HNGĐ. Muốn sửa đổi, bổ sung các quy
phạm xung đột trong lĩnh vực đầu tư phải
tiến hành sửa đổi Luật Đầu tư. Trong khi đó,
các quy phạm xung đột chỉ chiếm một số
lượng rất nhỏ trong các đạo luật chuyên
ngành nên rất khó để tiến hành sửa đổi một
đạo luật vì sự bất cập của một hay một vài
quy phạm xung đột. Vì vậy, nếu có một đạo
luật tập trung các quy phạm xung đột của
TPQT thì không chỉ nâng cao hiệu quả của
việc điều chỉnh pháp luật, của thực tiễn áp
dụng pháp luật, mà còn dễ dàng hơn cho việc
sửa đổi, bổ sung khi cần thiết.
2. Cấu trúc Luật riêng về tư pháp quốc tế
của Việt Nam
2.1. Phạm vi điều chỉnh của Luật tư
pháp quốc tế ở một số nước
Trong số 21 luật hoặc bộ luật về TPQT
nêu ở trên, thì có 8 luật có phạm vi điều
chỉnh hẹp, 13 bộ luật có phạm vi điều chỉnh
rộng.
Các quốc gia có Luật TPQT có phạm vi
điều chỉnh hẹp, tức chỉ điều chỉnh vấn đề
xung đột pháp luật, là Nhật Bản, Trung
Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Đức,
Hà Lan, Úc. Các lý do được viện dẫn để giải
thích cho phạm vi hẹp của các đạo luật này
là: thứ nhất, xây dựng một Bộ luật TPQT với
phạm vi rộng đòi hỏi một công sức rất lớn
trong pháp điển hóa; thứ hai, gây ra sự xáo
trộn lớn đối với hệ thống pháp luật hiện
hành; thứ ba, một số quốc gia vẫn quan niệm
TPQT có phạm vi hẹp, tức chỉ điều chỉnh vấn
đề xung đột luật. Tuy nhiên, trong các báo
cáo giải trình, các ban soạn thảo luật TPQT
của các quốc gia này cũng để ngỏ, thậm chí
khuyến nghị xây dựng một bộ luật TPQT với
phạm vi rộng hơn9.
37NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
9 Sylvette Guillemard và Alain Prujiner, La codification internationale du droit international privé : un échec? (Pháp điển hóa
TPQT trên quy mô quốc tế: một thất bại?), Les Cahiers de droit, vol. 46, n° 1-2, 2005, tr. 175-192.
Các quốc gia có Bộ luật TPQT với phạm
vi điều chỉnh rộng, tức điều chỉnh cả ba nội
dung cơ bản của TPQT là xung đột pháp luật,
xung đột thẩm quyền tài phán và công nhận,
cho thi hành quyết định dân sự nước ngoài,
là Bỉ, Italy, Thụy Sỹ, Áo, Liechtenstein, Ba
Lan, Ucraina, Séc, Bulgarie, Thổ Nhĩ Kỳ,
Venezuela, Tunisie, Israel.
Bỉ không phải là quốc gia tiên phong tại
châu Âu trong việc xây dựng một Bộ luật về
TPQT với phạm vi rộng, nhưng lại là nước
có một Bộ luật về TPQT được đánh giá là
thành công. Bộ luật TPQT Bỉ được đánh giá
là vừa khiêm tốn vừa tham vọng. Khiêm tốn
vì những người soạn thảo ban đầu là các giáo
sư đại học đã không xây dựng Bộ luật thành
một công trình học thuật kinh điển có tính
cách mạng, lật đổ các nền tảng truyền thống,
mà thành một công cụ có khả năng dễ dàng
áp dụng trong thực tiễn. Tham vọng, vì Bộ
luật đã tập hợp trong một tổng thể thống nhất
các quy định và các nguồn pháp luật rải rác
về TPQT tại Bỉ. Các tác giả cũng đã sử dụng
các cách tiếp cận mới của TPQT hiện đại,
tính đến tính thực tiễn nhiều hơn, thông qua
việc đưa ra các quy định mềm dẻo về xác
định pháp luật áp dụng.
