Bên cạnh việc kế thừa kho tàng múa dân gian
và cổ điển Khmer, vũ đạo Dù kê còn tiếp nhận vũ
đạo của những loại hình nghệ thuật sân khấu của
đồng bào anh em cùng sinh sống trên vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, vũ đạo trong tuồng Hồ Quảng
của người Hoa và Cải lương của người Kinh. Vũ
đạo có sự ảnh hưởng của Hồ Quảng được thể hiện
rõ nhất ở các bộ Huôn/Huône, những bộ động tác
cách điệu từ võ thuật của người Hoa thể hiện sức
mạnh của nhân vật nam. Tuy nhiên, họ không tiếp
nhận một cách trực tiếp mà có sự kết hợp với những
động tác trong võ thuật Khmer, cải biên tạo thành
những bộ vũ quyền đầy quyến rũ và rất sáng tạo.
Riêng những vũ đạo về múa minh họa khi nói mang
hơi hướng của Cải lương người Kinh.
Vai Chằn cũng là một trong những vai chịu
ảnh hưởng của các loại hình sân khấu Hồ Quảng
và Cải lương. Đây là một vai rất đặc biệt trong
các vở diễn về những tích cổ. Chằn trong vở Dù
kê khác Chằn trong múa cổ điển. Ở đây, Chằn là
nhân vật hung ác, lấy uy áp nhu. Ở vai này, người
ta không có mặt nạ mà vẽ mặt trực tiếp lên mặt
của diễn viên. Khi diễn, diễn viên phải dùng cả
sự chuyển động của nét mặt để thể hiện nhân vật.
Vũ đạo tay, chân thì mạnh mẽ, nhanh và dứt khoát
thể hiện sức mạnh và tính hung hăng của nhân vật
phản diện.
Tóm lại, vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu
Dù kê là sản phẩm của một quá trình sáng tạo của
đồng bào dân tộc Khmer. Đây là di sản văn hóa rất
giá trị của người Khmer đang cần được sự quan
tâm của các cấp lãnh đạo, nhà nghiên cứu và chính
bản thân người Khmer để giữ gìn và khôi phục một
món ăn tinh thần quý giá của cộng đồng dân tộc
đồng bằng sông Cửu Long nói chung, đặc biệt, của
đồng bào dân tộc Khmer đang sinh sống nơi đây
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 551 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu Dù Kê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014190 Soá 13, thaùng 3/2014 191
VŨ ĐẠO TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ
Thạch Thị Omnara1
Tóm tắt
Từ đặc điểm yêu chuộng cái hay, cái đẹp mà người Khmer Nam Bộ đã không ngừng miệt mài
sáng tạo và cho ra đời một loại hình nghệ thuật mới, nghệ thuật sân khấu Dù kê. Đối với loại hình nghệ
thuật sân khấu này, vũ đạo đóng vai trò chủ đạo. Ngoài việc kế thừa từ các loại hình múa của tổ tiên
họ, người Khmer còn không ngừng sáng tạo và tiếp thu những nét tinh túy của các loại hình nghệ thuật
của các dân tộc khác tạo nên một loại hình nghệ thuật mới đầy tính thu hút. Tùy từng nhóm nhân vật,
người ta có từng bộ vũ đạo khác nhau: nhóm chính diện, nhóm phản diện, nhóm hề. Bài viết giới thiệu
khái quát những vũ đạo cơ bản trong loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê, tạo tiền đề cho những nghiên
cứu sâu hơn trong tương lai.
Từ khóa: Nghệ thuật sân khấu Du ke, vũ đạo, Huôn, vai chính diện, vai phản diện, vai hề
Abstract
Due to the beauty-loving characteristic of Southern Khmer that they have continuosly created
and generated a new art form - that is Du ke theatrical art. For this theatrical art form, dance always
plays as the key role. In addition to inheriting from the dance forms of their ancestors, the Khmer also
innovating and acquiring the quintessence from the art forms of the other ethnic groups created a new
attractive art form. Depending on each group of the characters, each one was composed with different
dance form such as group of front, villain and clown characters. This paper posts the overview of basic
dances in Du ke theatrical art, which sets as the premiss for further research in future.
Key words: Du ke theatrical art, dance, Huon, front character, villain, clown
1 Khoa Ngôn ngữ - Văn hoá - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ
1. Đặt vấn đề
Qua quá trình cộng cư trên vùng đất Nam Bộ,
người dân Khmer nơi đây đã tạo cho mình những
nét riêng biệt bằng một loại hình nghệ thuật sân
khấu mang đậm chất Nam Bộ, nghệ thuật sân khấu
Dù kê. Mặc dù xuất hiện khá trễ so với các loại
hình nghệ thuật khác, nhưng nó mang đến cho
cộng đồng người dân vùng Đồng bằng sông Cửu
Long một giá trị nghệ thuật, văn hóa và tinh thần
rất lớn. Đây là loại hình sân khấu nghệ thuật đặc
trưng, đặc sắc nhất của người dân Khmer Nam Bộ
có sự kế thừa từ loại hình nghệ thuật Rô băm, giao
lưu với loại hình nghệ thuật sân khấu Cải lương
của người Kinh và hát Quảng của người Hoa.
