Các giải pháp đề xuất
Thứ nhất, cần có những quy định
hướng dẫn cụ thể về việc nhận thế chấp
quyền sở hữu trí tuệ. Đưa ra những tiêu
chuẩn cụ thể xác định điều kiện cho vay
khi nhận bảo đảm bằng quyền sở hữu trí
tuệ tại các tổ chức tín dụng. Hàng năm,
cần có các thống kê, báo cáo về thị trường
quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo lập một hệ
thống thông tin đáng tin cậy cho các đối
tượng quan tâm. Có những dự án, chương
trình giúp nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng của quyền sở hữu trí tuệ, giúp xã hội
gia tăng nhận thức về quyền sở hữu trí
tuệ, lâu dài giúp mở rộng thị trường người
mua, người bán cũng như giúp bảo vệ giá
trị của các quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, trên cơ sở thừa nhận quyền
của bên nhận thế chấp trên tài sản thế chấp,
cần quy định về quyền được thu giữ tài
sản bảo đảm của bên nhận thế chấp. Trong
trường hợp đã được thông báo và đến thời
hạn phải giao tài sản thế chấp cho bên nhận
thế chấp xử lý, nếu bên thế chấp chây ì thực
hiện nghĩa vụ sẽ được xác định là hành vi
chiếm hữu tài sản trái pháp luật, tuỳ từng
trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự tội chiếm giữ trái phép tài sản theo
Điều 176 Bộ luật hình sự năm 2015.
Thứ ba, phải đặt ra cơ chế giám sát
đối với quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Cụ
thể, trong các văn bản hướng dẫn thi hành
BLDS cần liệt kê rõ những trường hợp
khi bán tài sản bảo đảm hoặc nhận tài sản
bảo đảm để bù trừ nghĩa vụ của bên thế
chấp phải đặt dưới sự giám sát của Toà án.
Tránh tình trạng bên nhận thế chấp dùng
“ưu thế” của mình ép bên thế chấp phải
“gán nợ” bằng tài sản thế chấp, hoặc bán
tài sản thế chấp nhỏ hơn giá trị thật của tài
sản, gây thiệt hại cho bên thế chấp.
Thứ tư, sửa đổi quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 308 BLDS năm 2015 theo
hướng, trong trường hợp đối với các hợp
đồng thế chấp đều không đăng ký thì
không đặt ra thứ tự ưu tiên thanh toán,
các bên nhận thế chấp sẽ được thanh toán
theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm trên số tiền thu
được từ việc bán quyền tài sản thế chấp.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm là các quyền tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
56 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM...
LÀ CÁC QUYỀN TÀI SẢN
NgUyỄN HOàNg LONg*
Xử lý quyền tài sản thế chấp là một khâu vô cùng quan trọng để bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ thế chấp và lợi ích của những
chủ thể khác có liên quan. Dù Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 đã có quy định về
xử lý tài sản thế chấp là các quyền tài sản, nhưng trên thực tế việc xử lý loại tài
sản này vẫn gặp nhiều khó khăn.
Từ khóa: Tài sản đảm bảo, quyền tài sản, Bộ luật dân sự.
Ngày nhận bài: 11/5/2020; Ngày biên tập xong: 12/5/2020; Ngày duyệt đăng:
09/6/2020.
Handling the right of mortgaged property is an extremely important step to
ensure the legitimate rights and interests of the parties and interests of other
related entities. although the 2015 Civil Code has regulations on dealing with
mortgages as property rights, in reality, that activity still faces many difficulties.
keywords: Mortgaged property, property rights, the Civil Code.