Bộ luật TPQT của Bỉ theo đuổi ba mục
đích chính: rõ ràng, hiện đại, thúc đẩy giao
lưu quốc tế10. Để đạt được mục đích thứ nhất
- văn bản luật phải đủ rõ ràng để mọi người
đều có thể tiếp cận được - Bộ luật đã tập hợp
vào trong một văn bản duy nhất gần như tất
cả các quy định về TPQT của Bỉ, mà trước
đó vốn nằm rải rác trong các văn bản khác
nhau, và viết lại các quy định này theo hướng
đơn giản và dễ hiểu hơn. Ngoài ra, Bộ luật
còn được giải thích bởi các giáo sư hàng đầu
về TPQT và cũng là những người soạn thảo
dự án Bộ luật TPQT. Tất cả các tài liệu giải
trình đều được công bố công khai trên trang
web của Nghị viện Bỉ11.
Để đạt được mục đích thứ hai - văn bản
luật phải hiện đại, đáp ứng được các yêu cầu
của toàn cầu hóa sâu rộng, đặc biệt khi Bỉ là
trung tâm của châu Âu - Bộ luật đã thừa nhận
các hệ thuộc luật được đa số các quốc gia
tiên tiến áp dụng, đặc biệt nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của nguyên tắc về mối liên
hệ gắn bó nhất và coi nơi cư trú/hoạt động
thường xuyên, chứ không phải quốc tịch, là
hệ thuộc luật quan trọng nhất trong các lĩnh
vực về địa vị pháp lý của cá nhân và pháp
nhân. Đồng thời Bộ luật cũng có một số quy
định chuyên biệt cho các loại quan hệ dân sự
mới phát sinh cùng với sự thay đổi của xã
hội, như hôn nhân đồng giới và vấn đề tài sản
chung của những người sống với nhau như
vợ chồng nhưng không có hôn thú... Như
vậy, Bộ luật TPQT Bỉ đã không chỉ là kết quả
của quá trình pháp điển hóa hình thức, mà
còn là kết quả của một quá trình pháp điển
hóa nội dung.
Để đạt được mục đích thứ ba - thúc đẩy
giao lưu dân sự quốc tế - Bộ luật TPQT Bỉ
đã đưa ra nhiều quy định về công nhận mặc
nhiên các quyết định tư pháp nước ngoài và
rộng hơn, các văn bản hoặc hành vi được
thiết lập một cách hợp pháp ở nước ngoài
ngay cả khi không được pháp luật Bỉ quy
định.
Bộ luật TPQT Bỉ điều chỉnh tất cả các
vấn đề đặt ra trong lĩnh vực dân sự và thương
mại có yếu tố nước ngoài cả về xung đột
pháp luật, xung đột thẩm quyền tài phán và
công nhận và thi hành bản án, quyết định dân
sự nước ngoài. Bộ luật bao gồm mười ba
chương chia thành các mục và tất cả các điều
đều được đặt tên riêng để tóm tắt nội dung.
Các quy định chung của TPQT Bỉ được
nêu tại Chương I. Chương này quy định các
nguyên tắc chung xác định các hệ thuộc luật:
quốc tịch, nơi cư trú và nơi sinh sống thường
xuyên (Điều 3 và 4). Sau đó là các quy định
38 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Tài liệu giải trình sáng kiến luật của Thượng viện viện Bỉ số 3-27/1, công bố năm 2003, tr. 3 và tiếp theo.
11 Xem chẳng hạn: publications/viewPub&COLL=S&PUID= 50331657&TID=
50331687&POS =1&LANG=fr
chung về thẩm quyền tài phán dân sự quốc
tế (các điều từ 5 đến 14), xung đột pháp luật
(các điều từ 15 đến 21) và hiệu lực của các
bản án, quyết định dân sự nước ngoài (các
điều từ 22 đến 31)12.
Các nội dung chuyên biệt của TPQT Bỉ
được nêu tại các chương II đến XII quy định
các nguyên tắc xác định pháp luật và xác
định thẩm quyền tài phán và nguyên tắc công
nhận bản án, quyết định dân sự nước ngoài
liên quan đến từng lĩnh vực chuyên biệt: thể
nhân (các điều từ 32 đến 41), HNGĐ (các
điều từ 42 đến 57), quan hệ nhân thân giữa
vợ và chồng (các điều từ 58 đến 60), giữa cha
mẹ và con cái (các điều từ 61 đến 72), nghĩa
vụ cấp dưỡng (các điều từ 73 đến 76), thừa
kế (các điều từ 77 đến 84), tài sản (các điều
từ 85 đến 95), nghĩa vụ (các điều từ 96 đến
108), pháp nhân (các điều từ 109 đến 115),
phá sản doanh nghiệp (các điều từ 116 đến
121) và ủy thác (các điều từ 122 đến 125).