Trước nguy cơ bị mai một của loại hình sân
khấu nghệ thuật từng rất được người dân Nam Bộ
và Campuchia ưa chuộng trong một thời gian dài,
nhiều sự kiện đã được tổ chức để tìm lại giá trị
của nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
như: Hội thảo về bảo tồn và phát triển nền nghệ
thuật truyền thống Khmer Nam Bộ năm 1980, do
Bộ VHTT tổ chức tại tỉnh Hậu Giang; Hội thảo
khoa học về “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer
Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” do UBND tỉnh
Trà Vinh phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ
chủ trì tổ chức vào tháng 11 – 2013; Liên hoan
nghệ thuật sân khấu Dù kê lần thứ I do tỉnh Sóc
Trăng đăng cai tổ chức cũng vào tháng 11 – 2013
với quy mô toàn quốc. Ngoài ra, còn có nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này đang
được triển khai.
Để tìm ra giá trị nghệ thuật nhằm bảo tồn và
phát triển loại hình sân khấu rất đặc sắc của quần
chúng nhân dân Nam Bộ này thì việc nghiên cứu
về vũ đạo, một yếu tố chủ chốt của sân khấu Dù
kê, là rất cần thiết.
1.1. Bước đầu mô tả về vũ đạo trong nghệ thuật
sân khấu Dù kê
Theo Sam Sam Ang, 1997, “Yike và Bassac
Theater”, Phnompenh thì loại hình nghệ thuật sân
khấu này là “Bếp không kén củi”. Khi mới sơ khai,
“Sân khấu giàn bầu” (tiền thân của sân khấu Dù
kê) không phong phú, đa dạng về vũ đạo như ngày
nay mà chỉ sử dụng vũ đạo từ múa dân gian Khmer
là chính. Dần dần, với sự phát triển không ngừng
của nó, sân khấu Dù kê đã “đón nhận một cách
nhiệt tình” vũ đạo loại hình sân khấu Hồ Quảng
của người Hoa, Cải lương của người Kinh là
những dân tộc cùng cộng cư trên vùng sông nước
Đồng bằng sông Cửu Long để tạo cho mình một
thế đứng trong cộng đồng người dân nơi đây.
Sân khấu Dù kê thường chia các nhân vật
thành hai nhóm: nhóm đại diện cho chính nghĩa và
nhóm đại diện cho phi nghĩa. Nhóm đại diện cho
chính nghĩa thường là nhà vua, hoàng hậu, hoàng
tử, công chúa, tu sĩ, những người anh hùng có tấm
lòng độ lượng, hiệp nghĩa, hay cứu giúp người,
những vai hề... Nhóm này có tổng cộng mười bộ
vũ đạo. Nhóm đại diện cho phi nghĩa thường là
chằn, cường hào ác bá, nịnh thần, tham quan,... có
hai bộ vũ đạo. Vũ đạo cho mỗi nhóm nhân vật có
những đặc điểm chung nhất định. Đối với nhóm
chính diện, các động tác tay trong mọi vũ đạo luôn
luôn cao ngang hoặc thấp hơn vai, thể hiện sự
khiêm tốn, chừng mực nhưng luôn dứt khoát, uyển
chuyển. Ngược lại, đối với nhóm phản diện, các
động tác tay luôn cao hơn vai thể hiện tính cách
ngang tàng, xấc xược,...
Nhân vật thuộc nhóm chính diện hay phản diện
hoặc hài, tất cả các vũ đạo phải được diễn đồng
thời với nhạc và được điều khiển bởi âm nhạc.
Nhạc đóng một vai trò quan trọng đối với vũ đạo.
Diễn viên Dù kê chuyên nghiệp là người có thể
linh hoạt xử lý vũ đạo không chỉ theo nội dung vở
tuồng, tính cách nhân vật mà còn có thể cảm nhạc
và diễn theo nhạc. Những lúc nhạc dồn dập diễn
viên nên sử dụng những động tác múa mạnh mẽ,
thể hiện sức mạnh hoặc uy lưc. Đến khi nhạc trầm,
tình cảm thì sử dụng những vũ điệu nhẹ nhàng,
khoan thai... thể hiện hết tính cách hiền lành, thật
thà của nhân vật trong vai diễn hoặc những cảnh
buồn của vở diễn.
Xét về mặt vũ đạo, có hai loại chính là vũ đạo
minh họa cho lời nói hoặc hát. Đây là những động
tác gần gũi với đời sống hàng ngày của những
người dân, không cách điệu, không mang tính ước
lệ, tượng trưng nhiều. Loại vũ đạo thứ hai là những
động tác múa được quy định cụ thể, chặt chẽ,
mang tính ước lệ, tượng trưng cao. Đó là những vũ
đạo múa trên sân khấu lấy quyền thuật của người
Khmer và người Hoa làm nền tảng, khuếch đại và
cách điệu chúng để biểu diễn thành những chuỗi
động tác đầy tính ước lệ, tượng trưng, rất uyển
chuyển, mạnh mẽ, thể hiện được cái đẹp và trí óc
sáng tạo tuyệt vời của nghệ sĩ Khmer vùng đất
Nam Bộ. Những bộ động tác đó gọi là “Huôn hoặc
Huône”. Những bộ Huôn/Huône này là linh hồn
của nghệ thuật sân khấu Dù kê. Nó làm cho Dù kê
mang một nét đặc trưng, khác hẳn so với các loại
hình nghệ thuật sân khấu khác của người Khmer
Nam Bộ. Ngoài ra, còn có một nhóm vũ đạo nữa
chiếm vị trí quan trọng là nét đặc trưng của người
Khmer Nam Bộ nói chung - vũ đạo múa biến cách
từ các loại hình múa dân gian và múa cổ điển của
người Khmer. Những tư thế trọng yếu là chip, lia,
roông, thô-thuôl/sthuôy, phka, khuôn, chong – ôl,
điêu, sva li thmo,... Mỗi tư thế mang một ý nghĩa
riêng, truyền tải một cách ước lệ những tâm tư,
tình cảm thái độ (yêu, thương, giận, ghét, buồn,
vui...) của con người hoặc tính cách của những vai
diễn là động vật như chim, khỉ... Diễn viên kết hợp
linh động những tư thế, động tác múa đó để thể
hiện một cách sinh động những cung bậc tình cảm,
tính cách nhân vật.