1. đặc điểm pháp lý của hoạt động
xử lý tài sản thế chấp là quyền tài sản
Mục đích của việc xử lý quyền tài sản
thế chấp là tiến hành các thủ tục pháp lý
theo quy định của pháp luật để “bán”
quyền tài sản thế chấp. Quyền bán quyền
tài sản thế chấp của bên nhận thế chấp cần
được bảo vệ một cách trực tiếp và ngay
tức khắc khi bên thế chấp không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
được bảo đảm. Khi xử lý tài sản thế chấp
là quyền tài sản, bên nhận thế chấp cần
phải chứng minh các điều kiện cần và đủ
để thực thi quyền của mình trên quyền
tài sản thế chấp (có hợp đồng thế chấp
hợp pháp, có hành vi vi phạm nghĩa vụ
của bên thế chấp). Các biện pháp xử lý
quyền tài sản bảo đảm mà bên nhận thế
chấp được thực hiện có thể được xác định
theo thỏa thuận giữa các bên ghi trong
hợp đồng thế chấp, trường hợp các bên
không có thỏa thuận thì bên nhận thế chấp
có quyền yêu cầu Tòa án cho phép cưỡng
chế bán quyền tài sản thế chấp. Như vậy,
có thể khẳng định xử lý quyền tài sản thế
chấp chính là việc tiến hành các hoạt động
nhằm định đoạt quyền tài sản thế chấp,
qua đó thu giữ số tiền tương đương với
giá trị nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, hoạt động
xử lý tài sản bảo đảm là quyền tài sản có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đối tượng của hoạt động xử lý là
quyền tài sản thế chấp1
Xuất phát từ bản chất của biện pháp thế
chấp nhằm đảm bảo thực hiện cho nghĩa vụ
của bên thế chấp đối với bên nhận thế chấp,
khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên thế
chấp, nếu không thể thoả thuận được về cách
thức giải quyết, bên nhận thế chấp được xử
lý tài sản thế chấp – “bán” tài sản thế chấp để
khấu trừ cho nghĩa vụ bị vi phạm. Vì vậy, có
thể khẳng định đối tượng của quá trình xử lý
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật dân sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội
NGUYỄN HOÀNG LONG
57Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
tài sản thế chấp trong những hợp đồng thế
chấp quyền tài sản chính là việc bán quyền
tài sản thế chấp cho bên thứ ba để thu lại
khoản tiền bù đắp cho nghĩa vụ được bảo
đảm bị vi phạm.
Để bán quyền tài sản thế chấp cho các
chủ thể khác thông qua các giao dịch dân
sự (hợp đồng mua bán, thuê mua), quyền
tài sản là đối tượng của hợp đồng thế chấp
phải có hai đặc trưng sau: Một là, quyền tài
sản thế chấp không phải là quyền tài sản
luật cấm chuyển dịch quyền sở hữu. Theo
đó, các quyền đối với phần vốn góp vào
doanh nghiệp bị giới hạn không được chuyển
nhượng theo điều lệ doanh nghiệp hoặc do
Luật Doanh nghiệp quy định sẽ không thể
đem đi thế chấp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ;
Hai là, quyền tài sản thế chấp không phải là
những quyền tài sản gắn liền với yếu tố nhân
thân bởi như vậy sẽ không thể xử lý được khi
có sự vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm. Hệ
thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới
đều ghi nhận, các quyền tài sản gắn với yếu
tố nhân thân như: quyền yêu cầu cấp dưỡng,
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính
mạng, sức khoẻ bị xâm phạm không thể
chuyển giao thông qua các giao dịch dân sự.
Thứ hai, phương thức xử lý quyền tài sản
thế chấp đa dạng, phụ thuộc vào sự thỏa thuận
của các bên. Khi có hành vi vi phạm nghĩa
vụ bảo đảm, việc xử lý tài sản thế chấp giúp
cho bên nhận thế chấp bù đắp được những
tổn thất đã bị thiệt hại do hành vi vi phạm
nghĩa vụ của bên được bảo đảm gây ra.
Trên nguyên tắc tôn trọng ý chí của chủ thể
khi tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự, BLDS năm 2015 ghi nhận phương
thức xử lý tài sản bảo đảm trước tiên được
thực hiện theo sự thoả thuận của các bên.