Chương XIII là chương cuối cùng chứa
các quy định chuyển tiếp (Điều 126 và 127),
sửa đổi (các điều từ 128 đến 138) và bãi bỏ
(Điều 139) cũng như các nguyên tắc về thời
gian bắt đầu hiệu lực của Bộ luật (Điều 140).
Các kỹ thuật lập pháp được sử dụng tại
chương này đã giúp cho việc tạo ra một Bộ
luật mới không gây quá nhiều xáo trộn đối
với các văn bản hiện hành.
2.2. Phạm vi điều chỉnh của Luật về tư
pháp quốc tế Việt Nam
Chúng tôi cho rằng, Việt Nam nên xây
dựng luật về TPQT theo phạm vi rộng bởi
xây dựng một đạo luật về TPQT với phạm vi
điều chỉnh hẹp sẽ không có nhiều ý nghĩa và
không giúp chúng ta đạt được các mục đích
đã nêu ở trên. Hơn nữa, các vấn đề xung đột
pháp luật và xung đột thẩm quyền có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau, nên nếu được tập
hợp vào trong cùng một văn bản thì việc hiểu
chúng sẽ dễ dàng hơn. Thật vậy, thông
thường, khi có tranh chấp xảy ra, Tòa án
được yêu cầu giải quyết sẽ xem xét vấn đề
xung đột thẩm quyền trước, sau đó khi đã
xác định được mình có thẩm quyền thì mới
xem xét đến vấn đề áp dụng pháp luật nước
nào. Tuy nhiên, không hiếm trường hợp, Tòa
án phải xác định pháp luật áp dụng trước thì
mới xác định được thẩm quyền của mình.
Ví dụ: Công ty A của Pháp bán cho công
ty B của Việt Nam một số thiết bị y tế. Hàng
được chuyển qua đường biển, từ cảng Mar-
seille đến cảng Hải Phòng. Trong quá trình
vận chuyển một số hàng bị hỏng và hai bên
có tranh chấp. Một bên kiện ra tòa án Việt
Nam còn bên kia phản đối. Trong trường hợp
này, để biết mình có thẩm quyền hay không,
Tòa án Việt Nam phải áp dụng quy phạm
xung đột của Việt Nam. Theo điểm e, khoản
2, Điều 410 Bộ luật TTDS, Tòa án Việt Nam
có thẩm quyền xét xử các “tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ
hoặc một phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ
Việt Nam”. Như vậy, điểm mấu chốt cần
phải xác định là nơi thực hiện hợp đồng.
Theo khoản 2 Điều 284 BLDS, “trong
trường hợp không có thoả thuận thì địa điểm
thực hiện nghĩa vụ dân sự được xác định như
sau: b) Nơi cư trú hoặc trụ sở của bên có
quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ dân sự
không phải là bất động sản”.
Như vậy, trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận về cơ quan tài phán
cũng như pháp luật áp dụng thì để biết Tòa
án nước nào có thẩm quyền theo quy định
trên thì cần phải biết hợp đồng được thực
hiện tại đâu. Vì người mua là bên Việt Nam
và là bên có quyền đối với số hàng có tranh
chấp, nên nếu áp dụng pháp luật Việt Nam
thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ là nơi bên
Việt Nam có trụ sở, ở đây là Việt Nam. Tuy
39NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
12 Về nội dung các quy định chung của Bộ luật TPQT Bỉ, xem chẳng hạn: Ngô Quốc Chiến, So sánh một số quy định chung
của TPQT Bỉ và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8/2014.
nhiên, theo điều 1247, BLDS Pháp thì “nghĩa
vụ phải được thực hiện theo địa điểm thỏa
thuận. Nếu địa điểm không được thỏa thuận,
nghĩa vụ... phải được thực hiện ở nơi có vật
vào thời điểm ký kết”. Như vậy, nếu áp dụng
pháp luật của Pháp, thì địa điểm thực hiện
hợp đồng khi không có thỏa thuận là ở Pháp,
vì vào thời điểm ký kết hợp đồng số hàng có
tranh chấp là ở Pháp. Vì hợp đồng trên có
quan hệ với Việt Nam và với Pháp nên về
nguyên tắc, pháp luật của cả hai nước đều có
thể được áp dụng. Nếu áp dụng pháp luật
Việt Nam thì chúng ta có kết quả là Tòa án
Việt Nam có thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên,
nếu áp dụng pháp luật của Pháp thì Tòa án
Pháp có thẩm quyền. Như vậy, có hai kết quả
khác nhau tùy thuộc vào luật áp dụng.