Dưới đây là một số bộ Huôn/Huône trong các
vở diễn của nghệ thuật sân khấu Dù kê:
- Bộ động tác múa đao dài (Huôn/Huône
đao vênh)
- Bộ động tác múa đao ngắn (Huôn/Huône
đao khlây)
- Bộ động tác múa côn (Huôn/Huône đòm - boong)
- Bộ động tác múa tay (Huôn/Huône đai)
- Bộ động tác múa cung tên (Huôn/Huône thnu)
- Bộ động tác múa chằn (Kbach Yak)
Trong hình thức múa Huôn/Huône, phải có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa tay và chân, luôn giữ
được thăng bằng cơ thể và thường theo những
nguyên tắc của luật âm dương:
- Hầu hết các động tác tay di chuyển theo
đường vòng cung, vòng tròn.
- Luôn giữ sự cân đối về cơ thể và thế đối xứng
giữa hai tay, giữa tay với chân (một cao thì một
thấp, một trái thì một phải, một trên thì một dưới).
- Động tác mô phỏng chân thực, không nghịch
lý, múa tay không hay múa có binh khí cũng vậy
(gươm thì đâm, chém; côn thì đánh...).
Đối với nghệ thuật sân khấu Dù kê, diễn viên
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014190 Soá 13, thaùng 3/2014 191
VŨ ĐẠO TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ
Thạch Thị Omnara1
Tóm tắt
Từ đặc điểm yêu chuộng cái hay, cái đẹp mà người Khmer Nam Bộ đã không ngừng miệt mài
sáng tạo và cho ra đời một loại hình nghệ thuật mới, nghệ thuật sân khấu Dù kê. Đối với loại hình nghệ
thuật sân khấu này, vũ đạo đóng vai trò chủ đạo. Ngoài việc kế thừa từ các loại hình múa của tổ tiên
họ, người Khmer còn không ngừng sáng tạo và tiếp thu những nét tinh túy của các loại hình nghệ thuật
của các dân tộc khác tạo nên một loại hình nghệ thuật mới đầy tính thu hút. Tùy từng nhóm nhân vật,
người ta có từng bộ vũ đạo khác nhau: nhóm chính diện, nhóm phản diện, nhóm hề. Bài viết giới thiệu
khái quát những vũ đạo cơ bản trong loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê, tạo tiền đề cho những nghiên
cứu sâu hơn trong tương lai.
Từ khóa: Nghệ thuật sân khấu Du ke, vũ đạo, Huôn, vai chính diện, vai phản diện, vai hề
Abstract
Due to the beauty-loving characteristic of Southern Khmer that they have continuosly created
and generated a new art form - that is Du ke theatrical art. For this theatrical art form, dance always
plays as the key role. In addition to inheriting from the dance forms of their ancestors, the Khmer also
innovating and acquiring the quintessence from the art forms of the other ethnic groups created a new
attractive art form. Depending on each group of the characters, each one was composed with different
dance form such as group of front, villain and clown characters. This paper posts the overview of basic
dances in Du ke theatrical art, which sets as the premiss for further research in future.
Key words: Du ke theatrical art, dance, Huon, front character, villain, clown
1 Khoa Ngôn ngữ - Văn hoá - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ
1. Đặt vấn đề
Qua quá trình cộng cư trên vùng đất Nam Bộ,
người dân Khmer nơi đây đã tạo cho mình những
nét riêng biệt bằng một loại hình nghệ thuật sân
khấu mang đậm chất Nam Bộ, nghệ thuật sân khấu
Dù kê. Mặc dù xuất hiện khá trễ so với các loại
hình nghệ thuật khác, nhưng nó mang đến cho
cộng đồng người dân vùng Đồng bằng sông Cửu
Long một giá trị nghệ thuật, văn hóa và tinh thần
rất lớn. Đây là loại hình sân khấu nghệ thuật đặc
trưng, đặc sắc nhất của người dân Khmer Nam Bộ
có sự kế thừa từ loại hình nghệ thuật Rô băm, giao
lưu với loại hình nghệ thuật sân khấu Cải lương
của người Kinh và hát Quảng của người Hoa.
Trước nguy cơ bị mai một của loại hình sân
khấu nghệ thuật từng rất được người dân Nam Bộ
và Campuchia ưa chuộng trong một thời gian dài,
nhiều sự kiện đã được tổ chức để tìm lại giá trị
của nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
như: Hội thảo về bảo tồn và phát triển nền nghệ
thuật truyền thống Khmer Nam Bộ năm 1980, do
Bộ VHTT tổ chức tại tỉnh Hậu Giang; Hội thảo
khoa học về “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer
Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” do UBND tỉnh
Trà Vinh phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ
chủ trì tổ chức vào tháng 11 – 2013; Liên hoan
nghệ thuật sân khấu Dù kê lần thứ I do tỉnh Sóc
Trăng đăng cai tổ chức cũng vào tháng 11 – 2013
với quy mô toàn quốc. Ngoài ra, còn có nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này đang
được triển khai.
Để tìm ra giá trị nghệ thuật nhằm bảo tồn và
phát triển loại hình sân khấu rất đặc sắc của quần
chúng nhân dân Nam Bộ này thì việc nghiên cứu
về vũ đạo, một yếu tố chủ chốt của sân khấu Dù
kê, là rất cần thiết.