Bên thế chấp và bên nhận thế chấp có thể
thoả thuận về việc bán tài sản; bên nhận thế
chấp nhận chính tài sản thế chấp để thay
thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế
chấp Sự thỏa thuận về phương thức xử lý
tài sản bảo đảm có thể được thiết lập ngay
từ khi giao kết hợp đồng (lúc này được coi là
một điều khoản trong hợp đồng thế chấp);
hoặc ngay cả khi bên được bảo đảm đã vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng. Trường hợp các
bên không có thỏa thuận về phương thức
xử lý tài sản, tài sản bảo đảm được đem bán
đấu giá theo quy định của Luật bán đấu giá
tài sản.
Thứ ba, trường hợp quyền tài sản phải
xử lý được bảo đảm cho việc thực hiện nhiều
nghĩa vụ, số tiền thu được từ việc xử lý được
thanh toán cho các bên cùng nhận bảo đảm theo
thứ tự ưu tiên thanh toán. Khi quyền tài sản
thế chấp chỉ đảm bảo cho việc thực hiện
một nghĩa vụ, sau khi xử lý số tiền thu
được được khấu trừ trực tiếp cho nghĩa vụ
được bảo đảm. Tuy nhiên, nhiều trường
hợp không chỉ có bên nhận thế chấp mà
còn có chủ thể khác cũng có quyền trên tài
sản thế chấp như: chủ nợ cùng nhận bảo
đảm bằng tài sản thế chấp; chủ nợ không
có bảo đảm; người mua, người thuê, người
nhận chuyển giao quyền tài sản thế chấp
Trong trường hợp này, số tiền thu được từ
xử lý quyền tài sản thế chấp được thanh
toán cho các chủ thể có liên quan dựa trên
thứ tự ưu tiên thanh toán.
Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định
thông qua hai nguyên tắc: Một là, chủ thể xác
lập giao dịch bảo đảm trên tài sản được ưu
tiên thanh toán trước so với chủ thể không
có bảo đảm. Hai là, trường hợp có nhiều biện
pháp bảo đảm được xác lập trên cùng một
tài sản thì thứ tự ưu tiên thanh toán dựa trên
thứ tự giao dịch xác lập hiệu lực đối kháng
với người thứ ba11, giao dịch bảo đảm nào
phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ
ba trước thì được ưu tiên thanh toán từ số
tiền bán tài sản bảo đảm trước.
1 Xem Điều 297 BLDS năm 2015
VưỚNg MẮC trONg qUá trÌNH XỬ LÝ tài SẢN BẢO đẢM...
58 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
2. Những vướng mắc trong hoạt động
xử lý tài sản thế chấp là các quyền tài sản
Một là, vướng mắc trong việc định
giá quyền tài sản thế chấp
Việc định giá tài sản thế chấp khi xử lý
được thực hiện như một khâu độc lập với
quá trình định giá tài sản khi giao kết hợp
đồng thế chấp và định giá trong quá trình
thực hiện hợp đồng thế chấp. Giá của tài
sản thế chấp tại thời điểm xử lý được xác
định theo thoả thuận của các bên, trường
hợp các bên không thoả thuận được, giá
tài sản thế chấp tại thời điểm xử lý được
xác định là “giá thị trường” của tài sản.
Quyền sở hữu trí tuệ là một trong
những loại tài sản được BLDS năm 2015
quy định có thể đem thế chấp đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ, tuy nhiên trong thực
tiễn, các ngân hàng thương mại thường
không lựa chọn loại tài sản này. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến trình trạng
này là những khó khăn trong việc định giá
chính xác giá trị quyền sở hữu trí tuệ. Thông
thường, các ngân hàng thương mại cho vay
dựa trên việc định giá tài sản bảo đảm để xác
định mức vay. Vì vậy, nếu không xác định
được giá trị tài sản bảo đảm thì các ngân
hàng sẽ không có căn cứ xác định giới hạn
cho vay tối đa theo giá trị tài sản bảo đảm.
Hiện nay có một số phương pháp định giá
quyền sở hữu trí tuệ21, tuy nhiên các phương
pháp này đều có nhược điểm nhất định.