Để giải quyết trường hợp này, tại châu
Âu, thông thường Tòa án thụ lý vụ việc xác
định pháp luật điều chỉnh hợp đồng theo
TPQT của Tòa án. Đối với vụ việc đang
được xem xét, nếu Tòa án Pháp được yêu cầu
xử lý, thì Tòa án Pháp phải áp dụng TPQT
Pháp để biết pháp luật của nước nào điều
chỉnh hợp đồng. Sau khi biết được pháp luật
điều chỉnh hợp đồng, Tòa án sẽ nghiên cứu
xem theo pháp luật điều chỉnh hợp đồng, địa
điểm thực hiện hợp đồng ở đâu để biết mình
có thẩm quyền hay không. Đây là trường hợp
rất đặc biệt về mối quan hệ giữa xung đột
pháp luật và xung đột thẩm quyền trong
TPQT13.
Vấn đề xung đột pháp luật cũng có quan
hệ chặt chẽ với vấn đề công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước
ngoài. Thật vậy, một trong những lý do để
không công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự nước ngoài, phán quyết
của trọng tài nước ngoài mà TPQT của hầu
hết tất cả các quốc gia đều quy định, đó là
quyết định dân sự đó vi phạm trật tự công
cộng, hoặc các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật của nước nơi bản án, quyết định dân sự
được yêu cầu công nhận và cho thi hành. Tại
Việt Nam, bản án, quyết định dân sự của Toà
án nước ngoài sẽ không được công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam nếu bản án đó “trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”14. Tương tự, theo điểm b, khoản 2,
Điều 370 Bộ luật TTDS, quyết định của
Trọng tài nước ngoài không được công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam, nếu Toà án Việt
Nam xét thấy “việc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài
nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam”. Trong Dự thảo
BLDS 2015, khái niệm “các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam” đã được thay
bằng khái niệm “trật tự công cộng”, nhưng
trong thực tế, các quốc gia có những quan
điểm không giống nhau về thế nào là trật tự
công cộng. Một báo cáo so sánh luật của
Tổng cục Chính sách nội khối của Nghị viện
châu Âu15 về trật tự công trong khuôn khổ
của Liên minh châu Âu cho thấy, bản thân
các quốc gia thành viên của các Nghị định
châu Âu có quy định về trật tự công16 cũng
40 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13 Về vấn đề này, xem thêm: Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam. Quan hệ dân sự, lao động, thương
mại có yếu tố nước ngoài, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 564 và tiếp theo.
14 Khoản 6 điều 356 Bộ luật TTDS quy định.
15 Nghị viện châu Âu, Interprétation de l’exception d’ordre public telle que prévue par les instruments du droit international
privé et du droit procédural de l’Union européenne (Diễn giải khái niệm trật tự công nêu tại các quy phạm về tư pháp quốc
tế và tố tụng của Liên minh châu Âu), 2011.
16 Đó là các Nghị định (CE) n° 44/2001 về thẩm quyền tài phán, công nhận và thi hành quyết định trong lĩnh vực dân sự và
thương mại (thường được gọi tắt là Nghị định Bruxelles I); Nghị định (CE) n° 2201/2003 về thẩm quyền, công nhận và thi
hành các quyết định trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình và trách nhiệm của cha mẹ (thường được gọi là Nghị định Bruxelles
II bis); Nghị định (CE) n° 1346/2000 về thủ tục phá sản; Règlement (CE) n° 1206/2001 về hợp tác giữa tòa án của các
quốc gia thành viên trong lĩnh vực thu thập chứng cứ dân sự hoặc thương mại; Nghị định (CE) n° 593/2008 (thường được
gọi là Rome I) về luật áp dụng cho các nghĩa vụ hợp đồng; Nghị định (CE) n° 864/2007 về luật áp dụng cho các nghĩa vụ
ngoài hợp đồng (thường được gọi là Rome II).
có cách hiểu khác nhau về hình thức biểu
hiện của trật tự công (trật tự công về hình
thức và trật tự công về nội dung)17 và nội
hàm của khái niệm trật tự công18. Việc một
bản án hay quyết định dân sự nước ngoài có
được công nhận tại một quốc gia phụ thuộc
vào quan niệm của quốc gia đó về khái niệm
trật tự công. Chính vì các quốc gia có quan
niệm không giống nhau về trật tự công, nên
một bản án được công nhận tại nước A,
nhưng có thể không được công nhận tại nước
B, dù rằng cả hai nước A và B đều là thành
viên của một ĐƯQT.