1.1. Bước đầu mô tả về vũ đạo trong nghệ thuật
sân khấu Dù kê
Theo Sam Sam Ang, 1997, “Yike và Bassac
Theater”, Phnompenh thì loại hình nghệ thuật sân
khấu này là “Bếp không kén củi”. Khi mới sơ khai,
“Sân khấu giàn bầu” (tiền thân của sân khấu Dù
kê) không phong phú, đa dạng về vũ đạo như ngày
nay mà chỉ sử dụng vũ đạo từ múa dân gian Khmer
là chính. Dần dần, với sự phát triển không ngừng
của nó, sân khấu Dù kê đã “đón nhận một cách
nhiệt tình” vũ đạo loại hình sân khấu Hồ Quảng
của người Hoa, Cải lương của người Kinh là
những dân tộc cùng cộng cư trên vùng sông nước
Đồng bằng sông Cửu Long để tạo cho mình một
thế đứng trong cộng đồng người dân nơi đây.
Sân khấu Dù kê thường chia các nhân vật
thành hai nhóm: nhóm đại diện cho chính nghĩa và
nhóm đại diện cho phi nghĩa. Nhóm đại diện cho
chính nghĩa thường là nhà vua, hoàng hậu, hoàng
tử, công chúa, tu sĩ, những người anh hùng có tấm
lòng độ lượng, hiệp nghĩa, hay cứu giúp người,
những vai hề... Nhóm này có tổng cộng mười bộ
vũ đạo. Nhóm đại diện cho phi nghĩa thường là
chằn, cường hào ác bá, nịnh thần, tham quan,... có
hai bộ vũ đạo. Vũ đạo cho mỗi nhóm nhân vật có
những đặc điểm chung nhất định. Đối với nhóm
chính diện, các động tác tay trong mọi vũ đạo luôn
luôn cao ngang hoặc thấp hơn vai, thể hiện sự
khiêm tốn, chừng mực nhưng luôn dứt khoát, uyển
chuyển. Ngược lại, đối với nhóm phản diện, các
động tác tay luôn cao hơn vai thể hiện tính cách
ngang tàng, xấc xược,...
Nhân vật thuộc nhóm chính diện hay phản diện
hoặc hài, tất cả các vũ đạo phải được diễn đồng
thời với nhạc và được điều khiển bởi âm nhạc.
Nhạc đóng một vai trò quan trọng đối với vũ đạo.
Diễn viên Dù kê chuyên nghiệp là người có thể
linh hoạt xử lý vũ đạo không chỉ theo nội dung vở
tuồng, tính cách nhân vật mà còn có thể cảm nhạc
và diễn theo nhạc. Những lúc nhạc dồn dập diễn
viên nên sử dụng những động tác múa mạnh mẽ,
thể hiện sức mạnh hoặc uy lưc. Đến khi nhạc trầm,
tình cảm thì sử dụng những vũ điệu nhẹ nhàng,
khoan thai... thể hiện hết tính cách hiền lành, thật
thà của nhân vật trong vai diễn hoặc những cảnh
buồn của vở diễn.
Xét về mặt vũ đạo, có hai loại chính là vũ đạo
minh họa cho lời nói hoặc hát. Đây là những động
tác gần gũi với đời sống hàng ngày của những
người dân, không cách điệu, không mang tính ước
lệ, tượng trưng nhiều. Loại vũ đạo thứ hai là những
động tác múa được quy định cụ thể, chặt chẽ,
mang tính ước lệ, tượng trưng cao. Đó là những vũ
đạo múa trên sân khấu lấy quyền thuật của người
Khmer và người Hoa làm nền tảng, khuếch đại và
cách điệu chúng để biểu diễn thành những chuỗi
động tác đầy tính ước lệ, tượng trưng, rất uyển
chuyển, mạnh mẽ, thể hiện được cái đẹp và trí óc
sáng tạo tuyệt vời của nghệ sĩ Khmer vùng đất
Nam Bộ. Những bộ động tác đó gọi là “Huôn hoặc
Huône”. Những bộ Huôn/Huône này là linh hồn
của nghệ thuật sân khấu Dù kê. Nó làm cho Dù kê
mang một nét đặc trưng, khác hẳn so với các loại
hình nghệ thuật sân khấu khác của người Khmer
Nam Bộ. Ngoài ra, còn có một nhóm vũ đạo nữa
chiếm vị trí quan trọng là nét đặc trưng của người
Khmer Nam Bộ nói chung - vũ đạo múa biến cách
từ các loại hình múa dân gian và múa cổ điển của
người Khmer. Những tư thế trọng yếu là chip, lia,
roông, thô-thuôl/sthuôy, phka, khuôn, chong – ôl,
điêu, sva li thmo,... Mỗi tư thế mang một ý nghĩa
riêng, truyền tải một cách ước lệ những tâm tư,
tình cảm thái độ (yêu, thương, giận, ghét, buồn,
vui...) của con người hoặc tính cách của những vai
diễn là động vật như chim, khỉ... Diễn viên kết hợp
linh động những tư thế, động tác múa đó để thể
hiện một cách sinh động những cung bậc tình cảm,
tính cách nhân vật.
Dưới đây là một số bộ Huôn/Huône trong các
vở diễn của nghệ thuật sân khấu Dù kê:
- Bộ động tác múa đao dài (Huôn/Huône
đao vênh)
- Bộ động tác múa đao ngắn (Huôn/Huône
đao khlây)
- Bộ động tác múa côn (Huôn/Huône đòm - boong)
- Bộ động tác múa tay (Huôn/Huône đai)
- Bộ động tác múa cung tên (Huôn/Huône thnu)
- Bộ động tác múa chằn (Kbach Yak)
Trong hình thức múa Huôn/Huône, phải có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa tay và chân, luôn giữ
được thăng bằng cơ thể và thường theo những
nguyên tắc của luật âm dương:
- Hầu hết các động tác tay di chuyển theo
đường vòng cung, vòng tròn.