- Phương pháp dựa vào thu nhập:
phương pháp này tập trung vào nguồn thu
nhập ước tính mà chủ sở hữu quyền mong
muốn nhận được trong thời gian quyền sở
hữu trí tuệ32 đang còn hiệu lực. Tuy nhiên,
nhược điểm của phương pháp này là cơ chế
2 Trần Thị Thu Hương, Tạp chí Khoa học và Đào
tạo Ngân hàng, số 170 – tháng 7/2016.
3 Khoản thu này có được thông qua các hợp đồng
li-xăng một quyền sở hữu trí tuệ cụ thể.
định giá không phù hợp, không phản ánh
đúng giá trị thực tế của quyền tài sản thế
chấp, mang tính ý chí chủ quan của người
định giá khi đưa ra các con số dự đoán.
- Phương pháp dựa vào thị trường:
phương pháp này dựa vào việc một bên
thứ ba sẵn sàng mua hoặc thuê quyền
sở hữu trí tuệ thế chấp. Nhược điểm của
phương pháp này là giá trị của quyền sở
hữu trí tuệ đem thế chấp hoàn toàn phụ
thuộc vào nhu cầu thị trường, bên nhận
thế chấp phải cân nhắc rất kỹ khi chấp
nhận làm tài sản bảo đảm.
Hai là, vướng mắc trong việc thu giữ
tài sản thế chấp để xử lý
Để có thể xử lý được tài sản thế chấp là
quyền sử dụng đất, bên nhận thế chấp cần
tiến hành thủ tục thu giữ quyền sử dụng
đất từ những người đang chiếm hữu, sử
dụng quyền sử dụng đất đó (có thể là bên
thế chấp, người đã mua, đã nhận trao đổi
quyền sử dụng đất thế chấp với bên thế
chấp mà không có sự đồng ý của bên nhận
thế chấp). Theo quy định tại Khoản 5
Điều 323 BLDS năm 2015, bên nhận thế
chấp có quyền: “Yêu cầu bên thế chấp hoặc
người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản
đó cho mình để xử lý khi bên thế chấp không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ”. Thực tế đã cho thấy, nếu không có sự
hợp tác, sự tự nguyện của bên thế chấp,
của chủ thể đang trực tiếp chiếm hữu, sử
dụng đất thì không thể xử lý được tài sản
thế chấp bởi bên nhận thế chấp không có
quyền cưỡng chế, tịch thu kê biên quyền
sử dụng đất đã thế chấp. Các Nghị định
hướng dẫn của Chính phủ có quy định về
vai trò của Ủy ban nhân dân cấp cơ sở, cơ
quan Công an43 trong việc thu giữ tài sản
bảo đảm. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân cấp
4 Xem Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006
của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
NGUYỄN HOÀNG LONG
59Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
cơ sở, cơ quan Công an cũng chỉ thực hiện
các công việc có tích chất “hỗ trợ” chứ
không có tính quyết định để buộc bên thế
chấp phải giao tài sản.
Trong trường hợp không thể tự thu
giữ được quyền sử dụng đất thế chấp, bên
nhận thế chấp chỉ có thể gửi đơn đến Tòa
án yêu cầu để cơ quan thi hành án cưỡng
chế thu giữ trên cơ sở phán quyết của Tòa
án51. Các thủ tục tư pháp hiện nay phức
tạp, mất nhiều thời gian, có thể kéo dài
hàng năm, thậm chí vài năm. Tiếp theo là
những khó khăn của quá trình thi hành án
liên quan đến xử lý quyền sử dụng đất thế
chấp, đặc biệt là khâu cưỡng chế, thu giữ
tài sản.