Tương tự, vấn đề xung đột thẩm quyền
cũng có mối quan hệ chặt chẽ với việc công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của Tòa án nước ngoài. Thật vậy, một
trong những lý do để bản án, quyết định dân
sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của
trọng tài nước ngoài không được công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam, đó là “vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của Toà
án Việt Nam” (khoản 3, Điều 356 Bộ luật
TTDS 2004). Tương tự, phán quyết của
Trọng tài nước ngoài cũng không được công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam nếu Toà
án Việt Nam xét thấy “Theo pháp luật Việt
Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết
theo thể thức trọng tài” (điểm a, khoản 2,
Điều 370 Bộ luật TTDS 2004).
Như vậy, pháp điển hóa cả ba nội dung
cơ bản của TPQT là xung đột pháp luật, xung
đột thẩm quyền xét xử và công nhận, cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước
ngoài vào trong cùng một văn bản luật sẽ
giúp cho việc tiếp cận các nội dung của luật
trở nên dễ dàng và thống nhất hơn.
Những quy định hiện hành nằm rải rác
trong các luật khác nhau cho phép chúng ta
nghĩ tới một pháp điển hóa hình thức.
Liên quan đến xung đột pháp luật: Phần
thứ 7 BLDS 2005 về luật áp dụng cho các
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đã được
sửa đổi khá toàn diện. Phần này đã thiết lập
được một số nguyên tắc cơ bản của TPQT
hiện đại (tự do chọn luật áp dụng, xác định
pháp luật áp dụng dựa trên mối liên hệ gắn
bó nhất). Chúng tôi cho rằng, nhiều quy
định của phần này đã gần gũi hơn với TPQT
của các nước tiên tiến trên thế giới. Như vậy,
phần khó nhất trong TPQT đã được chúng ta
giải quyết tương đối tốt.
Liên quan đến xung đột thẩm quyền và
công nhận, cho thi hành các quyết định dân
sự nước ngoài: Nội dung này được quy định
chủ yếu trong Bộ luật TTDS 2004 (Phần thứ
9 và Phần thứ 6) cũng như Công ước New
York năm 1958 về công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài. Việc pháp điển hóa
các quy định này vào trong một đạo luật
(hoặc bộ luật) không đặt ra nhiều khó khăn.
Việc khiếm khuyết một số quy định
chuyên biệt đòi hỏi phải pháp điển hóa về nội
dung: Hiện nay, xung đột pháp luật trong
nhiều lĩnh vực chuyên biệt (HNGĐ, đầu tư,
sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, phá sản, hành vi pháp lý đơn
phương, ủy thác) vẫn chưa được quy định
hoặc có quy định nhưng chưa phù hợp. Các
quy định về thẩm quyền tài phán quốc tế của
Tòa án Việt Nam hiện nay cũng đang được
nghiên cứu sửa đổi. Việc xây dựng các quy
định mới và sửa đổi một số quy định hiện
hành và pháp điển chúng vào trong một Bộ
luật là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay n
41NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
17 Nghị viện châu Âu, Interprétation de l’exception d’ordre public telle que prévue par les instruments du droit international
privé et du droit procédural de l’Union européenne (Diễn giải khái niệm trật tự công trong các quy phạm về tư pháp quốc
tế và tố tụng của Liên minh châu Âu), 2011, xem các trang từ 152-155.
18 Nghị viện châu Âu, Interprétation de l’exception d’ordre public telle que prévue par les instruments du droit international
privé et du droit procédural de l’Union européenne (Diễn giải khái niệm trật tự công nêu tại các quy phạm về tư pháp quốc
tế và tố tụng của Liên minh châu Âu), 2011, xem các trang từ 156-172.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- viet_nam_can_xay_dung_luat_tu_phap_quoc_te.pdf