- Luôn giữ sự cân đối về cơ thể và thế đối xứng
giữa hai tay, giữa tay với chân (một cao thì một
thấp, một trái thì một phải, một trên thì một dưới).
- Động tác mô phỏng chân thực, không nghịch
lý, múa tay không hay múa có binh khí cũng vậy
(gươm thì đâm, chém; côn thì đánh...).
Đối với nghệ thuật sân khấu Dù kê, diễn viên
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014192 Soá 13, thaùng 3/2014 193
bước ra sân khấu đều có những động tác được quy
định theo từng bộ động tác cụ thể cùng với nhạc
nhằm báo hiệu cho sự xuất hiện của từng nhóm
nhân vật cụ thể. Đối với những nhân vật anh hùng,
biết phép thuật hoặc Chằn, đi ra sân khấu thường
bước ra với tư thế Huôn/Huône. Tùy theo binh
khí diễn viên cầm trên tay, khả năng diễn của diễn
viên mà đạo diễn chọn những bộ động tác phù
hợp. Riêng đối với vai nữ là công chúa, vai nữ
chính, cung nữ hoặc người hầu, động tác bước ra
sân khấu thường là một tay ở tư thế lia thấp và một
tay lia giữa. Vũ đạo của vai nữ chủ yếu là những
động tác trong nghệ thuật múa dân gian, múa Chap
chhay và múa cổ điển Khmer. Tùy vào những vai
diễn và địa vị hoặc cảnh diễn mà người ta sử dụng
từng loại vũ đạo riêng. Trong vở Puthavong, các
cung nữ trong hoàng cung sử dụng những động tác
trong múa cổ điển, nhưng có một vài cách tân để
thể hiện niềm vui mừng trong ngày cưới để múa
chúc mừng cho Puthavong và nàng công chúa út
nên duyên vợ chồng. Bên cạnh đó, khi muốn thể
hiện cảnh về cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của
những người dân bình thường, người ta thường sử
dụng những động tác múa dân gian hơn là múa cổ
điển vì nó mang tính chất bình dị, gần gũi, tính ước
lệ ít hơn so với múa cổ điển đầy tính trang trọng,
đĩnh đạc và nghiêm trang.
Theo đạo diễn nghệ thuật sân khấu Dù kê, ông
Thạch Sô Van, để có những động tác vũ đạo tốt,
diễn viên phải trải qua giai đoạn rèn luyện những
động tác cơ bản trong múa cổ điển để có được
những tư thế và động tác thật sự chuẩn xác, uyển
chuyển và có hồn. Tuy nhiên, nó chưa phải là tất cả
vì phần lớn vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu Dù
kê xuất phát từ những động tác trong múa dân gian
như điệu khỉ vác đá (Sva li thmo), điệu Alê, điệu
Phát – chhay... Vì thế, để chọn diễn viên tốt cho
sân khấu Dù kê, người ta thường chọn những diễn
viên từng luyện tập múa Khmer, vì trong những
bài tập luyện múa Khmer, có những bài tập cơ bản
về cách tạo hình tượng bằng cơ thể. Chẳng hạn
như vai Chằn có những tư thế như sau: vai thường
phải mở ra thể hiện sức mạnh; đầu thường phải
ngẩng lên cao thể hiện tính tự cao và ngang ngược;
ngực thường ưỡn lên thể hiện sự tự tin; tay khi
đưa lên thường cao hơn vai thể hiện tính xấc xược;
chân khi đứng thường dạng ra rộng hơn vai... vì
Chằn luôn là nhân vật lấy sức mạnh áp đảo người
khác. Vì vậy, nếu diễn viên đã trải qua việc luyện
tập múa, vũ điệu của họ sẽ có hồn hơn, thể hiện
nhân vật tốt hơn người chưa được luyện múa.
1.2. Tính kế thừa và giao thoa của vũ đạo trong
nghệ thuật sân khấu Dù kê
1.2.1. Tính kế thừa
Do Dù kê là loại hình nghệ thuật sân khấu
của quần chúng nên nó đại diện cho quần chúng
nói lên tất cả tâm tư, tình cảm, thể hiện hết tài năng
về khả năng cảm nhận tạo nghệ thuật của đồng bào
dân tộc Khmer. Điều đó thể hiện rõ nhất ở vũ đạo
trong nghệ thuật sân khấu Dù kê của họ. Đối với
người Khmer, múa là một kỹ năng đã thấm sâu vào
máu thịt của mỗi người. Do đó, họ đã kế thừa, vận
dụng những động tác múa để minh họa cho lời diễn
hoặc tạo hình tượng để nói lên tâm tư, tình cảm của
họ trên sân khấu. Tất cả những điệu múa thuộc tất
cả các loại hình múa của người Khmer Nam Bộ
như múa cổ điển và múa dân gian đều được kế thừa
một cách triệt để. Tùy theo từng cảnh diễn, từng
nhân vật cụ thể mà người ta sử dụng những điệu
múa trong những nhóm cụ thể như: nếu là nhân
vật trong cung đình, cần thể hiện không khí trang
nghiêm, họ sử dụng điệu múa cung đình; nếu muốn
thể hiện nét dân dã của tầng lớp nhân dân, người
ta sử dụng điệu múa dân gian. Nói chung, tùy theo
cảnh diễn, mức độ cảm nhạc và kỹ năng múa của
từng diễn viên mà có thể hai diễn viên đóng cùng
một vai có hai cách diễn khác nhau nhưng đều sử
dụng một kho tàng vũ đạo là múa cổ điển và múa
dân gian.