Ba là, vướng mắc về phương thức xử
lý tài sản thế chấp là quyền tài sản
Căn cứ quy định tại Điều 303 BLDS
năm 2015, tài sản thế chấp là quyền tài sản
có thể được xử lý theo các phương thức:
Bán đấu giá tài sản (theo thoả thuận); Bên
nhận bảo đảm tự bán tài sản; Bên nhận
bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế
cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo
đảm; Trường hợp không có thỏa thuận về
phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì tài
sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật
có quy định khác. Quy định này bộc lộ
những bất cập sau đây:
Thứ nhất, về phương thức bán đấu
giá tài sản thế chấp là quyền tài sản. Ưu
điểm của phương thức này là đảm bảo
được tính công khai, minh bạch của quá
trình xử lý thông qua việc cung cấp đầy
đủ các thông tin liên quan đến tài sản và
phiên bán đấu giá tài sản đó; giá bán của
5 Theo khảo sát khối tài chính của WB-IFC-VBA
đối với 85% số ngân hàng được khảo sát, phải mất
trên 3 tháng mới xin được phán quyết của Tòa
án, còn 54% trường hợp thì thời gian này là trên
6 tháng.
tài sản cao hơn hoặc ít nhất là bằng giá
thị trường tại thời điểm bán... Tuy nhiên,
bất cập lại bắt nguồn từ những quy định
của pháp luật về bán đấu giá tài sản cũng
như từ thực tiễn vận dụng các quy định
về bán đấu giá tài sản. Hình thức bán tài
sản thế chấp công khai có thể ảnh hưởng
đến uy tín, hoạt động kinh doanh của
bên thế chấp, chi phí tổ chức bán đấu giá
tài sản khá cao62 Thêm vào đó, do chưa
có cơ chế quản lý, giám sát chặt chẽ nên
có thể dẫn đến hiện tượng thông đồng,
ép giá giữa những người đăng ký mua
tài sản đấu giá73 với tổ chức bán đấu giá
Bên nhận thế chấp, bên bán đấu giá tài
sản không có chức năng cưỡng chế, thu
giữ tài sản thế chấp dẫn đến tình trạng
nhiều khi các thủ tục mở phiên đấu giá
đã hoàn tất nhưng lại chưa thu giữ được
tài sản bảo đảm.
Điểm thiếu sót tiếp theo của Điều luật
là chưa nêu rõ các cơ chế giám sát việc bán
đấu giá tài sản thế chấp, trong đó bao gồm
cả các quyền tài sản thế chấp. Có thể nói,
việc giám sát quá trình bán đấu giá tài sản
là một khâu quan trọng để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho các bên trong quan
hệ thế chấp. Tuy nhiên, Điều luật chưa nêu
rõ các cơ chế giám sát việc bán đấu giá tài
sản thế chấp, trường hợp nào việc bán tài
sản cần đặt dưới sự kiểm soát của Tòa án?
Trường hợp bên nhận thế chấp được bán
tài sản thì cần phải tuân thủ các nghĩa vụ
gì? Việc quy định rõ ràng sẽ tránh được
trường hợp cố tình bán với giá nhỏ hơn
6 Hiện nay ở một số quốc gia trên thế giới, để hạn
chế chi cũng như công khai về việc bán đấu giá tài
sản, pháp luật đã ghi nhận hình thức bán đấu giá
qua mạng, ví dụ như Trung Quốc.
7 Vũ Thị Hồng Yến, “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản
thế chấp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam
hiện hành”, Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2013
VưỚNg MẮC trONg qUá trÌNH XỬ LÝ tài SẢN BẢO đẢM...
60 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
giá trị thật của tài sản, gây thiệt hại cho
bên thế chấp và các chủ thể có quyền liên
quan đến tài sản bảo đảm.
Thứ hai, phương thức nhận chính tài
sản thế chấp để thay thế cho việc thực
hiện nghĩa vụ. Quy định của pháp luật
hiện hành chưa làm rõ được sự khác nhau
giữa việc nhận chính tài sản bảo đảm (có
tính chất như bên nhận thế chấp mua lại
tài sản thế chấp và phải thanh toán giá trị
chênh lệch của tài sản với giá trị của nghĩa
vụ được bảo đảm) với phương thức dùng
tài sản thế chấp để “gán nợ”. Tham khảo
Đạo luật 23/03/2006 của Cộng hoà Pháp,
liên quan đến phương thức xử lý tài sản
bảo đảm, pháp luật Pháp cũng cho phép
bên nhận bảo đảm được nhận tài sản bảo
đảm để trừ nợ. Phương thức này mặc dù
về bản chất giống với phương thức xử lý
tài sản của pháp luật Việt Nam nhưng
trên thực tế có điểm khác biệt:
Một là, đây là phương thức được lựa
chọn bởi chủ nợ chứ không phải theo thỏa
thuận của các bên trong giao dịch bảo
đảm như trong luật Việt Nam.
Hai là, việc áp dụng biện pháp này bắt
buộc trong mọi trường hợp phải thông qua
Tòa án. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam
không yêu cầu điều kiện này, bên thế chấp
và bên nhận thế chấp có thể tự do thỏa
thuận và thực hiện81. Thiết nghĩ, trong các
văn bản hướng dẫn thi hành BLDS năm
2015, cần phải có những hướng dẫn cụ thể
về vấn đề này, tránh tình trạng bên nhận
thế chấp dùng “ưu thế” của mình ép bên
thế chấp phải “gán nợ” bằng tài sản thế
chấp, có như vậy mới bảo vệ được lợi ích
hợp pháp của bên thế chấp.
8 Nguyễn Ngọc Điện, “Thanh lý tài sản thế chấp
trong luật dân sự Pháp theo đạo luật 23/03/2006”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp điện tử.
Bốn là, vướng mắc trong việc xác định
quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản
thế chấp là quyền tài sản
Căn cứ quy định của BLDS năm 200592,
có hai thời điểm để làm căn cứ xác định
thứ tự ưu tiên thanh toán: (i) Thời điểm đăng
ký giao dịch (được áp dụng cho tất cả các
biện pháp bảo đảm); (ii) Thời điểm đăng ký
hoặc giao kết giao dịch bảo đảm (được áp dụng
theo thứ tự đăng ký đối với trường hợp
một tài sản dùng để bảo đảm cho việc thực
hiện nhiều nghĩa vụ). Đây là quy định để
xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử
lý tài sản thế chấp nói chung và cả quyền
tài sản thế chấp nói riêng. Điều luật này đã
bộc lộ một số bất cập sau:
Điều luật mới chỉ quy định về thứ tự
ưu tiên giữa các bên cùng nhận thế chấp đối
với tài sản thế chấp mà chưa quy định về
thứ tự ưu tiên giữa bên nhận thế chấp với
bên thứ ba - những người cùng có quyền
lợi trên tài sản thế chấp như bên mua, bên
nhận trao đổi tài sản thế chấp, chủ nợ không
có bảo đảm của bên thế chấp, cũng như
thiếu những quy định về những trường
hợp ngoại lệ của quyền ưu tiên (hay còn
được gọi là những đặc quyền) như quyền
của cơ quan thuế, của người lao động, của
người cầm giữ đối với tài sản thế chấp.
Quy định về xác định thứ tự ưu tiên
trong trường hợp một tài sản thế chấp
bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa
vụ cũng vẫn còn những khiếm khuyết.
Nếu như BLDS năm 2005 căn cứ vào
thời điểm đăng ký để xác định thứ tự
ưu tiên trong trường hợp một tài sản thế
chấp bảo đảm cho việc thực hiện nhiều
nghĩa vụ, thì BLDS năm 2015 căn cứ vào
thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba10 3 để xác định thứ tự ưu
9 Xem Điều 325 BLDS năm 2005
10 Xem Điều 297 BLDS năm 2015
NGUYỄN HOÀNG LONG
61Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
tiên thanh toán trong trường hợp một
tài sản bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa
vụ. Sự thay đổi này là hợp lý, bởi lẽ
BLDS năm 2015 đã tiếp cận dưới góc độ
vật quyền bảo đảm, ghi nhận quyền của
bên nhận cầm cố, bên cầm giữ tài sản
phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba
kể từ thời điểm bên nhận cầm cố, bên
có quyền cầm giữ nắm giữ hợp pháp tài
sản. Tuy nhiên, trong trường hợp tất cả
các giao dịch thế chấp đều không phát
sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba
(đều không đăng ký), theo điểm c khoản
1 Điều 308 BLDS năm 2015, thứ tự ưu
tiên thanh toán được xác định theo thứ
tự xác lập giao dịch.