1.2.2. Tính giao thoa
Bên cạnh việc kế thừa kho tàng múa dân gian
và cổ điển Khmer, vũ đạo Dù kê còn tiếp nhận vũ
đạo của những loại hình nghệ thuật sân khấu của
đồng bào anh em cùng sinh sống trên vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, vũ đạo trong tuồng Hồ Quảng
của người Hoa và Cải lương của người Kinh. Vũ
đạo có sự ảnh hưởng của Hồ Quảng được thể hiện
rõ nhất ở các bộ Huôn/Huône, những bộ động tác
cách điệu từ võ thuật của người Hoa thể hiện sức
mạnh của nhân vật nam. Tuy nhiên, họ không tiếp
nhận một cách trực tiếp mà có sự kết hợp với những
động tác trong võ thuật Khmer, cải biên tạo thành
những bộ vũ quyền đầy quyến rũ và rất sáng tạo.
Riêng những vũ đạo về múa minh họa khi nói mang
hơi hướng của Cải lương người Kinh.
Vai Chằn cũng là một trong những vai chịu
ảnh hưởng của các loại hình sân khấu Hồ Quảng
và Cải lương. Đây là một vai rất đặc biệt trong
các vở diễn về những tích cổ. Chằn trong vở Dù
kê khác Chằn trong múa cổ điển. Ở đây, Chằn là
nhân vật hung ác, lấy uy áp nhu. Ở vai này, người
ta không có mặt nạ mà vẽ mặt trực tiếp lên mặt
của diễn viên. Khi diễn, diễn viên phải dùng cả
sự chuyển động của nét mặt để thể hiện nhân vật.
Vũ đạo tay, chân thì mạnh mẽ, nhanh và dứt khoát
thể hiện sức mạnh và tính hung hăng của nhân vật
phản diện.
Tóm lại, vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu
Dù kê là sản phẩm của một quá trình sáng tạo của
đồng bào dân tộc Khmer. Đây là di sản văn hóa rất
giá trị của người Khmer đang cần được sự quan
tâm của các cấp lãnh đạo, nhà nghiên cứu và chính
bản thân người Khmer để giữ gìn và khôi phục một
món ăn tinh thần quý giá của cộng đồng dân tộc
đồng bằng sông Cửu Long nói chung, đặc biệt, của
đồng bào dân tộc Khmer đang sinh sống nơi đây./.
Tài liệu tham khảo
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại.
Lưu Văn Nam. 1999. Người Khmer ở Nam Bộ. Nam Bộ xưa và nay. TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Phan Thọ. 2009. Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á. NXB Chính trị Quốc gia.
Sam Sam Ang. 1997. Yike và Bassac Theater. Phnompenh, Campuchia.
Sang Sết. 2004. Văn nghệ Khmer Trà Vinh với vai trò bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Tạp chí Văn hóa các dân tộc. Số 7.
PHỤ LỤC HÌNH MINH HỌA VŨ ĐẠO TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ
Hình 1: Một tư thế trong vũ đạo múa kiếm
(Nguồn:
ke-cua-dong-bao-khmer-20131226113943251.htm)
Hình 2: Một tư thế trong vũ đạo múa cổ điển
được sử dụng trong sân khấu Dù kê
(Nguồn:
thuyet-vua-than-cua-doan-nghe-thuat-tong-hop-
khmer-tinh-bac-lieu.aspx)
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014192 Soá 13, thaùng 3/2014 193
bước ra sân khấu đều có những động tác được quy
định theo từng bộ động tác cụ thể cùng với nhạc
nhằm báo hiệu cho sự xuất hiện của từng nhóm
nhân vật cụ thể. Đối với những nhân vật anh hùng,
biết phép thuật hoặc Chằn, đi ra sân khấu thường
bước ra với tư thế Huôn/Huône. Tùy theo binh
khí diễn viên cầm trên tay, khả năng diễn của diễn
viên mà đạo diễn chọn những bộ động tác phù
hợp. Riêng đối với vai nữ là công chúa, vai nữ
chính, cung nữ hoặc người hầu, động tác bước ra
sân khấu thường là một tay ở tư thế lia thấp và một
tay lia giữa. Vũ đạo của vai nữ chủ yếu là những
động tác trong nghệ thuật múa dân gian, múa Chap
chhay và múa cổ điển Khmer. Tùy vào những vai
diễn và địa vị hoặc cảnh diễn mà người ta sử dụng
từng loại vũ đạo riêng. Trong vở Puthavong, các
cung nữ trong hoàng cung sử dụng những động tác
trong múa cổ điển, nhưng có một vài cách tân để
thể hiện niềm vui mừng trong ngày cưới để múa
chúc mừng cho Puthavong và nàng công chúa út
nên duyên vợ chồng. Bên cạnh đó, khi muốn thể
hiện cảnh về cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của
những người dân bình thường, người ta thường sử
dụng những động tác múa dân gian hơn là múa cổ
điển vì nó mang tính chất bình dị, gần gũi, tính ước
lệ ít hơn so với múa cổ điển đầy tính trang trọng,
đĩnh đạc và nghiêm trang.