Chúng tôi cho rằng quy định này là
không thực sự hợp lý bởi: Một là, thời
điểm giao kết giao dịch thế chấp chỉ có
giá trị ràng buộc giữa các bên là chủ thể
của giao dịch đó mà không có giá trị với
bất cứ người thứ ba nào. Muốn cho giao
dịch đó có hiệu lực với người thứ ba thì
phải có cơ chế để công bố quyền của chủ
thể trong giao dịch đó như đăng ký11. Do
vậy, không thể lựa chọn thời điểm giao kết
giao dịch bảo đảm để làm căn cứ để xác
định thứ tự ưu tiên giữa các bên nhận thế
chấp. Hai là, quy định trên có thể tạo điều
kiện cho các bên “thông đồng” thay đổi
thời điểm xác lập giao dịch thế chấp để
hưởng quyền ưu tiên thanh toán. Vì lẽ đó,
trong trường hợp đối với các hợp đồng
thế chấp đều không đăng ký thì không
đặt ra thứ tự ưu tiên thanh toán, các bên
nhận thế chấp sẽ được thanh toán theo tỷ
lệ phần trăm tương ứng với giá trị nghĩa
vụ được bảo đảm trên số tiền thu được từ
việc bán quyền tài sản thế chấp.
Năm là, vướng mắc về thủ tục sang tên
đối với tài sản thế chấp là quyền tài sản
11 Vũ Thị Hồng Yến, tlđd
Thông thường, khi xử lý tài sản
thế chấp là các quyền tài sản, bên nhận
thế chấp phải cung cấp các loại giấy tờ
chứng minh tính hợp pháp của quyền
tài sản, chứng minh tư cách chủ thể có
quyền đối với tài sản thế chấp là quyền
tài sản và phải chịu trách nhiệm về tính
xác thực của các thông tin đưa ra. Việc
xử lý quyền tài sản thế chấp sẽ diễn ra
hết sức thuận lợi khi có sự hợp tác của
bên thế chấp. Người thứ ba khi mua
quyền tài sản thế chấp dễ dàng đi đăng
ký quyền sở hữu nếu có hợp đồng mua
bán với bên thế chấp – người đang là chủ
sở hữu quyền tài sản. Tuy nhiên, nếu bên
thế chấp không hợp tác, việc bán quyền
tài sản thế chấp gặp vô vàn khó khăn bởi
nếu không có hợp đồng mua bán có chữ
ký của bên thế chấp, người mua quyền
tài sản thế chấp không thể đến cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền đăng ký quyền
sở hữu đối với tài sản đó.
Tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP ghi
nhận: nếu chủ sở hữu của tài sản (bên thế
chấp) bỏ trốn hay không chịu ký tên thể
hiện sự đồng ý sang tên quyền sở hữu tài
sản đó cho người mua, thì hợp đồng thế
chấp đã ký kết được coi là căn cứ để tiến
hành thủ tục sang tên122. Tuy nhiên, trên
thực tế các cơ quan có chức năng thực
hiện việc đăng ký tài sản trong trường
hợp này thường từ chối với lý do không
có hợp đồng mua bán có công chứng của
chủ sở hữu, chỉ dựa vào hợp đồng thế
chấp của bên nhận thế chấp là không đủ
căn cứ để sang tên cho người mua tài sản
bảo đảm.
Xử lý quyền tài sản thế chấp là một
khâu vô cùng quan trọng để bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong quan hệ thế chấp, góp phần thúc
đẩy sự phát triển của hoạt động tín dụng
12 Xem khoản 2 Điều 70 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
VưỚNg MẮC trONg qUá trÌNH XỬ LÝ tài SẢN BẢO đẢM...