Theo đạo diễn nghệ thuật sân khấu Dù kê, ông
Thạch Sô Van, để có những động tác vũ đạo tốt,
diễn viên phải trải qua giai đoạn rèn luyện những
động tác cơ bản trong múa cổ điển để có được
những tư thế và động tác thật sự chuẩn xác, uyển
chuyển và có hồn. Tuy nhiên, nó chưa phải là tất cả
vì phần lớn vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu Dù
kê xuất phát từ những động tác trong múa dân gian
như điệu khỉ vác đá (Sva li thmo), điệu Alê, điệu
Phát – chhay... Vì thế, để chọn diễn viên tốt cho
sân khấu Dù kê, người ta thường chọn những diễn
viên từng luyện tập múa Khmer, vì trong những
bài tập luyện múa Khmer, có những bài tập cơ bản
về cách tạo hình tượng bằng cơ thể. Chẳng hạn
như vai Chằn có những tư thế như sau: vai thường
phải mở ra thể hiện sức mạnh; đầu thường phải
ngẩng lên cao thể hiện tính tự cao và ngang ngược;
ngực thường ưỡn lên thể hiện sự tự tin; tay khi
đưa lên thường cao hơn vai thể hiện tính xấc xược;
chân khi đứng thường dạng ra rộng hơn vai... vì
Chằn luôn là nhân vật lấy sức mạnh áp đảo người
khác. Vì vậy, nếu diễn viên đã trải qua việc luyện
tập múa, vũ điệu của họ sẽ có hồn hơn, thể hiện
nhân vật tốt hơn người chưa được luyện múa.
1.2. Tính kế thừa và giao thoa của vũ đạo trong
nghệ thuật sân khấu Dù kê
1.2.1. Tính kế thừa
Do Dù kê là loại hình nghệ thuật sân khấu
của quần chúng nên nó đại diện cho quần chúng
nói lên tất cả tâm tư, tình cảm, thể hiện hết tài năng
về khả năng cảm nhận tạo nghệ thuật của đồng bào
dân tộc Khmer. Điều đó thể hiện rõ nhất ở vũ đạo
trong nghệ thuật sân khấu Dù kê của họ. Đối với
người Khmer, múa là một kỹ năng đã thấm sâu vào
máu thịt của mỗi người. Do đó, họ đã kế thừa, vận
dụng những động tác múa để minh họa cho lời diễn
hoặc tạo hình tượng để nói lên tâm tư, tình cảm của
họ trên sân khấu. Tất cả những điệu múa thuộc tất
cả các loại hình múa của người Khmer Nam Bộ
như múa cổ điển và múa dân gian đều được kế thừa
một cách triệt để. Tùy theo từng cảnh diễn, từng
nhân vật cụ thể mà người ta sử dụng những điệu
múa trong những nhóm cụ thể như: nếu là nhân
vật trong cung đình, cần thể hiện không khí trang
nghiêm, họ sử dụng điệu múa cung đình; nếu muốn
thể hiện nét dân dã của tầng lớp nhân dân, người
ta sử dụng điệu múa dân gian. Nói chung, tùy theo
cảnh diễn, mức độ cảm nhạc và kỹ năng múa của
từng diễn viên mà có thể hai diễn viên đóng cùng
một vai có hai cách diễn khác nhau nhưng đều sử
dụng một kho tàng vũ đạo là múa cổ điển và múa
dân gian.
1.2.2. Tính giao thoa
Bên cạnh việc kế thừa kho tàng múa dân gian
và cổ điển Khmer, vũ đạo Dù kê còn tiếp nhận vũ
đạo của những loại hình nghệ thuật sân khấu của
đồng bào anh em cùng sinh sống trên vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, vũ đạo trong tuồng Hồ Quảng
của người Hoa và Cải lương của người Kinh. Vũ
đạo có sự ảnh hưởng của Hồ Quảng được thể hiện
rõ nhất ở các bộ Huôn/Huône, những bộ động tác
cách điệu từ võ thuật của người Hoa thể hiện sức
mạnh của nhân vật nam. Tuy nhiên, họ không tiếp
nhận một cách trực tiếp mà có sự kết hợp với những
động tác trong võ thuật Khmer, cải biên tạo thành
những bộ vũ quyền đầy quyến rũ và rất sáng tạo.
Riêng những vũ đạo về múa minh họa khi nói mang
hơi hướng của Cải lương người Kinh.
Vai Chằn cũng là một trong những vai chịu
ảnh hưởng của các loại hình sân khấu Hồ Quảng
và Cải lương. Đây là một vai rất đặc biệt trong
các vở diễn về những tích cổ. Chằn trong vở Dù
kê khác Chằn trong múa cổ điển. Ở đây, Chằn là
nhân vật hung ác, lấy uy áp nhu. Ở vai này, người
ta không có mặt nạ mà vẽ mặt trực tiếp lên mặt
của diễn viên. Khi diễn, diễn viên phải dùng cả
sự chuyển động của nét mặt để thể hiện nhân vật.
Vũ đạo tay, chân thì mạnh mẽ, nhanh và dứt khoát
thể hiện sức mạnh và tính hung hăng của nhân vật
phản diện.
Tóm lại, vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu
Dù kê là sản phẩm của một quá trình sáng tạo của
đồng bào dân tộc Khmer. Đây là di sản văn hóa rất
giá trị của người Khmer đang cần được sự quan
tâm của các cấp lãnh đạo, nhà nghiên cứu và chính
bản thân người Khmer để giữ gìn và khôi phục một
món ăn tinh thần quý giá của cộng đồng dân tộc
đồng bằng sông Cửu Long nói chung, đặc biệt, của
đồng bào dân tộc Khmer đang sinh sống nơi đây./.
Tài liệu tham khảo
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại.
Lưu Văn Nam. 1999. Người Khmer ở Nam Bộ. Nam Bộ xưa và nay. TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Phan Thọ. 2009. Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á. NXB Chính trị Quốc gia.