62 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
của quốc gia. Xử lý quyền tài sản thế chấp
là sự hiện thực hóa quyền của bên nhận
thế chấp khi quyền lợi đó đã không được
bảo đảm theo một quan hệ trái quyền đã
được thiết lập trong hợp đồng thế chấp
quyền tài sản. Tuy nhiên, các quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành để xử
lý quyền tài sản thế chấp còn chưa hoàn
thiện, bộc lộ nhiều bất cập cần sớm có
những giải pháp khắc phục. Có như vậy
mới thúc đẩy được sự phát triển của các
hoạt động tín dụng, gián tiếp thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế đất nước.
3. Các giải pháp đề xuất
Thứ nhất, cần có những quy định
hướng dẫn cụ thể về việc nhận thế chấp
quyền sở hữu trí tuệ. Đưa ra những tiêu
chuẩn cụ thể xác định điều kiện cho vay
khi nhận bảo đảm bằng quyền sở hữu trí
tuệ tại các tổ chức tín dụng. Hàng năm,
cần có các thống kê, báo cáo về thị trường
quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo lập một hệ
thống thông tin đáng tin cậy cho các đối
tượng quan tâm. Có những dự án, chương
trình giúp nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng của quyền sở hữu trí tuệ, giúp xã hội
gia tăng nhận thức về quyền sở hữu trí
tuệ, lâu dài giúp mở rộng thị trường người
mua, người bán cũng như giúp bảo vệ giá
trị của các quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, trên cơ sở thừa nhận quyền
của bên nhận thế chấp trên tài sản thế chấp,
cần quy định về quyền được thu giữ tài
sản bảo đảm của bên nhận thế chấp. Trong
trường hợp đã được thông báo và đến thời
hạn phải giao tài sản thế chấp cho bên nhận
thế chấp xử lý, nếu bên thế chấp chây ì thực
hiện nghĩa vụ sẽ được xác định là hành vi
chiếm hữu tài sản trái pháp luật, tuỳ từng
trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự tội chiếm giữ trái phép tài sản theo
Điều 176 Bộ luật hình sự năm 2015.
Thứ ba, phải đặt ra cơ chế giám sát
đối với quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Cụ
thể, trong các văn bản hướng dẫn thi hành
BLDS cần liệt kê rõ những trường hợp
khi bán tài sản bảo đảm hoặc nhận tài sản
bảo đảm để bù trừ nghĩa vụ của bên thế
chấp phải đặt dưới sự giám sát của Toà án.
Tránh tình trạng bên nhận thế chấp dùng
“ưu thế” của mình ép bên thế chấp phải
“gán nợ” bằng tài sản thế chấp, hoặc bán
tài sản thế chấp nhỏ hơn giá trị thật của tài
sản, gây thiệt hại cho bên thế chấp.
Thứ tư, sửa đổi quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 308 BLDS năm 2015 theo
hướng, trong trường hợp đối với các hợp
đồng thế chấp đều không đăng ký thì
không đặt ra thứ tự ưu tiên thanh toán,
các bên nhận thế chấp sẽ được thanh toán
theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm trên số tiền thu
được từ việc bán quyền tài sản thế chấp./.
tài LiỆU tHaM kHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2005
2. Bộ luật Dân sự năm 2015
3. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009
4. Luật Doanh nghiệp năm 2014
5. Bộ luật Dân sự Pháp
6. Bộ luật Dân sự Nhật Bản
7. Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của chính phủ về giao dịch bảo đảm
8. Vũ Thị Hồng Yến, “Tài sản thế chấp và
xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật
dân sự Việt Nam hiện hành”, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013.
9. Trần Thị Thu Hương, Tạp chí Khoa học
và Đào tạo Ngân hàng, số 170 – tháng 7/2016.
10. Nguyễn Ngọc Điện, “Thanh lý tài sản thế
chấp trong luật dân sự Pháp theo đạo luật 23/03/2006”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vuong_mac_trong_qua_trinh_xu_ly_tai_san_bao_dam_la_cac_quyen.pdf