Sam Sam Ang. 1997. Yike và Bassac Theater. Phnompenh, Campuchia.
Sang Sết. 2004. Văn nghệ Khmer Trà Vinh với vai trò bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Tạp chí Văn hóa các dân tộc. Số 7.
PHỤ LỤC HÌNH MINH HỌA VŨ ĐẠO TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ
Hình 1: Một tư thế trong vũ đạo múa kiếm
(Nguồn:
ke-cua-dong-bao-khmer-20131226113943251.htm)
Hình 2: Một tư thế trong vũ đạo múa cổ điển
được sử dụng trong sân khấu Dù kê
(Nguồn:
thuyet-vua-than-cua-doan-nghe-thuat-tong-hop-
khmer-tinh-bac-lieu.aspx)
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014194 Soá 13, thaùng 3/2014 195
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH - ĐỊA CHỈ ĐÀO TẠO TIÊN PHONG VỀ
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT KHMER NAM BỘ
Khoa Ngôn ngữ – Văn hóa – Nghệ thuật Khmer Nam Bộ
Tóm tắt
Xuất phát từ nhu cầu rất thực tiễn của đồng bào Khmer Nam Bộ là nâng cao trình độ học vấn, gia
tăng cơ hội nghề nghiệp, Trường Đại học Trà Vinh đã đầu tư xây dựng Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa –
Nghệ thuật Khmer Nam Bộ với mục tiêu đào tạo các ngành học liên quan ngôn ngữ, văn hóa và nghệ
thuật Khmer Nam Bộ, đáp ứng nguyện vọng của đồng bào Khmer tại địa phương và trong khu vực. Sự
ra đời của Khoa trước hết góp phần cải thiện mặt bằng dân trí cho con em đồng bào Khmer, đồng thời
tạo nguồn nhân lực thực hiện công tác bảo tồn và phát huy những tinh hoa văn hóa của người Khmer ở
Nam Bộ, góp vào công cuộc phát triển bền vững cuộc sống người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ khóa: Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa – Nghệ thuật Khmer Nam Bộ, Bảo tồn và phát huy tinh hoa văn
hóa Khmer, Ngành học, Cải thiện mặt bằng dân trí.
Abstract
From the practical needs of Southern Khmer is to enhance education, increase career opportunities,
TraVinh University has set up the Faculty of Southern Khmer Language – Culture and Art with the
purpose of training the Southern Khmer related disciplines of Language, Culture and Art, in meeting
the aspiration of the local and area Khmer. The launch of Faculty firstly contributes to improve the
knowledge standard for Khmer children, also provides human resources in implementing the conservation
and promotion the cultural quintessence of the Khmer in South, and contributes to the life sustainable
development of the Khmer in Mekong Delta.
Key words: Faculty of Southern Khmer Language – Culture and Art, implementing the conservation
and promotion the Khmer cultural quintessence, Discipline, Improving the knowledge standard.
1. Từ nhu cầu cấp thiết của xã hội
Trong 54 dân tộc ở Việt Nam, người Khmer là
một trong những tộc người có số dân trên 1 triệu.
Họ thuộc ngữ hệ Môn – Khmer, hiện sinh sống chủ
yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), chiếm
trên 6% dân số vùng. Trong số 13 tỉnh, thành
ĐBSCL thì người Khmer sinh sống nhiều nhất ở
Sóc Trăng, Trà Vinh, kế đến là Kiên Giang, Bạc
Liêu, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Cà Mau,
Người Khmer ở ĐBSCL từ xưa đã cùng người
Kinh, Hoa và Chăm chung tay khai phá vùng đất
Tây Nam của Tổ quốc với thiên nhiên vừa hào
phóng vừa khắc nghiệt này; cũng như đã đoàn kết,
chung vai sát cánh với nhau trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Từ lâu
họ luôn coi mình là một phần hữu cơ trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Hiện nay, hòa cùng
xu thế chung của cả nước, người Khmer ĐBSCL
đang cùng với các dân tộc anh em bước vào thời
kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy
nhiên, so với người Kinh, Hoa hay người Chăm ở
vùng ĐBSCL, người Khmer đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn và những thách đố cho công cuộc
phát triển đó. Một trong những thách thức lớn mà
hầu hết các công trình nghiên cứu về người Khmer
đều ít nhiều đề cập đến là mặt bằng học vấn của
người Khmer thuộc hàng thấp nhất trong các dân
tộc vùng ĐBSCL, và ở mức thấp trong số các dân
tộc thiểu số ở nước ta.
Nâng cao trình độ học vấn trong người Khmer
cũng như trong các dân tộc thiểu số ở nước ta nói
chung là một trong những mục tiêu quốc gia. Thực
tế, những cố gắng cùng với nhiều biện pháp được
Đảng và Nhà nước đầu tư và tiến hành đã đem lại
Hình 3: Một tư thế trong vũ đạo múa dân gian
được sử dụng trong sân khấu Dù kê
(Nguồn:
tinh-tum-tieu-cua-doan-nghe-thuat-di-ke-huyen-
tri-ton-anh-giang.aspx)
Hình 4: Một tư thế trong vũ đạo múa cung
(Nguồn:
dien-du-ke-18-nam-tren-dinh-linh-son.aspx)
Hình 5: Một tư thế trong vũ đạo múa chằn
(Nguồn:
trong-san-khau-du-ke-20140227153220355.htm)
Hình 6: Một tư thế trong vũ đạo của nhân vật
chính diện
(Nguồn:
com/2013/05/san-khau-du-ke-di-ke-trong-long-
nguoi.html)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vu_dao_trong_nghe_thuat_san_khau_du_ke.pdf